Xã hội mở Cải cách chủ nghĩa tư bản toàn cầu


Tín dụng như một nguồn bất ổn định



tải về 1.75 Mb.
trang14/25
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích1.75 Mb.
#13428
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   25

Tín dụng như một nguồn bất ổn định

Tiền gắn mật thiết với tín dụng, nhưng vai trò của tín dụng không được hiểu thật rõ. Tín dụng là một hiện tượng phản thân, trong đó, tính sẵn có của tín dụng phụ thuộc vào giá trị thế chấp và giá trị tài sản thế chấp lại bị ảnh hưởng bởi tính sẵn có của tín dụng. Điều này đặc biệt đúng với bất động sản, một dạng thế chấp được ưa chuộng. Các ngân hàng thường sẵn lòng cho vay, dựa vào bất động sản mà không trông cậy vào người đi vay, và biến số chính trong giá trị của bất động sản là lượng tiền mà ngân hàng, dựa vào nó, sẵn lòng cho vay. Có thể có vẻ lạ, quan hệ phản thân không được nhận ra trong lí thuyết, và thường bị quên đi trong thực tiễn. Ngành xây dựng khét tiếng vì đặc tính boom-bust của nó, và sau mỗi đợt suy sụp (bust), các nhà quản lí ngân hàng trở nên rất thận trọng và quyết tâm không bao giờ tự phơi ra cho rủi ro nữa. Nhưng khi họ có thể có nhiều tiền mặt và rất cần đưa tiền vào hoạt động, một chu kì mới lại bắt đầu.

Cùng hình mẫu đó, có thể quan sát được trong sự cho vay quốc tế: Khả năng trả được nợ của các nước đi vay có chủ quyền được đo bằng các tỉ lệ nào đó - nợ như phần trăm của GNP, dịch vụ nợ như phần trăm của xuất khẩu, và các tỉ lệ tương tự. Các số đo này mang tính phản thân vì sự thịnh vượng của nước đi vay phụ thuộc vào khả năng đi vay của nó. Lại một lần nữa, quan hệ phản thân thường bị bỏ qua. Đó là điều đã xảy ra trong boom cho vay quốc tế lớn của các năm 1970: Sau khủng hoảng 1982, có thể nghĩ rằng việc cho vay tràn lan sẽ chẳng bao giờ tái diễn. Thế mà nó vẫn xảy ra, ở Mexico năm 1994 và lần nữa ở Hàn Quốc, Nga, và các nơi khác năm 1997.

Hầu hết các nhà lí thuyết kinh tế không nhận ra tính phản thân. Họ tìm cách xác lập các điều kiện cân bằng, và tính phản thân là một nguồn bất cân bằng. John Maynard Keynes đã ý thức rất nhiều về các hiện tượng phản thân - ông mô tả các thị trường tài chính như một cuộc đua sắc đẹp, nơi người ta phải phán đoán xem những người khác phán đoán ra sao về những người khác phán đoán ra sao và bản thân kiếm được bộn tiền như một nhà đầu cơ - nhưng ngay cả ông vẫn trình bày lí thuyết của mình bằng khái niệm cân bằng để làm cho nó có thể chấp nhận được về mặt học thuật.

Cách được ưa thích để tránh tính phản thân cố hữu trong tín dụng là tập trung vào cung tiền. Nó có thể đo được, và được cho là phản ánh các điều kiện tín dụng. Bằng cách này, các hiện tượng phản thân gắn với mở rộng và thu hẹp tín dụng có thể bị bỏ qua, không được tính đến. Tuy nhiên, một cung tiền ổn định không tạo ra một nền kinh tế ổn định. Thái quá có thể tự hiệu chỉnh - nhưng với cái giá nào? Trong thế kỉ mười chín, khi cung tiền được các qui tắc vô tư của bản vị vàng quốc tế điều tiết, sự hoảng loạn tàn phá kéo theo suy thoái kinh tế.

Trong Đại Suy thoái của các năm 1930, Keynes đã không tin chủ nghĩa trọng tiền và thay nó bằng một lí thuyết thừa nhận tầm quan trọng của tín dụng. Đơn thuốc của ông để chữa thiểu phát là chi tiêu của chính phủ dẫn đến sự nổi lên của các khu vực nhà nước phồng lên và các xu hướng lạm phát. Sau cái chết của ông, cách tiếp cận của ông không còn được ưa chuộng. (Giả như Keynes còn sống, chắc có lẽ ông đã thay đơn thuốc của mình). Duy trì tính ổn định tiền tệ lại trở thành mục tiêu hàng đầu. Điều này dẫn đến sự tái phát minh ra lí thuyết trọng tiền bởi Milton Friedman. Nhưng lí thuyết của Friedman có sai sót, vì nó bỏ qua yếu tố phản thân trong mở rộng và thu hẹp tín dụng.

Trên thực tiễn, chính sách tiền tệ từ giữa các năm 1980 đã hoạt động khá tốt, nhưng chủ yếu bằng cách bỏ qua lí thuyết trọng tiền. Các ngân hàng trung ương không dựa chỉ riêng - hoặc thậm chí chủ yếu - vào các phép đo lường về cung tiền mà cũng tính đến các yếu tố khác nhau khác (bao gồm tính hồ hởi phi lí của các thị trường) trong quyết định duy trì tính ổn định tiền tệ thế nào. Ngân hàng trung ương Đức đã cố duy trì ảo tưởng được chỉ dẫn bởi các tổng lượng tiền tệ, nhưng những người tham gia thị trường đã học được từ cách ứng xử của nó rằng: Ðiều này phần nhiều là một huyền thoại. Ngược lại, Cục Dự trữ Liên bang đã theo thuyết bất khả tri hơn và công khai thú nhận rằng: Chính sách tiền tệ là vấn đề về phán xét. Các tuyên bố của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Alan Greenspan là các bài tập về tính phản thân và giống như các lời sấm của nhà tiên tri Delphic. Khi chủ tịch của một ban quốc hội cảm ơn ông do đã mô tả tình tình kinh tế rất rõ ràng, Greenspan đã trả lời: “Thế thì tôi e là tôi đã bị hiểu lầm”.

Tín dụng đóng một vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Khả năng có thể vay làm tăng rất nhiều tính sinh lời của các khoản đầu tư. Một khoản đầu tư càng có thể dựa vào đòn bẩy (tài chính), thì suất lợi tức càng cao - với điều kiện chi phí tiền tệ như nhau. Chi phí và tính sẵn có của tín dụng, như thế, trở thành các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mức hoạt động kinh tế. Căn cứ vào tính phản thân của nó, tín dụng không biểu lộ xu hướng tới cân bằng; thực vậy, nó có lẽ là nhân tố quan trọng nhất quyết định hình thù bất đối xứng của chu kì boom-bust. Có thể có các nhân tố khác tham gia, nhưng chính việc thu hẹp tín dụng là cái làm cho bust đột ngột hơn nhiều boom đi trước nó. Khi buộc phải thanh lí các khoản nợ, bán tài sản thế chấp, đẩy giá trị của tài sản thế chấp xuống, gây ra một quá trình tự tăng cường bị nén lại về mặt thời gian hơn pha mở rộng nhiều. Điều này đúng bất luận tín dụng được các ngân hàng hay các thị trường tài chính cung cấp và bất luận việc vay dựa vào chứng khoán hay các tài sản vật chất.

Tín dụng quốc tế đặc biệt bất ổn định vì nó không được điều tiết tốt như tín dụng nội địa ở các nước kinh tế phát triển. Kể từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời, đã từng có các khủng hoảng tài chính có chu kì, thường với các hậu quả tàn khốc. Để ngăn chặn sự tái diễn, các ngân hàng và thị trường tài chính phải bị điều tiết, nhưng các qui chế thường để giải quyết khủng hoảng vừa qua chứ không phải cái kế tiếp, cho nên mỗi cuộc khủng hoảng mới dẫn đến một kết cấu tài chính mới. Đó là cách mà hoạt động ngân hàng trung ương, giám sát hoạt động ngân hàng, và giám sát các thị trường tài chính đã tiến hoá đến trạng thái rất tinh tế hiện thời.

Nhưng những sự phát triển như vậy không mang tính tuyến tính. Sự sụp đổ 1929 và sự thất bại tiếp theo của hệ thống ngân hàng Hoa Kì dẫn đến môi trường điều tiết hạn chế đối với các ngân hàng Mĩ cũng như của thị trường cổ phiếu. Sau Chiến tranh Thế giới II, một quá trình cởi mở hơn bắt đầu, đầu tiên rất chậm nhưng tăng tốc dần dần. Và dù là sự tách biệt giữa các ngân hàng và các định chế tài chính khác được Luật Glass-Streagal áp đặt đã không được bãi bỏ hàng thập kỉ, qui chế của cả các ngân hàng và thị trường tài chính đã ngày càng được nới lỏng. [5]

Phi điều tiết và toàn cầu hoá các thị trường tài chính đã xảy ra một cách phản thân mật thiết với nhau. Hầu hết các qui chế có phạm vi quốc gia, cho nên toàn cầu hoá các thị trường có nghĩa là ít điều tiết hơn và ngược lại. Nhưng đó không phải là con đường một chiều. Ngay khi các qui chế quốc gia được nới lỏng, các qui chế quốc tế được đưa vào. Hai định chế Bretton Wood, IMF và Ngân hàng Thế giới, đã thích ứng với thay đổi và trở nên tích cực hơn như những người kiểm soát toàn cầu. Các nhà chức trách tiền tệ của các quốc gia công nghiệp dẫn đầu thiết lập các kênh để hợp tác, và một số qui chế quốc tế đích thực được đưa ra. Quan trọng nhất là những yêu cầu về vốn đối với các ngân hàng thương mại được xác lập dưới sự bảo hộ của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế ở Basle năm 1988.

Thực ra, nếu không có sự can thiệp của các nhà chức trách tiền tệ thì hệ thống tài chính quốc tế đã có thể sụp đổ ít nhất bốn lần: 1982, 1987, 1994, và 1997. Tuy nhiên, sự kiểm soát quốc tế vẫn rất không thoả đáng so với môi trường điều tiết thịnh hành ở các nước tiên tiến. Hơn nữa, các nhà chức trách tiền tệ ở trung tâm chắc có thể phản ứng với các khủng hoảng ảnh hưởng trực tiếp đến họ hơn là với các khủng hoảng mà nạn nhân của chúng ở ngoại vi. Đáng lưu ý là sự sụp đổ 1987 của thị trường cổ phiếu Hoa Kì, có xuất xứ thuần tuý nội địa, đã dẫn đến các thay đổi qui chế, cụ thể là, đưa ra cái gọi là ngắt mạch (tạm dừng giao dịch); những sự nhiễu loạn trong các thị trường tài chính quốc tế đã không gây ra đáp ứng tương tự. Mặc dù việc đưa ra các yêu cầu về vốn theo Thoả ước Basle 1988 đã là một câu trả lời chậm cho khủng hoảng 1982, sự thực vẫn là vì các qui chế quốc tế đã không theo kịp bước với sự toàn cầu hoá của các thị trường tài chính.

Sự không thoả đáng của các qui chế quốc tế có thể qui một phần cho sự thất bại để hiểu bản chất phản thân của tín dụng và một phần cho tâm trạng thịnh hành về chống điều tiết, nhưng chủ yếu do thiếu các định chế quốc tế thích hợp. Các hệ thống tài chính quốc gia là do các ngân hàng trung ương và các nhà chức trách tài chính khác cai quản. Nhìn chung, họ làm việc tốt, và đã không có sự sụp đổ có hệ thống nào trong các nước công nghiệp chủ chốt hàng thập kỉ nay. Nhưng ai chịu trách nhiệm về hệ thống tài chính quốc tế? Các định chế tài chính quốc tế và các nhà chức trách tài chính quốc gia hợp tác với nhau khi có khủng hoảng, nhưng không có ngân hàng trung ương quốc tế, không có các nhà chức trách điều tiết quốc tế na ná như các định chế ở mức quốc gia. Các định chế Bretton Woods đã thử lấp lỗ trống và đã thành công một lúc. Nhưng cuối cùng, khoảng cách giữa nguồn lực của chúng và khối lượng của dịch chuyển vốn quốc tế trở nên quá lớn, và trong khủng hoảng 1997-1999 chúng thất bại một cách ngoạn mục. Sự đáp lại chính trị đã làm giảm thay vì làm tăng cường quyền lực và ảnh hưởng của IMF. Như tôi sẽ tranh luận ở Chương 10, điều này làm cơ cấu tài chính quốc tế yếu nhiều đi.



[11/17]

© 2004 talawas





[1]Viết đoạn này, tôi bị ảnh hưởng sâu sắc bởi Karl Polányi, The Great Transformation (Boston: Beacon Press, 1989).
[2]Chú thích của dịch giả : con bê (bằng) vàng; nghĩa đen là vua: Khi Moses gặp Đức Chúa trên núi Sinai về, thấy dân chúng gom vàng đúc con bê để tôn sùng, ông tức giận, muốn đập vỡ các tấm bia Lề luật. Xem Kinh thánh, Cựu ước & Tân ước, NXB Tp. HCM, 1998; Xuất hành 32; tr. 164-165.
[3]Không đúng với chăm sóc sức khoẻ. Pháp đứng đầu, Vương quốc Anh thứ mười tám, và Hoa Kì thứ ba mươi bảy.
[4]Dani Rodrik, Has Globalization Gone Too Far? (Washington, D. C.: Institute for International Economics, 1997).
[5]Luật Glass-Steagal cuối cùng được bãi bỏ vào 12-11-1999.

Bất đối xứng, bất ổn định, và sự cố kết

Theo định nghĩa, trung tâm là nhà cung cấp vốn, ngoại vi là người nhận. Sự thay đổi đột ngột về sự sẵn lòng của trung tâm để cấp vốn cho ngoại vi có thể gây ra hỗn loạn nghiêm trọng ở các nước tiếp nhận. Bản chất của hỗn loạn phụ thuộc vào dạng vốn được cung cấp. Các công cụ nợ và tín dụng ngân hàng có thể gây ra phá sản và khủng hoảng ngân hàng; nếu đầu tư ở dạng cổ phiếu, nó có thể đẩy nhanh rối loạn của thị trường cổ phiếu. Đầu tư trực tiếp ít gây hỗn loạn nhất; cái xấu nhất có thể xảy ra là thiếu đầu tư mới. Thường tất cả các hình thức vốn dịch chuyển theo cùng chiều.

Cái gì xảy ra khi một nước không trả được nợ của nó? Câu trả lời bị bao phủ trong sự huyền bí, bởi vì vỡ nợ chính thức thường được tránh. Có cảm tưởng chung rằng nước liên quan sẽ chịu tổn thất không sửa được, nhưng trong thực tế, nhiều nước không thoả mãn các nghĩa vụ, và người ta đã tìm ra những cách để dàn xếp chúng. Tiếp theo khủng hoảng nợ quốc tế 1982, Câu Lạc Bộ Paris được thiết lập để giải quyết nợ chính thức, Câu Lạc Bộ London cho nợ thương mại. Khi bụi đã lắng xuống, cái gọi là trái phiếu Brady được phát hành để thay thế các trái phiếu còn tồn đọng.

Cho đến mới đây, các chủ nợ có xu hướng làm ăn tốt hơn nhiều so với con nợ trong khủng hoảng nợ quốc tế. Họ có thể phải gia hạn các khoản vay, kéo dài ngày đáo hạn, hoặc thậm chí cho mức nhượng bộ, song họ không phải từ bỏ quyền đòi của họ. Mặc dù IMF không được cho là thiên vị với người cho vay, sứ mạng hàng đầu của nó là duy trì hệ thống tiền tệ quốc tế, và tìm cách tránh các cú sốc đột ngột đối với khả năng trả được nợ của các ngân hàng chủ yếu. Hơn nữa, nó đã không có đủ nguồn lực để hành động như người cho vay cuối cùng; vì vậy, nó cần huy động sự giúp đỡ từ các ngân hàng, và các ngân hàng đã biết lợi dụng thế nào vị thế chiến lược của chúng. Đôi khi, thậm chí họ có thể thuyết phục các nước mắc nợ nhận trách nhiệm của các ngân hàng nội địa, các tổ chức nếu khác đi sẽ bị quét sạch (đó là cái đã xẩy ra ở Chile 1982, ở Mexico 1994, và lần nữa, ở mức độ hạn chế, ở Hàn Quốc 1998). Tất nhiên, những người cho vay phải lập các quỹ dự phòng, nhưng rốt cuộc chúng thường thu được một phần đáng kể các khoản nợ xấu. Hơn nữa, các ngân hàng thường dựa vào sự giúp đỡ của các nhà chức trách tiền tệ quốc gia để bù đắp các tổn thất tín dụng. Cục Dự trữ Liên bang đã giữ lãi suất ngắn hạn thấp ở Hoa Kì một cách chủ ý từ 1991 đến 1993 để cho phép các ngân hàng Mĩ chật vật tái lập tính sinh lời; Ngân hàng Nhật Bản đã làm như thế từ 1995. Song các nước mắc nợ không được hưởng sự giảm nhẹ có thể so sánh được. Sự giúp đỡ quốc tế thường được thiết kế để làm cho họ có khả năng thoả mãn nghĩa vụ nợ. Mặc dù họ có thể không có khả năng trả hết nợ, họ buộc phải trả ở mức giới hạn của khả năng của họ. Gánh nặng thường ghìm họ xuống hàng năm trời.

Điều này trái ngược rõ rệt với các khủng hoảng nợ nội địa ở các nước tiên tiến, nơi các thủ tục phá sản hướng tới việc bảo vệ các con nợ. Thí dụ, các ngân hàng Hoa Kì mất nhiều tiền trong khủng hoảng tiết kiệm-và-vay các năm 1985-1989 hơn trong khủng hoảng nợ quốc tế 1982. Trong trường hợp cho vay quốc tế, kết quả thuần của các chính sách của IMF đã là cứu giúp các chủ nợ, gây ra hiểm hoạ đạo đức nguy hiểm. Tất cả điều này bây giờ đang thay đổi (xem Chương 10).

Bất đối xứng về đối xử với những người cho vay và đi vay là một nguồn bất ổn định chính. Mỗi khủng hoảng tài chính đều xảy ra sau khi mở rộng tín dụng không thể duy trì nổi. Nếu tín dụng có thể kiếm được tự do, thì đúng là kì vọng quá nhiều vào việc các con nợ tự kiềm chế.  Nếu khu vực công đi vay, món nợ phải được chính phủ tương lai trả - tăng nhanh nợ là cửa thoát hiểm tuyệt vời cho các chế độ yếu. Thí dụ, chế độ cộng sản cải cách ở Hungary đã thử mua lòng trung thành của nhân dân bằng tiền đi vay, cho đến khi khủng hoảng 1982 làm chấm dứt tập quán đó. Nhưng không chỉ có khu vực công thiếu kiềm chế, khi khu vực tư nhân tích tụ các món nợ, các nhà chức trách tiền tệ thậm chí thường không biết tới, cho đến khi đã quá muộn. Đó là trường hợp ở nhiều nước Á Châu năm 1997.

Tuy nhiên, sự bất đối xứng cũng là một nguồn cố kết. Mọi loại áp lực tài chính và chính trị đều chĩa vào các nước mắc nợ, làm khó cho họ để quyết định không tham gia vào hệ thống bằng cách bội ước các nghĩa vụ. Áp lực dùng để giữ hệ thống lại với nhau, ngay cho dù nó là đau đớn với các nước để là thành viên. Thí dụ, cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên ở Hungary năm 1990 đã có thể cho một cơ hội tuyệt vời để vạch đường ranh giới giữa nợ nần cũ và các nghĩa vụ mới mà chế độ dân chủ mới ràng buộc vào. Tôi đã cố chuẩn bị một sơ đồ như vậy, nhưng thủ tướng tương lai, Joseph Antal, nuốt lời vì ông ta đã quá chịu ơn nước Đức, chủ nợ lớn nhất của Hungary. Có các thí dụ khác; tôi nhớ mãi Chile năm 1982. Dưới ảnh hưởng của trường phái Chicago, hệ thống ngân hàng Chile đã được tư nhân hoá, và các nhà kinh doanh mua các ngân hàng đã sử dụng tiền vay từ bản thân ngân hàng. Năm 1982, khi các ngân hàng không thể thoả mãn các nghĩa vụ quốc tế của mình, nhà nước đã gánh trách nhiệm về nợ của các ngân hàng đã được tư nhân hoá vì chế độ Pinochet, thiếu tính hợp pháp trong nước, đã hăm hở duy trì mức tín nhiệm của nó ở nước ngoài. Kết quả là, những người đóng thuế phải thanh toán hoá đơn.

Cần phải nhắc tới các bất đối xứng khác nữa. Phát hành tiền là đặc quyền quốc gia, và các quốc gia mà đồng tiền của họ dễ được chấp nhận trong các giao dịch quốc tế có vị thế tốt hơn nhiều so với các nước không thể đi vay bằng đồng tiền của mình. Đây là một trong các lợi thế chính để ở trung tâm đối lại với ngoại vi. Lợi ích kiếm được lãi đúc tiền (tiết kiệm lãi bằng cách phát hành giấy bạc ngân hàng hơn là tín phiếu kho bạc) là tương đối không quan trọng so với việc tự chịu trách nhiệm về chính sách tiền tệ của riêng mình. Các nước ngoại vi phải theo sự ra hiệu từ trung tâm - trước hết là Hoa Kì. Vì chính sách tiền tệ của các nước trung tâm được các cân nhắc nội địa chỉ dẫn, các nước ngoại vi có ít quyền kiểm soát tới số phận riêng của mình.

Sự thực, các đồng tiền chủ yếu biến động so với nhau cũng là một nguồn bất ổn định. Sự thay đổi lãi suất và tỉ giá hối đoái đánh vào các nước phụ thuộc như các cú sốc bên ngoài, dù cho trong thực tế, nó là nội sinh đối với hệ thống. Khủng hoảng nợ quốc tế 1982 đã được đẩy nhanh bởi sự tăng mạnh lãi suất nội địa ở Hoa Kì; khủng hoảng Á Châu 1997 gắn với sự lên giá đôla Mĩ. Năm 2000, đồng euro yếu gây căng thẳng.

Sự cách biệt giữa trung tâm và ngoại vi không giới hạn ở hệ thống tài chính toàn cầu; nó đã cũng hiện diện trong Cơ chế Tỉ giá hối đoái Âu Châu (ERM). Bundesbank đóng vai trò kép: Theo hiến pháp Đức, nó có bổn phận duy trì giá trị đồng mark Đức, và đồng thời nó de facto là trọng tài của chính sách tiền tệ cho hệ thống tiền tệ Âu Châu. Hai vai trò trở nên mâu thuẫn sau khi thống nhất nước Đức. Những cân nhắc nội địa đòi chính sách tiền tệ chặt; tình hình kinh tế của phần còn lại của Châu Âu đòi hỏi điều ngược lại. Không ngạc nhiên khi các cân nhắc nội địa thắng thế, và ERM sụp đổ năm 1992.

Hai bất đối xứng này - giữa người cho vay và người đi vay và giữa trung tâm và ngoại vi - là các nguồn căn bản - song không duy nhất - của bất ổn định trong hệ thống tài chính quốc tế. Các khoản đầu tư chứng khoán cũng khét tiếng bất ổn định. Về mặt lịch sử, các khoản đầu tư ở nước ngoài thường xuất hiện ở các giai đoạn cao của các thị trường giá lên, khi các cổ phiếu nội địa được đánh giá quá cao và được lợi dụng quá mức, và các nhà đầu tư trở nên phiêu lưu hơn. Sự quan tâm đột ngột đến một thị trường nước ngoài sẽ đẩy giá ở đó lên đến đỉnh, cuối cùng sẽ rớt cũng nhanh như thế, khi thị trường giá lên nội địa chấm dứt và các nhà đầu tư lo lắng để rút tiền về. Đây là lĩnh vực chuyên môn khởi đầu của tôi, và tôi đã trải qua nhiều tình tiết như vậy. Tình hình từ đó đã thay đổi. Đầu tư ở nước ngoài không còn là hoạt động thi thoảng mà đúng hơn đã trở thành kế sinh nhai của các nhà đầu tư định chế. Mặc dù nhịp độ cá biệt của đầu tư nước ngoài mà tôi đã quen có thể đã lỗi thời, sẽ ngu xuẩn để nghĩ rằng các thị trường cổ phiếu không còn dễ bị tổn thương với bất cân bằng động. Trong thời kì bất trắc, vốn có xu hướng quay về chỗ ban đầu của nó. Đó là lí do khác nữa, vì sao, các nhiễu loạn thường có ảnh hưởng lớn không cân xứng ở ngoại vi so với trung tâm. Thường một nhiễu loạn nhỏ ở trung tâm bị phóng đại lên thành một khủng hoảng ở ngoại vi. Khủng hoảng tài chính 1997-1999 là khác thường, thậm chí độc nhất, ở khía cạnh này vì xung đã không đến từ trung tâm.

Bất chấp tính bất đối xứng và không ổn định của nó - hay đúng hơn vì nó - hệ thống tư bản toàn cầu biểu hiện sự cố kết đáng kể. Ở ngoại vi có những bất lợi của nó, song không tham gia không phải là một lựa chọn khả dĩ. Sự cô lập có thể tước mất của các nước nghèo không chỉ vốn mà cả đổi mới công nghệ nữa.

Đặt chủ đề vào viễn cảnh, hệ thống tư bản toàn cầu đã mang lại lợi ích vật chất to lớn. Người ta ước lượng rằng toàn cầu hoá làm tăng 1 phần trăm hàng năm cho nền kinh tế thế giới. Mặc dù các quân bài được sắp xếp có lợi cho trung tâm, các nước ngoại vi có khả năng thu hút vốn cũng đã thịnh vượng. Khủng hoảng 1997-1999 giáng xuống Châu Á sau một thời kì tăng trưởng bùng nổ, và sự phục hồi đã nhanh hơn có thể kì vọng. Cho nên cùng với tính cố kết của nó, hệ thống cũng chứng tỏ khả năng hồi phục mau đáng kể, đối trọng lại với mặt tiêu cực của nó về bất đối xứng và bất ổn định.




Tương lai của hệ thống tư bản toàn cầu

Có thể nói gì về tương lai của hệ thống tư bản toàn cầu? Lịch sử cho các manh mối nào đó. Đây không phải là lần đầu vốn (tư bản) chảy tự do. Theo cách nào đó, phiên bản thế kỉ mười chín của chủ nghĩa tư bản toàn cầu đã ổn định hơn. Nó đã có một đồng tiền duy nhất – vàng - trong khi ngày nay có ba đồng tiền chính - dollar, yen, và euro - xô đẩy nhau như các địa tầng. Lúc đó các cường quốc đế quốc, Anh đứng đầu trong số họ - đã kiếm đủ lợi từ hệ thống để biện minh cho việc phái các pháo hạm đến các vùng xa xôi để duy trì hoà bình và thu nợ; ngày nay Hoa Kì từ chối là cảnh sát thế giới. Quan trọng nhất, người dân đã bắt rễ chắc vào các giá trị căn bản hơn ngày nay. Thực tại vẫn đã được coi là cái gì đó ở bên ngoài, và tư duy vẫn được coi là công cụ thể đạt tới tri thức. Đúng và sai, thật và giả đã được coi là các tiêu chuẩn khách quan mà người dân phụ thuộc vào. Khoa học đã cho các giải thích và tiên đoán tất định. Cứ cho là như vậy, đã có các mâu thuẫn giữa các đơn thuốc của khoa học và tôn giáo, nhưng cùng nhau, chúng đã cho một sự chỉ dẫn đáng tin cậy cho thế giới. Chúng đã tạo ra một nền văn minh đã chế ngự thế giới bất chấp các mâu thuẫn nội tại của nó.

Hệ thống tư bản toàn cầu này đã chấm dứt do Chiến tranh Thế giới I. Đã có một số khủng hoảng tài chính trước cuộc chiến đó, trong số đó, vài cuộc khủng hoảng tài chính đã rất gay gắt, gây ra trục trặc và suy giảm kinh tế nhiều năm trời. Tuy nhiên, không phải các cuộc khủng hoảng kinh tế đã huỷ diệt hệ thống mà là chiến tranh và các cuộc cách mạng chính trị sau đó.



Một kiếp khác của chủ nghĩa tư bản quốc tế tiếp theo trong các năm 1920, mặc dù nó không đúng là toàn cầu về qui mô. Nó sụp đổ năm 1929, nhưng tôi nghi ngờ là một tình tiết tương tự sẽ tái diễn, vì để cho hệ thống ngân hàng Hoa Kì sụp đổ đã là một sai lầm chính trị mà chúng ta chắc sẽ không mắc lại. Tuy nhiên, tôi thấy bất ổn định trước mặt.


Boom-Bust

Tôi miễn cưỡng áp dụng mô hình boom-bust với hệ thống tư bản toàn cầu vì tôi coi hệ thống quá bỏ ngỏ và chưa đầy đủ để khớp với hình mẫu. Hầu như chống lại đánh giá tốt hơn của tôi - không nên diễn giải mọi thứ như một hiện tượng boom-bust- tôi có thể nhận ra các yếu tố của hình mẫu boom-bust: Một xu thế thịnh hành - cụ thể là, cạnh tranh quốc tế vì vốn; và một thiên kiến thịnh hành - cụ thể là, quá tin vào cơ chế thị trường. Trong boom, cả thiên kiến và xu thế tăng cường lẫn nhau; trong bust, cả hai sẽ tan vỡ. Cái gì gây ra bust? Tôi tin câu trả lời được tìm thấy ở sự căng thẳng giữa phạm vi toàn cầu của các thị trường tài chính và phạm vi quốc gia của chính trị. Trước tôi đã mô tả hệ thống tư bản toàn cầu như một hệ tuần hoàn khổng lồ hút vốn về trung tâm và đẩy nó ra ngoại vi. Các quốc gia có chủ quyền hoạt động như các van trong hệ thống. Khi các thị trường tài chính mở rộng, các van mở, nhưng nếu và khi dòng tiền vốn đảo ngược chúng có thể đóng, gây ra sự đổ vỡ hệ thống. Theo giả thuyết này, tôi sẽ khảo sát hệ tư tưởng thịnh hành đầu tiên, thứ đến là xu thế thịnh hành.


Thuyết thị trường chính thống

Hệ thống tư bản toàn cầu được một ý thức hệ bén rễ vào lí thuyết cạnh tranh hoàn hảo ủng hộ. Theo lí thuyết này, các thị trường có xu hướng tới cân bằng, vì vị trí cân bằng đại diện cho sự phân bổ nguồn lực hiệu quả nhất. Bất kể ràng buộc nào lên cạnh tranh tự do đều gây trở ngại cho tính hiệu quả của thị trường; vì vậy phải phản đối chúng. Hệ tư tưởng này đã được gọi là “laissez-faire” ở thế kỉ mười chín, nhưng tôi đã tìm ra thuật ngữ tốt hơn cho nó: “thuyết thị trường chính thống”. Thuyết chính thống hàm ý: Niềm tin được thực hiện đến cực đoan. Chính là niềm tin vào sự hoàn hảo, niềm tin cung cấp một giải pháp cho mỗi vấn đề. Nó thừa nhận một uy quyền được phú cho tri thức hoàn hảo, cho dù là tri thức như vậy, những người bình thường không dễ tiếp cận được. Tôn giáo có thể là một uy quyền như vậy, và trong thời hiện đại, khoa học trở thành cái thay thế đáng tin cậy. Chủ nghĩa Marx tự cho là có cơ sở khoa học, và thuyết thị trường chính thống cũng vậy. Cơ sở khoa học cho cả hai ý thức hệ được xác lập ở thế kỉ mười chín, khi khoa học vẫn hứa hẹn cung cấp chân lí cuối cùng. Chúng ta đã học được rất nhiều kể từ đó về các hạn chế của phương pháp khoa học và những bất hoàn hảo của cơ chế thị trường. Các hệ tư tưởng Marxist và laissez-faire đã bị mất uy tín hoàn toàn. Hệ tư tưởng laissez-faire là cái đầu tiên bị gạt bỏ, như hậu quả của Đại Suy thoái và sự nổi lên của kinh tế học Keynes. Chủ nghĩa Marx nấn ná bất chấp thái quá của chủ nghĩa Stalin, nhưng tiếp theo sự sụp đổ của hệ thống Soviet, bây giờ, nó gần lu mờ hoàn toàn.

Vào những ngày sinh viên của tôi đầu các năm 1950, laissez-faire đã thậm chí không được chấp nhận bằng sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế ngày nay. Ý tưởng nó xuất hiện lại đã hình như không thể hình dung nổi. Tôi tin sự hồi sinh của thuyết thị trường chính thống có thể được giải thích chỉ bằng niềm tin vào ma thuật, cái thậm chí còn thuyết phục hơn cơ sở khoa học. Tổng thống Reagan đã nói về “ma thuật của thương trường” - bàn tay vô hình là ma thuật hùng mạnh thật sự.

Nét chủ chốt của bất kể niềm tin chính thống nào đều dựa vào các đánh giá trắng-đen, hoặc-hoặc. Nếu một định đề hay chính sách là sai, cái ngược lại phải đúng. Logic non sequiter [1] này nằm ở tâm của cả Chủ nghĩa Marx và thuyết thị trường chính thống. Chủ nghĩa Marx cho rằng quyền sở hữu tư nhân về vốn là bất công và không thể dung thứ; nên phải thay bằng sở hữu nhà nước. Thuyết thị trường chính thống cho rằng can thiệp nhà nước là phi hiệu quả và có hại; vì vậy không được để bất kể cái gì can thiệp vào cơ chế thị trường. Đúng là, can thiệp nhà nước vào nền kinh tế đã luôn tạo ra các kết quả tiêu cực nào đó. Điều này đúng không chỉ với kế hoạch hoá tập trung mà cả với nhà nước phúc lợi và quản lí cầu của Keynes. Từ quan sát tầm thường này, các nhà theo thuyết thị trường chính thống vội kết luận rằng thị trường tự do phải hoàn hảo.

Công bằng mà nói, lí lẽ ủng hộ các thị trường không bị điều tiết hiếm khi được trình bày một cách thô tục như vậy. Ngược lại, những người như Milton Friedman đã tích cóp hàng tập số liệu thống kê, và các lí thuyết gia về kì vọng duy lí đã sử dụng toán học bí ẩn mà người thường khó theo nổi. Các mô hình tinh vi đã được phát triển để qui sự thiếu các điều kiện hoàn hảo - cụ thể là, cân bằng tối đa hoá phúc lợi - cho thông tin không hoàn hảo hay bất đối xứng. Hầu hết, song không phải tất cả các mô hình này được dùng để xác lập các điều kiện cân bằng. Nó làm tôi nhớ đến các thảo luận thần học thời Trung cổ về số các thần tiên nhảy múa trên đầu một chiếc kim.

Thuyết thị trường chính thống đóng một vai trò mấu chốt trong hệ thống tư bản toàn cầu. Nó cung cấp hệ tư tưởng thúc đẩy nhiều người tham gia thành công và phát động chính sách. Thiếu nó, chúng ta có thể không được biện minh để nói về một hệ thống tư bản toàn cầu. Thuyết thị trường chính thống trở nên chế ngự chính sách vào khoảng 1980, với sự nổi lên của Reagan và Thatcher. Xu thế thịnh hành - cạnh tranh quốc tế vì vốn - đã bắt đầu sớm hơn, với hai khủng hoảng dầu ở các năm 1970 và sự thiết lập các thị trường hải ngoại về các đồng tiền Euro [2] , nhưng chỉ sau khi những thay đổi chính trị do Thatcher và Reagan đưa ra thì vốn - và tài kinh doanh (entrepreneurship) - mới chiếm ưu thế. Thiên kiến và xu hướng đã tăng cường lẫn nhau kể từ đó.


Каталог: xahoi
xahoi -> TRƯỜng thpt chuyên lê HỒng phong bộ MÔN: Lịch sử
xahoi -> THẢm trạng buôn bán ngưỜi nguyễn Đức Tuyên Tháng 12 2013 NỘi dung
xahoi -> TRƯỜng thpt chuyên lê HỒng phong bộ MÔN: Lịch sử ĐỀ chính thứC
xahoi -> 1. Nơi nóng nhất, sa mạc Lut Desert (Iran), 71 độ C
xahoi -> HƯỚng dẫn học sinh đỌc hiểu văn bản sử thi trong nhà trưỜng người trình bày: Trần Hải Tú
xahoi -> I. infinitives
xahoi -> Tìm hiểu chi tiết nghệ thuật qua các truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong chương trình thpt
xahoi -> Phong cách kí hoàng phủ ngọc tưỜng qua “ai đà ĐẶt tên cho dòng sôNG?” A- mở ĐẦU
xahoi -> Tư liệu văn học Ôn thi hsg môn Ngữ Văn nhậN ĐỊnh về VĂn học I. Văn xuôi
xahoi -> R­êng thpt chuyªn Lª Hång pHong Líp 10 Chuyªn ho¸

tải về 1.75 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   25




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương