VĂN, thơ, ĐỐi liễn tài liệu liên hệ



tải về 132.71 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích132.71 Kb.
#30027

PHỤ LỤC



VĂN, THƠ, ĐỐI LIỄN
TÀI LIỆU LIÊN HỆ
Minh cảnh khả dĩ sát hình,

vãng cổ khả dĩ tri kim (1)

Khổng Tử

(1) “Gương trong soi tỏ mọi hình,

Chuyện xưa biết rõ càng rành việc nay”.

Của tin, gọi một chút này làm ghi



Nguyễn Du

CÁC THỜI KỲ CẤU TẠO


TRÙNG TU ĐÌNH CHÂU
----------O0O---------
Ngược dòng thời gian, ta nhận thấy lịch sử cấu tạo và trùng tu Đình Châu gồm có các thời kỳ sau đây:
Thời kỳ thứ nhất:
Vào khoảng thế kỷ thừ XV, dưới đời Hồng Đức, sau khi đoàn quân Nam tiến từ Hoan Châu, Nghệ An vào đồn thú và khai khẩn vùng Lục thôn, Đình Châu được cất bằng tranh. Trong thời kỳ nầy, Ngài Cai phú Khánh Sơn hầu Bùi Quý Công ở Bình Khương lo việc cấu tạo đình sở, Ngài Trương Văn Thắng ở An Lâm lạc cúng đất tư v.v…
Thời kỳ thứ hai:
Vào năm G. Tuất (1754), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 15, Đình Châu được trùng tu lần thứ nhất (xin xem bài minh bia Đình Châu niên hiệu Cảnh Hưng ở phần sau). Trong thời kỳ này, các Ngài Trương Hoằng Cơ hiệu Đào Yêm tiên sinh ở Hội An cúng tiền, Ngài Trần Phước Lộc ở Thanh Châu cúng thêm năm thước đất. Trong danh sách Quý Ngài tham gia vào công việc trùng tu, chúng ta thấy có Ngài Ưng xá Bùi Tấn Thắng, Thủ khoán Bùi Tấn Mẫn. Điều đáng chú ý là trong bài minh bia, ngay trong đoạn đầu, đã thấy ca ngợi công đức sáng lập đình sở của Ngài Cai phủ Khánh Sơn hầu Bùi Quý công trước kia.
Thời kỳ thứ ba:
Năm Thành Thái thứ 10, Đình Châu lại được trùng tu lần thứ hai (xin xem bài minh bia niên hiệu Thành Thái thứ 10 ở phần sau). Trong thời kỳ này, cùng với Quý Ngài đồng thời, Ngài Cai châu Khuyến thủ Bùi Thân lạc cúng 100 quan tiền và truy cúng cho cố thân phụ Ngài là Ngài tri hương Bùi Song Nguyên (tức là Ngài Ngũ phẩm Bùi Văn Kiết) 100 quan nữa.
Thời kỳ thứ tư:
Năm Bảo Đại thứ 10, quan viên chức sự, lý hương của Lục thôn có chuẩn bị trùng tu lại. Các giấy tờ trong thời kỳ này gồm có:


  • Tờ Đồng ưng đề ngày 26-09 năm Bảo Đại thứ 10

  • Tờ Cáo bạch đề ngày 28-10 năm Bảo Đại thứ 10

  • Đơn xin phép đề ngày 16-11 năm Bảo Đại thứ 10

(xin xem ở phần sau). Trong thời kỳ nầy, cùng với Quý Ngài đương thời, Bà Phạm Thị Thảo (tức Bà Phạm Thị Thuận), kế thất của Ngài cố Thị giảng Bùi Thân lạc cúng tư thổ viên 2 sào 5 thước để nới rộng vườn đình, Ông Vĩnh viễn Hội viên Bùi Duy được cử làm Hội chủ, Ông Chánh Cửu phẩm Bùi Xước được cử làm Đốc công. Nhưng vì cơ duyên chưa có, nên công việc trùng tu không thành.
Thời kỳ thứ năm:
Năm Tân Sửu (1962), thân hào nhân sĩ, viên nhân trong Lục thôn lại một lần nữa tính việc trùng tu (xin xem tờ Đồng ưng đề ngày 20 tháng 2 năm Tân Sửu ở phần sau). Trong tờ Đồng ưng này cùng với Quý vị thuộc các thôn, tộc khác, về phía Bùi gia, chúng ta thấy có Quý Ông Bùi Thuyên, Bùi Phùng, Bùi Điểm, Bùi Cần, Bùi Khắc Tục, Bùi Quan, Bùi Mại, Bùi Xước, Bùi Quán, Bùi Thuần. Nhưng rất tiếc vì thời cuộc không thuận tiện, nên việc trùng tu cũng không thực hiện được.

BÀI MINH BIA ĐÌNH CHÂU

DƯỚI THỜI CẢNH HƯNG



Phiên âm:
Lục Châu bi
Thăng Ba phủ, Ba Châu thuộc, La Tháp châu, quan quân đại tiểu đẳng, trùng tu Công đình bi ký.

Cái văn: Thần uy hích dịch, thiên thu túc bí tự chi kiền; miếu mạo nguy nga, bách tuế ngưỡng hoằng cương chi trọng.



Thiết duy: Bổn Châu tiền đợi Cai phủ Khánh Sơn hầu Bùi Qúy công cấu tạo công đình. Địa linh, nhân kiệt, đại chấn châu lý chi phong; cận duyệt viễn lai, hôi vi nhựt trung chi thị; trách trách hưu thanh, chí kim vị mẫn giã. Nhiên nhi mao từ thảo sáng, tuế viễn niên yên, suy chuyên vị miễn đồi hoại; tắc tuy di chỉ thượng tồn, nhị biện vũ đại bất như sơ. Tư dục tái khuếch tiền quy, dĩ chiêu thần đức. Đệ niệm bổn châu lịch niên đồ thán, vật lực duy nan; an đắc nhất như Bùi Quý công giả, tái vi thạnh cử tai !

Hanh hữu Bình Khương thôn, Tiện nghi ký thuộc hiệp thanh nam Phan văn Lễ để hội ngộ Đào Yêm Trương quân; trai trung tự cựu xỉ cập vu tư; nhi Trương quân tố tánh, trượng nghĩa hảo thi, sanh bình chửng cơ truất nạn, nan dĩ mai cử. Kỳ ư bổn châu Bình Khương thôn hựu thuộc mẫu tộc, văn ngôn khảng khái, thiết tang tử chi chơn tình, hứa nặc hoan hân, cổ thực đức chi thiện niệm; nguyện tán nan kim, đàn việt hiến nhậm.

Tại tích Bùi công cấu tạo, ký hữu An Lâm thôn Trương văn Thắng lạc thi tư thổ; bổn châu dĩ Trương gia chi cố, chuẩn An Lâm thôn tư phần kỳ an chi phí; miễn Trương môn liễm tiền, tái gia phước phần thế thế bất tuyệt.

Kim giả Đào Yêm trùng kiến, tắc hữu Thanh Châu, Châu đơn Cai phủ Trần phước Lộc nguyện cát sở cư ốc địa ngũ xích dư, dĩ vi công đình khôi khuếch, Cù La thôn Lê doãn Hiển tức Trùm Bằng thủ xướng bồi cơ, nhi ư bổn châu cử nhất, nhị dĩ vi đổng sư chi nhân. Phù đàn việt hữu chủ tắc phí thủ khả dĩ vô ưu; đổng sự duy cần, thành công tự kiến. Bất nhựt tùng thử miếu mạo tân khám đàn khiết thần linh, giảm hữu hích tỉ, viễn cận văn giã. Hàm viết: cư sĩ chi ư thần quang quả năng tương dữ dĩ hữu thành giã, khởi bất thiện tai, viên lặc ư thạch, dĩ chí bất vong; tính tương dữ sự tánh danh khai liệt vu tả:

Duyện thủ Phước kiến, Tuyền châu phủ Ngân đồng cư Minh hương xã, Hội An phố, Trương húy Hoằng Cơ hiệu Đào Yêm tiên sinh, phí tiền tam thiên quán, lánh nhu sanh tức tiền nhứt bách ngũ thập quán, giao bổn châu Lục thôn sanh tức, vĩnh vi kỳ an, kỳ phước chi tư.

Địa lý sư: Phước kiến, Tuyền châu phủ, Tấn thủy Thái húy Hạnh Tư tiên sinh.

Công đình trạch tọa Vị hướng Sửu, kiêm Đinh Quý, phân châm Đinh Vị, Đinh Sửu.

Nhựt sư: Minh hương Vương húy Trọng Lăng tiên sinh.

Trạch ư: Quý Dậu niên Trọng Xuân, nhị nguyệt, Ất Mão, sóc việt thập tam nhựt Kỷ Hợi, thời Tân Vị thượng lương.

Chủ tế: Tiện nghi ký thuộc hiệp thanh nam Phan văn Lễ, Thanh Châu thôn Châu tự Cai phủ thuật chức tử Trần phước Lộc.

Bồi cơ: Cù La thôn Lê doãn Hiển, Ưng xá Bùi tấn Thắng, Xã trưởng Phan văn Phước, Trần phước Đảo, Nhiêu học Hồ đức Quang, Nghĩa cử Cai đình Bình Khương thôn Đào văn Thuận.

Đổng sư: Câu đương Trương văn Bằng, Trần phước Tự, Hồ văn Thời, Đỗ đăng Thành, Lê quang Tạo, Lương văn Thắng, Hồ đức Bằng, Trần văn Huyên, Thủ khoán Bùi tấn Mẫn, Văn công Quế, Trần phước Lộc, Nguyễn phước Thuyên, Phan văn Sai, Nguyễn văn Độ, Trần đức Quý.


Cảnh Hưng thập ngũ niên, tuế thứ Giáp Tuất

Mạnh Đông thập nguyệt cốc đán lập.


Lược dịch:
Bia Lục Châu
Bia ký về việc quan, quân châu La Tháp, thuộc Ba Châu, phủ Thăng Ba trùng tu Công đình.

Vốn thường nghe nói: Thần uy sáng tỏ, nghìn thu phải nhớ việc phụng thờ; miếu mạo nguy nga, muôn thuở đều thấm nhuần ơn đức.



Trộm biết: Châu chúng ta ngày trước có Ngài Cai phủ Khánh Sơn hầu Bùi Quý công cấu tạo công đình. Đất linh, người giỏi, tiếng đồn vang khắp châu thôn. Người gần lấy làm hài lòng, kẻ xa rủ nhau kéo đến, họp thành chợ đông vào lúc ban trưa, đến nay chưa ai quên vậy. Nhưng đình tranh dựng đã lâu năm, rui mè không khỏi mục nát, nền móng tuy còn đấy, nhưng chính điện không được như xưa. Nay muốn trùng tu lại để phát huy công đức của Thần linh. Song mấy năm gần đây, châu chúng ta làm ăn khó khăn, vật lực khan hiếm. Giá được một vị hảo tâm như Bùi Quý công ngày trước thì quý hóa và đáng được ca ngợi biết bao !

Cũng may vừa rồi có Ông Phan văn Lễ ở làng Bình Khương đến gặp Ông Trương quân hiệu Đào Yêm kể lại công việc từ trước đến nay. Trương quân vốn thường sốt sắng với những điều nghĩa cử, hay thương người nghèo, giúp kẻ khổ. Vã lại làng Bình Khương là quê mẹ của Ông, nên khi được nghe nói đến việc trùng tu đình sở, Ông bèn sẵn sàng tài trợ.

Trước kia, lúc Ngài Bùi Quý công làm đình, thì có Ngài Trương văn Thắng ở làng An Lâm lạc cúng đất tư. Vì thế châu chúng ta đã chước miễn cho làng An Lâm khỏi quyên góp về lễ Kỳ yên và cho nhà họ Trương được đời đời khỏi đóng các khoản liễm phí.

Nay Ông Đào Yêm trùng tu, thì lại có các Ông Cai phủ Trần phước Lộc ở làng Thanh Châu cắt bớt sở vườn đương ở, cúng 5 thước đất để đình sở thêm phần rộng rãi, Ông Lê doãn Hiển ở làng Cù La làm thủ xướng, bồi cơ và một vài vị khác lại được cử làm đốc sự. Như thế vấn đề chi phí đã khỏi phải lo, mà việc tu bổ cũng sẵn có người chăm sóc, nên kết quả tự nhiên phải đạt được. Nay nhân miếu mạo hoàn thành, vậy xin khắc vào bia này danh tánh cùng nhiệm vụ của những vị hữu công để làm kỷ niệm (xin tỉnh lược phần còn lại).


Bia dựng vào ngày lành tháng 10 năm Giáp Tuất niên hiệu Cảnh Hưng thứ 15.

BÀI MINH BIA ĐÌNH CHÂU

DƯỚI TRIỀU THÀNH THÁI



Phiên âm:
Thành Thái thập niên bát nguyệt sơ bát nhựt. Lệ Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù Bàn, An Lâm lục thôn đẳng đồng lẫn trí biện sự trùng tu Công đình; sở hữu viên nhân biện sự tịnh cúng tiền số can, lư trần bi ký.
Kê:
- Lê Trạch liễm tiền lục bách cửu thập ngũ quán

- Vĩnh Trinh liễm tiền nhị bách lục thập thất quán

- Thanh Châu liễm tiền tứ bách bát thập ngũ quán

- Cổ Tháp liễm tiền nhứt bách ngũ thập quán

- Cù Bàn liễm tiền nhứt bách tam thập ngũ quán

- An Lâm liễm tiền nhứt bách thất thập quán


Vĩnh Trinh Cai châu Khuyến thủ Bùi Thân (1) cúng tiền nhứt bách quán, truy cúng Hiển khảo Tri hương Bùi song nguyên (2) tiền nhứt bách quán.
Ghi chú:
(1) Tiếp theo Ngài Cai châu Khuyến thủ Bùi Thân, còn có các vị thân hào thuộc các thôn tộc khác lạc cúng mỗi vị từ 10 đến 15 quan. Nhưng vì phạm vi quyển Phổ hệ, nên chúng tôi xin phép tỉnh lược phần này.
(2) Song nguyên là tự của Ngài Ngũ phẩm Bùi Văn Kiết.

TỜ ĐỒNG ƯNG VỀ VIỆC TRÙNG TU ĐÌNH CHÂU

DƯỚI THỜI BẢO ĐẠI


Phiên âm:
Bảo Đại thập niên cửu nguyệt nhị thập lục nhứt. Lệ Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù Bàn, An Lâm, lục thôn Quan viên, Hào lão, Lý hương đồng châu đẳng.

Vì lập tờ đồng ưng sự. Duyên ngã đẳng lục thôn Công đình, ư Cảnh Hưng niên gian, bổn châu Quan quân chức dịch trùng dinh phụng sự, cụ thọ bi minh. Tự kinh binh hỏa. Thành Thái thập niên, Vĩnh Trinh cố Thị giảng Bùi Thân vi Khuyến thủ đốc đồng chức dịch hiểu khuyến viên nhân, lạc cúng ngân tiền, sùng tu cụ hữu bi minh vi ký. Chí tư kinh niên, tường khuynh ngõa giải, huống hiện tình bức cận quan lộ, phụng sự chi lễ thiểu khuy; xúc mục thương tâm, khởi ưng tọa thị. Tư giả cố Thị giảng Bùi Thân kế thất Phạm thị thảo, thể tiền phu quân thạnh ý, lạc thi tư thổ, vi đình cơ, Nam hướng nhị cao, thối khai hậu diện, bồi trúc đình cơ, cao đối học trường, tăng tráng châu đình, trùng tu cơ chỉ, đắc quảng diện tiền, thọ bình trúc thành, vọng chi tịnh túc, trang nghiêm, hành lộ vãng lại khởi kỉnh. Giá khoản kinh hội trù nghị, nhu phí thậm cự (thất bách nguyên linh). Dục kỳ bất phiền dân lực, dân tài, dĩ để vu thành, đồng suy cử Vĩnh viễn Hội viên Bùi Duy, cư tâm hào phóng, lẫn trí vi khuyến thủ, Chánh Cửu phẩm Bùi Xước vi đốc công, mỗi thôn các lẫn trí Kiểm châu nhứt nhơn hiệp hành hiểu khuyến châu nội quan viên, hào phú, tiếp tế viên nhân các các sung khoách thiện tâm, lạc ký ngân nguyên đa thiểu, đắc ngân cập số (do thất bách nguyên linh) chi nhu tu bổ đình châu, y thức hoàn mỹ, kiên cố. Bổn châu thiết nghĩ kinh tiền thừa Quốc gia ban tứ Thần sắc, lục thôn đồng phụng sự, tự lai kinh Lệ Trạch phụng thủ Thần sắc, nhi châu đình chánh tẩm phụng sự Thần linh, tiền đường phụng sự Lục thôn Tiền hiền. Trùng tu phụng sự nhứt kiến vu Cảnh Hưng, tái kiến Thành Thái, tư hựu trùng quang tế mỹ, kim nhi hậu tự sự vĩnh thế lưu truyền, nhi thạnh sự dẫn diên vu thế đợi. Kỳ phương y cựu, trạch nhựt khởi công, triệt hạ thượng lương, tính giao Khuyến thủ, Đốc công quyên kiết, dĩ miễn xung khắc. Lâm sự cụ hữu lục thôn kiểm châu, lý hương hội tề dự đồng bang trợ, tỉ đắc hữu nhơn. Công thoan, cúng ngân, công đức, các hữu bi minh, thọ lập tại đình tả hữu, dĩ dụ lưu truyền, tư đồng ưng tờ.


Lạc cúng tư thổ viên (tại An Lâm thôn, Cây Muối xứ, nguyên khê An Lâm thôn, danh Tể phu thê tịnh tử đẳng chấp tuyệt) nhị cao ngũ xích dĩ tiện Lục thôn di cấu Châu đình, Tiền Thị giảng Bùi kế thất Phạm thị Thảo điểm chỉ.

Lược dịch:
Ngày 26-09 năm Bảo Đại thứ 10, chúng ta: Quan viên, hào lão, lý hương của 6 thôn: Lệ Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù Bàn, An Lâm, đều đồng lòng lập tờ đồng ưng này.
Nguyên vào đời Cảnh Hưng, Quan quân, chức dịch Châu chúng ta đã trùng tu Đình lục thôn để lo hương khói Thần linh. Việc ấy đã có ghi ở minh bia. Sau đó, qua các cơn binh hỏa, đến năm Thành Thái thứ 10, Ngài Cố Thị giảng Bùi Thân ở làng Vĩnh Trinh, giữ chức khuyến thủ đã hiểu khuyến quý vị viên nhân đương thời, lạc cúng tiền của trùng tu lại; các việc đó cũng đều có ghi khắc vào bia cả.

Nay đã lâu năm, tường nghiêng ngói đổ. Vã lại hiện tình Đình nằm gần đường quan lộ, việc thờ phụng kém vẻ uy nghi. Thấy cảnh đau lòng, chúng ta nỡ nào thản nhiên đứng ngắm !

Nay nhân có Bà Phạm thị Thảo, kế thất của Ngài cố thị giảng Bùi Thân, thể theo thịnh ý của Ngài trước kia, vui lòng cúng 2 sào đất tư nằm về phía Nam vườn Đình, mục đích để nới lui mặt sau, đắp nền Đình cao bằng nền trường học bên cạnh, mở rộng mặt trước, có chỗ xây thành và làm bình phong để tăng thêm vẻ trang nghiêm, người đi ngoài đường nhìn vào tự nhiên phải đem lòng sùng kính.

Kinh phí dự trù rất lớn, ước độ trên 700 đồng. Muốn cho khỏi phiền đến tài lực của nhân dân, chúng ta đều đồng lòng cử Ông Vĩnh viễn Hội viên Bùi Duy có lòng hào phóng làm Khuyến thủ, cử Ông Cửu phẩm Bùi Xước làm Đốc công, mỗi thôn lại chọn thêm một vị Kiểm châu để các vị nói trên hiệp lực hiểu khuyến quan viên, hào phú trong Lục thôn vui lòng quyên góp đủ số kinh phí dự trù, ngõ hầu sớm tiến hành công việc tu bổ.

Chúng ta thiết nghĩ nguyên ngày xưa Quốc gia ban tứ Thần sắc để Lục thôn cùng phụng sự, từ trước đến nay, làng Lệ Trạch phụng thủ Thần sắc, chánh tẩm Đình châu phụng sự Thần linh, tiền đường phụng sự Tiền hiền Lục thôn. Sau 2 lần sùng tu vào niên hiệu Cảnh Hưng và Thành Thái, nếu nay lại tu bổ mỹ quang thêm, thì việc thờ phụng sẽ được lưu truyền mãi mãi về sau vậy.

Về phương hướng sẽ giữ y như cũ.

Về việc chọn ngày tháng tốt để khởi công triệt hạ và thương lượng, thảy đều giao cho các vị Khuyến thủ, Đốc công định liệu sao cho khỏi xung khắc. Nếu gặp việc gì khó khăn, thì sẽ có kiểm châu và lý hương cả 6 thôn họp lại để giúp đỡ.

Công việc hoàn thành, vị nào đã lạc cúng bao nhiêu hay góp được công đức gì, thảy đều khắc vào bia dựng 2 bên tả hữu của ngôi Đình để lưu truyền hậu thế.


Lạc cúng tư thổ viên 2 sào năm thước (ở tại xứ Cây Muối làng An Lâm, nguyên khế do vợ chồng cùng các con của anh Tể ở An Lâm chấp đoạn) để Lục thôn di cấu Đình châu, bà Phạm thị Thảo (1), kế thất của Ông Tiền Thị giảng Bùi Thân điềm chỉ (2).

Ghi chú:

(1): Tức Bà Phạm Thị Thuận

(2): Sau Bà Phạm Thị Thảo, còn có rất đông các vị hảo tâm thuộc đư các các tộc phái trong Lục thôn ký chỉ và lạc cúng tiền bạc. Nhưng vì phạm vi quyển Phổ hệ, nên xin mạn phép tỉnh lược danh sách này.

TỜ CÁO BẠCH VỀ VIỆC TRÙNG TU ĐÌNH CHÂU

DƯỚI THỜI BẢO ĐẠI


Phiên âm:
Bảo Đại thập niên thập nguyệt nhị thập bát nhựt. Duy Xuyên phủ, Đông An tổng, Lục thôn: Lệ Trạch thôn, Vĩnh Trinh thôn, Thanh Châu thôn, Cổ Tháp thôn, Cù Bàn thôn, An Lâm thôn, bổn châu viên hào, chức sự, lý hương đẳng.

Vì hiểu cáo bạch sự. Thiết duy: Thần vi phước thiện chi tư; đình nãi thê thần chi sở. Cái hữu công ư dân tắc tự, nhi hữu kỳ cử giã, mạc cảm phế chi ! Ngã lục thôn tiền hữu hiệp lập công đình tại An Lâm thôn, phụng sự Tôn thần, kỳ sự tích cụ tại lưỡng bi, lịch lịch khả khảo, do ngã tổ phụ kiệt tâm tư, thi tài lực dĩ thành chi. Tuy dĩ ký Thần linh chi a hộ, diệc vi hậu thế tử tôn thống nhiếp nhân tâm chi nhất bản lãnh giã. Lịch đợi hào phú hữu nhân, khoa hoạn hữu nhân, an tri phi Thần linh chi quyến hựu hồ ? Vô nại thế vận tiệm di, nhân tâm bất cổ ! Cận niên lai, đình vũ hoang vu, hương yên lãnh đạm, tại ngã chi nhơn năng bất mục kích nhi thương tâm ! Phù phật tự hủy, nhi tăng chúng du năng tái tạo, Giáo đường hoại, nhi đạo đồ du khả sùng tu. Bỉ đẳng hà nhơn, nhi bất nhẫn tọa thị kỳ học tổ chi thê lương. Huống ngã lục châu nhơn, Nho học trung nhơn, giai thánh nhơn thần đạo thiết giáo trung nhơn, khởi ưng đương thử văn minh, nhi khước thính bách niên lễ nhạc, tận tán hàn yên gia ? Nhược nhiên tắc Khánh Sơn hầu chi di tích đồ tồn, nhi lưỡng bi trung chi ngã tổ, ngã phụ hữu thời trắc giáng, năng bất sậu nhiên, khái tử tôn chi phất địch tiền quang. Huống hiện thời, Đông hữu Thiên chúa giáo đường, Tây hữu Tân học giáo trường, qui mô hoằng nhuận, thể thế tiển minh, sĩ tử xu thương, đàm kinh giảng đạo; nhi kỳ trung tắc Châu đình nhứt óc, lộ bạn tịch nhiên, vân phi võ quyển, thảo ế thai phong, thử cảnh thử tình, thùy năng khiển thử ? Vị thử lập tờ hiểu cáo châu nội chư tôn quang cố, đương niệm Thần linh chi hộ trì, tưởng tiền nhơn chi công đức, bất lẫn lạc cúng ngân tiền, nhứt phiên tu bổ, phụng sự Thần khám, tỉ thần hữu sở thê, dân hữu sở ngưỡng. Tu bổ sự hoàn, lặc chi trinh chỉ, dĩ dữ tiền lưỡng bi, tịnh thùy bất hủ, khởi bất vĩ tai ! Giá hệ nghĩa vụ, chư tôn tưởng dĩ thiên lý tại nhân tâm, vô sĩ thiểm liệt chi truân truân giã. Sở hữu hà viên nhơn, nguyện cúng ngân can, thỉnh ký vu hậu, tư hiểu cáo tờ.



Lược dịch:
Ngày 28-10 năm Bảo Đại thứ 10, chúng ta: viên hào, chức sự, lý hương 6 thôn: Lệ Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù Bàn, An Lâm thuộc tổng Đông An, phủ Duy Xuyên đều đồng lòng có bài cáo bạch nầy:

Trộm nghĩ: Thần châm lo việc phước thiện. Đình là nơi để thờ Thần. Những bậc có công với dân đều phải được phụng thờ, đâu dám bỏ qua !

Nguyên ngày xưa, tiền nhân 6 thôn chúng ta đã chung sức xây dựng công đình tại làng An Lâm để phụng sự Thần linh. Sự tích đều đã được ghi tại hai vị bia, đời đời có thể trông thấy. Đấy đều do Tổ tiên chúng ta đã hết lòng đem tài lực ra để hoàn thành, vừa trông Thần linh phù hộ cũng vừa mong cho con cháu đời sau noi theo đấy mà thống nhất nhân tâm vậy.

Trải mấy đời nay, người giàu cũng nhiều, kẻ đỗ đạt không ít; như thế ai giám bảo là không có sự giúp đỡ của Thần linh ? Nhưng cuộc đời thay đổi, lòng người không được như xưa ! Gần đây, đình võ hoang vu, khói hương tàn lạnh, chúng ta trông vào há không đau lòng ư ? Chùa Phật hỏng, tăng chúng còn lo tái tạo, Giáo đường hư, tín đồ còn biết sùng tu. Các vị ấy là người thế nào mà họ không nỡ ngồi nhìn chùa, nhà thờ tẻ lạnh ? Huống người lục thôn chúng ta đều là hạng thấm nhuần Nho học, nỡ nào giữa buổi văn minh này, chúng ta lại gạt bỏ việc lễ nhạc nghìn xưa, để cho hương tàn khói lạnh sao ? Như thế di tích của Ngài Khánh Sơn hầu còn đấy. Thảng hoặc hồn thiêng của Tổ tiên chúng ta hiện về, nhận thấy con cháu không noi theo gương trước, thì há chẳng buồn lắm vay ? Vã lại, hiện nay phía Đông có nhà thờ Công giáo, phía Tây có trường Sơ học, qui mô tráng lệ, hằng ngày sinh chúng lui tới học hành. Trong lúc đó, Đình châu chỉ là một mái nhà vắng lạnh bên đường, gió cuốn mây bay, rêu phong cỏ úa. Cảnh ấy, tình nầy, ai không xốn dạ ?

Vì vậy chúng ta đồng lòng lập tờ hiểu cáo nầy kêu gọi tất cả quý vị trong châu hãy nghĩ đến sự hộ trì của Thần linh và công đức của Tổ tiên mà vui lòng đóng góp tiền của, tu bổ đình sở để Thần có nơi thờ tự, dân có chỗ ngưỡng chiêm. Tu bổ xong, công đức sẽ được ghi khắc để cùng hai vị bia trước lưu lại đời sau làm kỷ niệm. Được thế còn gì tốt hơn ! Đây là một nghĩa vụ, chắc Quý vị cũng đã nhận thấy thiên lý ở tại nhân tâm, nên chúng ta không dám dài lời nữa.

Những vị nào lạc cúng bao nhiêu xin ghi vào sau đây (1).




Ghi chú:

(1): Sau bài Cáo bạch, có cả danh sách quý vị hảo tâm trong Lục thôn ký chỉ và lạc cúng tiền bạc. Nhưng vì phạm vi quyển Phổ hệ, nên chúng tôi xin mạn phép tỉnh lược danh sách lạc quyên.
ĐƠN XIN PHÉP TRÙNG TU ĐÌNH CHÂU

DƯỚI THỜI BẢO ĐẠI



Phiên âm:
Duy Xuyên phủ, Đông An tổng, Lệ Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù Bàn, An Lâm lục thôn quan viên, chức sự, lý hương đẳng bái.

Bẩm vì khất vi bằng sự. Duyên Lục thôn Châu đình kinh thừa Lịch triều ban tứ Thần sắc, lục thôn đồng phụng sự, Lệ Trạch thôn phụng thủ Thần sắc. Tư kinh niên Châu đình hủ hoại: huống hựu bức cận quan lộ. Hiện kim, Vĩnh Trinh thôn, cố Thị giảng Bùi Thân kế thất Phạm thị Thảo lạc cúng đình hậu Nam hướng tư thổ viên nhị cao ngũ xích, đắc tiện thối khai hậu diện, di trúc đình cơ, tái hành tu bổ, di cấu dĩ quảng đình tiền, trúc thành, thọ bình. Vị thử lục thôn quan viên, lý hương đẳng đồng ưng lẫn trí Vĩnh viễn Hội viên Bùi Duy vi Hội chủ, Chánh cửu phẩm Bùi Xước vi Đốc công, tịnh mỗi thôn các lẫn trí Kiểm châu, Tư hóa kiêm Tư thơ nhứt nhơn, hiệp hành tu bổ châu đình chư sự vụ. Đồng châu thiết nghĩ: Thần vi phước thiện chi tư, đình nãi thê thần chi sở. Thần an nhi hậu dân an, hệ xã dân trung chi nhứt đại quan thiết. Tư châu nội quan viên, hào hữu, lý hương, các thành tâm lạc cúng ngân tiền, túc cung tu bổ. Nhưng trọng niệm sự quan di cấu công đình, cụ tường Chánh tổng sát thiệt, phục khất:

Bổn Phủ Đường quan đại nhơn cao minh thẩm chiếu, văn phê vi bằng, vạn lại kim bái.

Bẩm.
Sung Chánh tổng Bùi Quán sát thiệt ký

(do hữu đồng triện)
Quả Lục thôn thuận tình giã Thính

(do hữu tiểu kiềm)


Bảo Đại thập niên thập nhứt nguyệt thập lục nhựt.

(do hữu ấn kiềm)



Lược dịch:
Quan viên, chức sự, lý hương sáu thôn: Lệ Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù Bàn, An Lâm thuộc tổng Đông An, phủ Duy Xuyên.

Kính xin làm tờ vi bằng này:

Nguyên ngày xưa, Đình châu của 6 thôn chúng tôi từng được các Triều vua ban Sắc phong tặng Thần Linh. Sáu thôn cùng thờ phụng chung và làng Lệ Trạch phụng giữ sắc Thần. Sau nhiều đời, bây giờ đình bị đổ nát; thêm vào đấy, đình lại nằm quá gần đường quan lộ.

Nay nhân có bà Phạm thị Thảo, kế thất của Ngài Cố Thị giảng Bùi Thân ở thôn Vĩnh Trinh lạc cúng 2 sào 5 thước đất tư ở về phía Nam, sau lưng đình, mục đích để mở rộng mặt sau, dời lui nền đình, tu bổ lại, làm cho mặt trước rộng thêm, có chỗ xây thành, làm bình phong.

Vì vậy quan viên, lý hương 6 thôn chúng tôi đều đồng lòng cữ Ông Vĩnh viễn Hội viên Bùi Duy làm Hội chủ, Ông Cửu phẩm Bùi Xước làm Đốc công, và mỗi thôn đều cử thêm một viên Kiểm châu, Tư hóa kiêm Tư thơ để cùng hai vị nói trên hiệp lực trông nom công việc tu bổ.

Chúng tôi trộm nghĩ: Thần linh chăm nom việc phúc thiện. Đình châu là nơi thờ thần. Thần có an, nhiên hậu dân mới an. Đấy là một điều rất quan thiết đối với toàn dân trong châu vậy.

Nay quan viên, hào hữu, lý hương trong châu chúng tôi đều thành tâm lạc cúng tiền của đủ dùng vào việc tu bổ. Nhưng vì việc di cấu công đình rất hệ trọng, nên sau khi được Ông Chánh tổng sát thiệt, chúng tôi kính xin Quan Phủ mở lượng cao minh, thẩm xét văn phê để làm bằng.

Kính xin chân thành cảm ơn Quan Phủ



Ngày 16-11 năm Bảo Đại thứ 10
Sát thiệt, Sung Chánh tổng Bùi Quán ký.
Lời phê của Quan Phủ:
Quả thật sáu thôn đều thuận tình, đồng ý.
Ghi chú:
Trong Đơn xin trên, có rất nhiều quan viên, hào hữu, lý hương trong sáu thôn đồng ý ký tên. Nhưng chúng tôi xin mạn phép tỉnh lược danh sách này và chỉ ghi lại đây phương danh các vị thuộc Bùi tộc:

  • Hàn lâm viện Đãi chiếu Tú tài Bùi Giác

  • Khuyến thủ Hội viên Bùi Duy

  • Đốc công Chánh cửu phẩm Bùi Xước

  • Cửu phẩm sung Kiểm giáo Bùi Địch

  • Cửu phẩm Bùi Quang

  • Lý Trưởng Bùi Tăng

  • Chánh cửu phẩm Bùi Diễn

  • Kiểm châu Bùi Cần

  • Tư hóa kiêm Tư thơ Bùi Huấn

  • Hương khuê Bùi Khuê

  • Hương kiểm Bùi Truy

  • Hương kiểm Bùi Mại

  • Cựu phó Lý trưởng Bùi Thẩm

  • Cựu Hương kiểm Bùi Phiên

  • Phó Lý trưởng Bùi Thế

  • Cựu Hương bổn Bùi Quán

  • Cựu Lý trưởng Bùi Huýnh

  • Hương bộ Bùi Thức

  • Ủy viên Bùi Tường

  • Chánh cửu phẩm Đội trưởng Bùi Cảnh

  • Tộc sự Bùi Đặc

  • Hương kiểm Bùi Nhung

  • Cựu Thanh khố Tập binh Bùi Ngữ

TỜ ĐỒNG ƯNG VỀ VIỆC TU BỔ ĐÌNH CHÂU

NĂM TÂN SỬU, 1961



Phiên âm:
Việt Nam Cộng Hòa, tuế thứ Tân Sửu niên, nhị nguyệt, nhị thập nhựt. Quảng Nam tỉnh, Duy Xuyên quận, tam xã Hội đồng: Xuyên Lộc, Xuyên Khương, Xuyên Thanh, tức lục thôn: Lệ Trạch thôn, Vĩnh Trinh thôn, Thanh Châu thôn, Cổ Tháp thôn, Cù Bàn thôn, An Lâm thôn, thân hào, nhân sĩ, viên nhân đẳng.
Vì lập tờ đồng ưng sự. Nguyên Tiền tiền đợi Lục thôn Tiền hiền, Tiên tổ tùng Lê triều Nam tiến, thiết lập dinh điền nha, do La Tháp công trại quan quân đồn thủ. Lục thôn Tiên tổ huề tương tử đệ nhi Nam, kiến kỳ địa thế, sơn linh thủy tú, vật mỹ, ngư giai, nãi thiết lập gia trại ư Phù Sa khu (tức kim Lệ Trạch thôn), độ giang Nam bạn khẩn trưng chi: Lệ Trạch thôn, Vĩnh Trinh thôn, Thanh Châu thôn, Cổ Tháp thôn, Cù Bàn thôn, An Lâm thôn; dụng thiên phân địa, Nam mẫu Đông cao, lập lộ bình điền, qui nha mộ thọ, các hữu biệt bộ, biệt ấp (do tổ phụ lưu truyền), thời xưng thôn, xưng tộc, xưng ấp, công đức khả bằng. Thời nhi quan quân tha vãng, huống thử thời, địa diện tình trạng, Nam giáp lâm lộc, sơn thế hoang vu, thổ phỉ sơn man, sài lang ác thú, dân hy địa quảng, thảng phi Lục thôn vô hữu tập trung chi đại lực lượng nan dĩ bảo tồn. Thời hữu xã bộ tuy phân, nhi Châu đình cọng tự (do Tiên tổ lập cấu mao đình) tại An Lâm thôn địa phận. Tự nhi Nam Bắc tranh hùng, nhân dân ly tán. Thời thời tao phùng binh hỏa, đình tự giai tiêu. Hạnh hữu Cai phủ lỵ Thăng Ba phủ, Ba Châu thuộc, Khánh Sơn hầu Bùi Quý công đại thần đại nhơn, lạc thi kim ngân, Trương văn Thắng lạc cúng tư thổ, đàn việt hiến nhậm, hiệp dữ Lục thôn Tiên tổ chư quý công, hiệp hóa cưu công, tạo thành mỹ lệ. Kế chí Cảnh Hưng thập ngũ niên, hựu hữu Minh Hương xã, Hội An phố, Trương húy Hoằng Cơ, hiệu Đào Yêm tiên sinh, lạc cúng ngân tiền, Thanh Châu thôn, Trần phước Lộc lạc cúng tư thổ ngũ xích dư, tăng quảng đình viên, dữ Lục thôn Tiên tổ chư công, hiệp lực trùng tu, cụ hữu minh bi tánh danh công đức. Chí Thành Thái thập niên gian, niên đợi thâm viễn, diệc bị hư đồi. Thời hữu Vĩnh Trinh thôn, Cai Châu, Khuyến thủ Bùi Thân hiệp dữ Lục thôn thân hào chư công, hiệp lực trùng tu, diệc vân mỹ hĩ (do hữu minh bi Lục thôn Tổ phụ công đức tánh danh tồn tại). Vị luận niên thâm vật chất, tằng kinh phong vũ phiêu tiêu; hựu tao quốc bộ gian nan, phản ngộ binh qua tàn phá. Tư giả, bi đồi đình hoại, xúc mục thương tâm. Vị thử lập tờ thuận ưng tái hành kiến trúc, tái thọ tiền bi (giá nhị vị bi đảo huynh tại xứ), dĩ chương tiền hậu chi công đức, thứ ủy tổ phụ chi tiềm linh. Sở hữu điều khoản các mục ước định như hà, liệt kê vu hậu, tịnh trình quá tam xã Hội đồng chứng nhận, tái khất đơn bằng, dĩ tiện hưng công thi hành, thử miễn biệt ngại, tư đồng ưng tờ.

Lược dịch:
Việt Nam Cộng Hòa, ngày 20.02 năm Tân Sửu.

Thân hào, nhân sĩ, viên nhân của 3 xã: Xuyên Lộc (tức 2 thôn: Lệ Trạch, Cù Bàn), Xuyên Khương (tức 2 thôn: Vĩnh Trinh, Cỗ Tháp) và Xuyên Thanh (tức hai thôn: Thanh Châu, An Lâm), thuộc quận Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam,

Đều đồng lòng lập bản đồng ưng nầy:

Nguyên thuở xưa, Tiền hiền, Tiên tổ của 6 thôn chúng ta từng theo Triều Lê mà Nam tiến, trong công cuộc thiết lập dinh điền do quan quân đóng giữ tại Công trại La Tháp. Tổ tiên chúng ta đưa con em vào Nam, quan sát địa thế, thấy non thiêng, nước đẹp, vật tốt, cá ngon, bèn thiết lập gia trại tại khu Phù Sa tức là làng Lệ Trạch ngày nay. Rồi các ngày vượt sang bờ sông phía nam, khẩn trưng ra các thôn Lệ Trạch, Vĩnh Trinh, Thanh Châu, Cổ Tháp, Cù Bàn, An Lâm. Các Ngài đã theo phương hướng mà chia ranh giới, ngắm địa thế mà phân định xã thôn. Địa bộ lưu truyền đã chứng minh công đức của Tiền nhân vậy.

Nhưng rồi quan quân dời đi nơi khác. Lúc đó, địa thế còn hoang vu, phần sơn man thổ phỉ, phần ác thú, sài lang, đất rộng người thưa, nếu nhân dân đương thời không biết đoàn kết, tập trung lực lượng để đối phó với ngoại cảnh thì e khó tồn tại được. Thuở ấy tuy địa bộ đã phân chia, nhưng Đình Châu – do Tiền nhân cất bằng tranh – vẫn là nơi thờ phụng chung cho 6 thôn.

Kế đến, Nam Bắc phân tranh, nhân dân ly tán. Qua các cơn binh hỏa, Đình tự tiêu tan. May có Ngài Cai phủ Khánh Sơn hầu Bùi Quý công nhậm chức tại Thăng Ba phủ, Ba Châu thuộc vui lòng cúng tiền, Ngài Trương văn Thắng cúng đất họp cùng quý Ngài tiên tổ trong 6 thôn, góp sức sửa sang thêm phần mỹ lệ (1).

Đến năm Cảnh Hưng thứ 15, Ông Trương hoằng Cơ hiệu Đào Yêm ở Hội An lạc cúng tiền của, Ngài Trần phước Lộc ở Thanh Châu cúng 5 thước đất để nới rộng vườn đình. Các Ngài đã cùng quý Ngài đồng thời lo việc tu bổ, tất cả tánh danh cùng công đức của các vị hữu công đều có ghi rõ vào bia đá.

Đến năm Thành Thái thứ 10, sau nhiều năm tháng, đình sở lại một phen hư hỏng. Lúc bấy giờ có Ngài Cai châu Khuyến thủ Bùi Thân cùng với thân hào 6 thôn hiệp lực tu bổ, cũng đã mỹ quang (Bia ghi công đức tiền nhân lần này cũng vẫn còn đấy).

Nhưng rồi, với thời gian, Đình lại dãi dầu mưa nắng. Thêm vào đấy, nước nhà trải qua mấy cơn binh hỏa, nay bia ngã, đình hư, trông thật đau lòng !

Vì vậy, chúng ta lập tờ đồng ưng này, lo kiến trúc và dựng lại hai vị bia cũ – hiện đương bị ngã xiêu tại chỗ – để phát huy công đức của Tiền nhân ngõ hầu an ủi tiềm linh của tổ tiên nơi tuyền nhưỡng.

Có những điều khoản nào, xin kê ra sau đây. Và sau khi trình cùng Hội đồng 3 xã chứng nhận, sẽ xin phép Cấp trên để tránh mọi sự trở ngại về sau (2).

Ghi chú:
(1): Theo bài minh bia Đình Châu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 15, Ngài Cai phủ Khánh Sơn hầu Bùi Quý công cấu tạo Đình Châu đầu tiên chứ không phải sửa sang cho mỹ lệ.

(2): Tiếp theo có kê các điều khoản và danh sách thân hào, nhân sĩ, viên nhân trong lục thôn. Nhưng vì khuôn khổ quyển Phổ hệ, nên Ban Tu chính xin tỉnh lược phần này.



BẢN CUNG LỤC GIA PHẢ

CỦA ÔNG BÙI GIÁC



Phiên âm:
Bảo Đại thất niên, tuế thứ Nhâm Thân, trọng thu kiết nhật. Duy Xuyên phủ, Đông An tổng, Vĩnh Trinh thôn, Giáp Thân Ân khoa Tú tài, mông thưởng Hàn lâm viện Đãi chiếu Bùi Giác.
Vì cung lục sự. Duyên Bổn tộc:
Thỉ tổ Bùi Đại lang húy Tấn Diên, nguyên tự Hoan châu – Nghệ An tỉnh – Nam lai Thăng Ba phủ, Ba Châu thuộc, thời niên lão đốc đồng sanh hạ:
Cao cao tổ Bùi Qúy công húy Tấn Trường, để xứ khai khẩn xã hiệu Bình Khương.
Phỉ hiển tai mô ! Phỉ thừa tai liệt ! Tự nhi thế ba truyền kế nghiệp diễn cơ cừu. Thuần chí Gia long niên gian kiến bộ, thôn hiệu cải trước Bình Thuận. Kỳ điền thổ, tiên công (đồng cạnh), nhi hậu tư (phân trưng), hiển hữu bộ danh, thùy dụ tử tôn, vật thế dẫn chi, lưu truyền chí kim, Vĩnh Trinh (do mông cải) thị giã. Truy tư thùy dụ do lai, minh đức viễn hĩ; duy cửu kinh thế đợi nhi tiền hồ. Thử sở nhơn Tây Sơn binh hỏa, tộc tánh trường biên, thất kỳ di thảo. Nhưng cứ phụ lão truyền ngôn, tính hiện mộ phần tu tảo, dữ kỳ tại bổn thôn, Đồng Ngạch xứ, hữu:
Tiền hiền bổn tộc sùng từ; kỳ tại An Lâm thôn, Bàu Dam xứ, hữu Tứ thân bổn tộc tổ miếu; hựu biệt phái – tức Ông Ca phái – hữu Đệ Ngũ (1) truyền thế tổ thúc (Bùi văn Toản) từ đường (An Lâm thôn, Bàu Dam xứ); hựu Trưởng phái Đệ Nhứt chi hữu Tổ bá Thị giảng từ đường (tại bổn thôn, Bàu Cùng xứ); hựu đồng phái, bổn chi, hữu:
Hiển tổ Lưỡng khoa Tú tài từ đường (tại An Lâm thôn, Bàu Dam xứ). Tợ thử đình sum lan ngọc, thế dẫn bổn chi, tắc phổ hệ trung, tiền nhi tổ triệu tôn bồi chi đốc khánh, hậu nhi thủy nguyên mộc bổn chi hiếu tư, tương dịch diệp hữu vô cùng chi cảnh ngưỡng hĩ. Giác thiểm dĩ Mậu tài, mông dự Hàn lâm chi liệt; thượng thuật sở văn, hạ kinh sở kiến, cung lục thế thứ lưu truyền, hậu lai quy giám; tư cung lục (xin xem đoạn còn lại trong phần lược dịch sau đây).
Lược dịch:
Vào một ngày lành, tháng tám, năm Nhâm Thân, Bảo Đại thứ 7, tôi, Hàn Lâm viện Đãi chiếu Tú tài Bùi Giác, người làng Vĩnh Trinh, tổng Đông An, phủ Duy Xuyên, xin kính làm bản Cung lục gia phả này.

Nguyên tộc chúng ta:


Ngài Thỉ tổ Bùi Đại lang, húy Tấn Diên, ngày xưa từ Hoan châu, Nghệ An vào Thăng Ba phủ, Ba Châu thuộc, sinh ra:

Ngài Cao cao tổ Bùi Quý công, húy Tấn Trường, khai khẩn ra xã hiệu Bình Khương.

Và rạng rỡ thay ! Phúc ấm dồi dào, đời đời kế tiếp.
Đến triều Gia long, xã hiệu Bình Khương được đổi thành Bình Thuận. Và ruộng đất, thì lúc đầu hầu hết là đất công – đất đồng canh – sau dần dần phân trưng thành đất tư, đều có ghi vào địa bộ để lưu truyền lại hậu thế. Gần đây, xã hiệu Bình Thuận lại được đổi thành Vĩnh Trinh. Ngược dòng thời gian, chúng ta thấy công đức của tiền nhân thật là sâu dày vậy.

Nhưng rất tiếc qua cơn binh hỏa Tây Sơn, gia phả bị thất lạc. Song căn cứ vào lời truyền khẩu của các bậc phụ lão cũng như các mộ phần cùng những nhà thờ như:




  • Nhà thờ Tiền hiền ở xứ Đồng Ngạch, làng Vĩnh Trinh,

  • Nhà thờ Tứ Thân ở xứ Bàu Dam, làng An Lâm,

  • Nhà thờ của vị Tổ thúc là Ngài Bùi văn Toản (phái Ông Ca) cũng ở xứ Bàu Dam, làng An Lâm,

  • Nhà thờ Phái Nhất của vị Tổ bá Bùi Thị giảng ở xứ Bàu Cùng, làng Vĩnh Trinh,

  • Nhà thờ của Hiển tổ là Ngài Lưỡng khoa Tú tài, ở xứ Bàu Dam, làng An Lâm,

chúng ta thấy sự nghiệp của ông cha ta ngày xưa không phải là không to tát.
Cây có cội, nước có nguồn. Nay dựa vào những điều mắt thấy tai nghe, tôi xin cung lục các thế thứ ra đây để đời sau được rõ:

  • Ngài Thỉ tổ Bùi Đại lang, hùy Tấn Diên

  • Ngài Cao cao tổ Bùi Quý công húy Tấn Trường, đến nơi khai khẩn.

Bia ghi: Hiệp táng tại xứ Đại Tha, tục gọi là Gò Sỏi.

Ngày kỵ: Mồng 08 tháng 03.



  • Ngài Cao cao tổ tỷ Nguyễn Tôn nương. Mộ tại xứ Chà Rang tục gọi Gò Voi: Tọa Nhâm, hướng Bính, kiêm Tý Ngọ.

Sinh hạ:




  • Ngài Tam thế tổ khảo, Bùi Phủ quân húy Tấn Miên. Mộ tại xứ Đồng Ngạch hay gọi gò Trùm Chuyên. Sơn Tân, hướng Ất, kiêm Mão Dậu. Ngày kỵ: mồng 2 tháng 10.

  • Ngài Tam thế tổ tỷ, Nguyễn Tôn nương húy Cảnh, mộ tại xứ Trà Chu, làng La Tháp tây. – Tọa Nhâm, hướng Bính, kiêm Càn Tốn (2).


Chú thích:



  1. – Theo cách quy định số thế thứ hiện nay, thì phải nói: “Đệ Thập nhất truyền thế” thay vì: “Đệ Ngũ truyền thế”.

  2. – Trong bản Cung lục Gia phả của Ông Đãi chiếu Tú tài Bùi Giác – mà chúng tôi chỉ xin trích dẫn đến đây – Ngài Bùi tấn Miên sinh hạ Tứ thế tổ là Ngài Bùi tấn Hiệu. Nhưng như đã trình bày trong phần “Sơ lược về quá trình tiến triển” trên kia, Ngài Bùi tấn Hiệu phải là Đệ Thập thế tổ. Như thế, sau Ngài Đệ tam thế tổ Bùi tấn Miên, chúng ta rất tiếc là chưa sưu tầm được những tài liệu từ đời Đệ Tứ thế tổ đến đời Đệ Cửu thế tổ.

BIA MỘ
BIA MỘ TIỀN HIỀN

Phiên âm:

Mặt trước
Tuế thứ Giáp Tý niên mạnh hạ kiết nhật.
Cổ Thăng Ba phủ, Ba Châu thuộc, La Tháp châu, Bình Khương thôn.
Đại Nam Hoan quận Nam lai Tiền Hiền:
Hiển Thỉ tổ Bùi Đại lang quý công,

Hiển Cao cao tổ Bùi Tôn linh quý công


chi mộ
Kim Điện Bàn phủ, Duy Xuyên huyện, Đông An tổng, Vĩnh Trinh thôn.
Bùi tộc Tự tôn Bùi văn Thân sùng tu phụng cúng Bổn Tộc
đồng lập thạch.

Mặt sau:
Phú Thọ Khương Ninh
Bài Minh:
Ẩm hà tư nguyên, nhân sinh khởi vong bổn thỉ chi báo hồ ?
Cung duy ngã:
Hiển Thỉ tổ Bùi Đại lang Hoan châu nhân sinh hạ,

Cao cao tổ Bùi Quý công bổn châu khai cơ.

Tiền hiền công đức biểu biểu vu công đình, tự vu gia miếu, mộ vu Đại Tha (tọa Khôn, hướng Cấn, kiêm Giáp Dần).
Tưởng y quan chi xuất du, miến tùng thu chi tại vọng, ư thị hồ minh.
Minh viết: Hải Bắc nguyên lai, Hà đông hệ kỷ. Kiết xã cưu dân, lập đình tạo thị. Châu thôn triệu tích, tộc phái thùy thanh. Phụng mao tế mỹ, lân chỉ tường trình. Miến duy tiền huy, sơn công hải đức, Đại Tha qui tàn, trinh mân vĩnh thực.
Câu đối:
Kiều tử trong cao truyền vĩ khoán;

Giá tùng vân hạ điện giai thành.
Phỏng dịch:
Phong độ cao siêu, kiều tử lưu truyền nền nếp cũ;

Mây vần ủ hiển, giá tùng che chở bức thành xinh.
BÀI MINH BIA MỘ

ÔNG BÙI TÚC
Soạn giả: Cụ Phan thanh Thúy,

Cử nhân ở Bàn Lãnh





Phiên âm:
Hiệu lực Tá hiệu úy Tùng Cửu phẩm Bá hộ Bùi Tạ công, nguyên Vĩnh phong Khâm tặng Phụng thành Đại phu Hàn lâm viện Thị giảng Bùi Đại phong Tiên ông gia đốc giã. Kỳ tiên Cổ Hoan Khánh sơn hầu Bùi Tiền hiền quý công Nam chỉ vu tư cửu truyền (1) chí Tiên ông. Phú giáp châu quận, trợ quốc thắng số, cố tặng kim hàm. Tạ công ấu cần cẩn cù vu học. Sư sự Lãnh Đông Tú tài Phan Ngọc Trai, học đắc kỳ truyền. Quan niên tuyển Lãnh Đông Tú tài Phan Khiết Kỷ lệnh ái vi phối. Thiểm kỳ nội đệ giã. Hàm Nghi Ất Dậu trúng tỉnh thí, thượng Kinh ứng tuyển. Trị Kinh thành thất sự phản hồi, tầm hữu trắc dĩ chi bi. Nhơn chuyết bút nghiện, trợ Tiên ông kinh lý gia chánh. Đồng Khánh Mậu Tý, bổn tỉnh trùng tu Thánh miếu, quyên ngân, mông thưởng thị hàm, Tiên ông thành chi giã. Tự nhi Tiên ông nghinh Kế từ qui; gia bính hữu sở thác, toại biệt táo yên. Nhi hiếu phụng song đường vãng tồn nhứt thể, châu thân bào đệ đồng dị nhứt tâm. Tận lực trúc yển khai câu, phàm hương lý nông dân sở bất năng vi giả, giai đợi vi chi. Ngẫu trị trung niên, bất phục canh thú. Vị tử quyên ngân trợ quốc, quân mông tưởng thưởng. Thả tán Tiên ông cấu tiền hiền tự, thiết Tiên tổ mộ, cúng tự điền ư bổn tộc thôn ấp, cập nhạc gia nghĩa cử, bất nhứt nhi bất vi. Huống bần dân phụ khiếm, bất vấn, hữu Phùng quân phần khoán chi nhơn; bằng bối thại cửu bất truy, hữu Bảo Thúc phân kim chi nghĩa. Vãn niên quân sản, chúng tử cát biệt cư, duy đích tôn đợi phụng thần hôn. Chúng tử hậu vấn an, tắc đề khởi Hậu Tắc, Công Lưu, dĩ nông lập quốc vi giảng khóa, cái kỳ học hữu bản lãnh giã. Bảo Đại Đinh Sửu hạ tứ ký vọng thọ chung; tố cứu Ất Sửu niên sanh, hưởng linh thất thập tam tuế, ninh thố vu thử. Tọa Giáp, hướng Dần, kiêm Canh Giáp. Kỳ giai thành sanh thời sở tướng định giã. Hiện nam ngũ, thăng Hàn lâm viện nhứt, Bát phẩm nhứt, Cửu phẩm tam. Nữ nhứt thích Mỹ Hòa Cửu phẩm Tô Nhiếp tảo thệ. Tôn nam nhị thập bát, trúng Tây học Toàn phần Tú tài nhứt. Cao đẳng tiểu học tam, Sơ học văn bằng ngũ, thưởng Cửu phẩm nhị, dư đương tùng học. Tôn nữ nhị thập nhị. Ngoại tôn nam nhứt, nữ nhứt. Tằng tôn nam tam, nữ tứ. Tính tự minh viết: Bình Khương cố quận; hệ xuất Phi y. Sơn xuyên thanh thục; Tạ công đắc chi. Thiên thọ bình cách; ngũ quế liên phương. Tam đa diên khánh; tứ đợi đồng đường. Chà Rang thắng địa; Vĩnh phong cao cương. Giai thành thiên tứ; di tượng túc nhiên. Nhứt môn bị phước; thế đức diên diên.

Lãnh Đông Cử nhân Hường lộ tự thiếu khanh hưu trí

Nội đệ Phan thanh Thúy

Cẩn chí.
Ghi chú:


(1): Theo cách quy định số thế thứ hiện nay, thì phải nói: “thập tứ truyền” thay vì “cửu truyền”.

BÀI THUẬT

BÀ BÙI QUÁN

(Bà Chánh thất)
Soạn giả: Ông Trần thương Tiết

Nho sĩ, ở Long Xuyên



Phiên âm:
Nhứt trú nhứt dạ, hoa khai giả tạ; nhứt hạ nhứt xuân, vật cố giả tân. Tắc phù hữu hình hữu hoại, cắng cổ kim vị hữu siêu nhiên nhi độc tồn giả giã.

Thống duy: Nguyễn Lệnh cơ Tiền Hình bộ Tham tri trí chánh Song Bảng, Chánh trị khanh, Long Xuyên Nguyễn Đại nhân, Tiên sinh nữ giã. Đại nhân sinh hạ nam tứ. Âm sanh Tú tài sung Trung kỳ Nhân dân đại biểu nghị viên Nguyễn Thiếu Long kỳ gia đốc giã. Chư đệ quân mông khai ấm. Nữ hàng lục. Lệnh cơ kỳ đệ tam yên. Thiếu thời tùng phụ hoạn du. Giá trọng hồng lầu; trữ nghi kim ốc.

Niên mại thập lục, định phối vu Tiền Cáo tặng Phụng Thành đại phu Hàn lâm viện Thị giảng Vĩnh phong Bùi Thọ ông lệnh tử Bùi Trọng phủ. Tẫn qui chi hậu, trâm lý thử thân, điền viên qui thú. Tài ngũ niên gian nhi ba đống dinh thành, gia sơn đặc chiếm. Cố vị vấn kỳ lầu liên Lý trưởng, địa tiếp Mạnh lân; nhi tư vũ để thành, vô phụ Bùi đại gia hiền nội trướng hĩ.

Thời hoặc từ ô bộ mẫu, chỉ cam đôn hiếu dưỡng chi hoài; thời nhi minh nhạn châm phu, tang bồng miễn nam nhi chi chí. Tùng thử nhi hương hoạn giai thăng, tản hầu bộ sách. Trọng phủ chi công danh khởi niệm thiệt Lệnh cơ tán thành chi nôi giã. Vô hà Trọng phủ dĩ lao cán văn khâm mông Chỉ chuẩn Thưởng thọ Chánh Cửu phẩm văn giai, nhưng sung. Quận ba khởi sắc; đình thọ thiêm xuân. Kỳ xử gia môn tắc lục chi dĩ nghĩa; kỳ tiếp tân hữu tắc đãi chi dĩ thành. Tôn tộc hương đảng hàm vị viết tri. Nhân bất gián ư kỳ phụ mẫu côn đệ chi ngôn hĩ.

Đàm tẩm tư an; hùng xà điệp ứng. Thập ngũ châu tinh nhi sanh đắc nhị nam (Tấn, Luân), tam nữ (Đào Hồng, Liễu Tư, Kim Tuyến); nhụ vong (Duyên) hựu kỳ nhứt yên. Nam húc Hán học; nữ tập Quốc văn. Ân tư, cần tư, dục tử chi mẫn tư.

Phương kỳ ba giáp thiên trường, phước hải mãn tam xuân chi thủy; cự ý hóa nhi lộng xảo, bình địa thanh nhứt chấn chi lôi. Bổn chánh thập tứ vãn, ngẫu mạo hàn phong, nẫm nhị vãn (Mùi bài) thọ chung nội tẩm. Tằng kỷ hà thời nhi Nam y Tây y tịnh vô nhứt hiệu. Tùng sơn giáng bút nan đề khởi tử chi phương; Quỉ cốc phi phù mạc bổ hồi sanh chi thuật. Bốc dĩ bổn niên nhị nguyệt thập thất nhựt, Đinh Tỵ bài, ninh thố vu Bổn thôn Đồng Ngạch xứ chi nguyên (Tọa Đinh, hướng Quý), phân châm: Canh Ngọ, Canh Tý.

Nhựt nguyệt hữu kỳ tương táng hĩ. Y ! Đài các thử sinh, phong ba bán thế. Giản Nam thành tiến, điện tần lưu dũ hạ chi hương; đường Bắc hoan thừa, khấp duẫn sái tường Đông chi lụy. Khẩu trạch thống bôi quyên chi ẩm, niệm thiết nhi sồ; chẩm mộng huyền xuy cựu chi bi, sầu quỳnh phu diện.

Kim nhựt chi nhựt linh thân tại đường, tử Tấn khấp nhi thỉnh thuật. Thiểm dĩ tây tân, thô tri hành thiệt, thỉnh chuyết vu từ, nhứt nhị cẩn thơ vu bạch, dĩ thọ.


Bảo Đại thất niên tuế thứ Nhâm Thân mạnh xuân.
Long Xuyên Thưởng thọ Chánh Cửu phẩm văn giai

Giáo sư Trần thượng Tiết Trúc viên


cẩn chí
VĂN TẾ
VĂN TẾ XUÂN - TẾ THU
I. CHÚC VĂN (Lời khấn):


Phiên âm:
Tư giả

Giáp Tý niên (1), tam nguyệt sơ bát nhật. Việt Nam quốc, Quảng Nam tỉnh, Duy Xuyên huyện, Đông An tổng, Vĩnh Trinh thôn, Bùi tộc Ngũ Phái nam nữ, tử tôn, hôn tế, nội ngoại đại tiểu đẳng.

Tư nhân:

Xuân tiết tế diên (2), truy niệm Lịch đại Tiên Tổ chi lễ. Vị thử cẩn trạch Chánh tế Chủ lễ: Bùi . . . . . . . . . . . . vi Chánh bái, Bùi . . . . . . . . . . . . dữ Bùi . . . . . . . . . . . vi Bồi bái, cung trần hương đăng, hoa quả, thanh chước, sinh tư, hào soạn, thứ phẩm chi nghi.

Cảm trí tế vu:


  • Phụng vì thượng tiến Hoan châu, Nghệ An Nam lai, Tiền Hiền khai khẩn, Hiển Thỉ tổ, Hà Đông quận, Bùi Đại lang khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

  • Phụng vì thượng tiến Hiển Thượng Cao cao tổ Cai phủ Khánh Sơn hầu Bùi Quý công khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

  • Phụng vì Hiển Lịch đại Tôn tổ khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

  • Phụng vì Hiển Cao cao tổ khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

  • Phụng vì Hiển Cao cao tổ bá thúc khảo tỷ, đồng Cao cao tổ bá thúc khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

  • Phụng vì Hiển Cao cao tổ cô, đồng Cao cao tổ cô chi chánh liệt vị.

  • Phụng vì Hiển Cao tổ khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

  • Phụng vì Hiển Cao tổ bá thúc khảo tỷ, đồng Cao tổ bá thúc khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

  • Phụng vì Hiển Cao tổ cô, đồng Cao tổ cô chi chánh liệt vị.

  • Phụng vì Hiển Tằng tổ khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

  • Phụng vì Hiển Tằng tổ bá thúc khảo tỷ, đồng Tằng tổ bá thúc khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

  • Phụng vì Hiển Tằng tổ cô, đồng Tằng tổ cô chi chánh liệt vị.

  • Phụng vì Hiển Tổ khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

  • Phụng vì Hiển Tổ bá thúc khảo tỷ, đồng Tổ bá thúc khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

  • Phụng vì Hiển Tổ cô, đồng Tổ cô chi chánh liệt vị.

  • Phụng vì Hiển Khảo, Hiển Tỷ chi thần chánh vị tiền.

  • Phụng vì Hiển Bá thúc khảo tỷ, đồng Bá thúc khảo tỷ chi thần chánh vị tiền.

  • Phụng vì Hiển Cô, đồng Cô chi chánh liệt vị.

Kỵ:



  • Phục vì Tộc nội chư Chi, Phái huynh đệ, tỷ muội, nam nữ tử tôn, nội ngoại quá vãng chư tôn linh, hương linh.

  • Phổ cập môn trung hữu danh vô vị, hữu vị vô danh, huyết sảo tảo thương, sa lạc bấc thường, vong biên thất ký, biệt quán ly hương, quyên thi thất mộ, đẳng đẳng chư hương hồn liệt vị (3).


Ghi chú:
(1): Ghi niên hiệu cho thích hợp.

(2): Nếu Tế Thu, thì thay “Xuân tiết” bằng “Thu tiết”. Nếu Xuân Thu cùng chung một diên, thì thay “Xuân tiết tế diên” bằng “Xuân Thu hiệp tế”

(3): Tiếp theo là Tế văn trong mục II (dùng phần A, B hay C tùy trường hợp).

II. TẾ VĂN
A. TẾ XUÂN

Phiên âm:
Viết cung duy:
Tiên tổ Triệu bồi hữu nhật;

Tích lũy đa niên.


Minh đức kỳ lai giã viễn;

Thành hiến kỳ vĩnh vô khiên.


Thiên thu nghĩa chỉ nhân cơ, khắc xương quyết hậu;

Bá thế ân thâm trạch hậu, hữu khai tất tiên.


Tả mục hữu chiêu, đường thượng chi tinh thần tụy tụ;

Thống tôn hội phái, niên lai chi hương hỏa lưu truyền.


Tư nhân Xuân tiết;

Kỉnh cụ tế diên.


Phục kỳ lai hưởng lai hâm, vĩnh tích hòa bình hữu tượng;

Vô nại nhi tôn nhi tử, trường lưu tộ dận bất thiên.


Ngưỡng lại

Tổ tiên thùy dụ, đức trạch miên diên giả giã.


Phục duy thượng hưởng.
B. TẾ THU

Phiên âm: Viết cung duy:
Tiên tổ: Bắc địa tùng vương;

Nam thiên khải thổ.


Phi Y gia tánh tự trường biêu;

Hà Đông quận (1) tôn phường vĩnh dụ.


Tiên lục thôn nhi triệu tích, kiến đình tạo thị, ba thức quách ư nhựt tân;

Phân Ngũ phái dĩ thùy chi, kế uất thừa khiêu, diệm phong thanh vu thiên cổ.


Miếu kham quang đức, y y chi tang tử xuân hồi;

Bích nhược họa dung, uất uất chi tùng thu vân hộ.


Tinh thần tụy tụ, y quan du nhi linh sảng thức bằng;

Thể thế đảnh tân, đường cấu khẳng nhi căn cơ khắc thọ.


Mỗi lẫm tiên phân chi dũng, duy hiền duy thân;

Cảm vân ủy thoát chi thai, suất di suất tổ.


Tư giả: Thu tiết thích phòng;

Phỉ nghi cẩn cụ.


Chấp bổn phản thỉ chi lễ, nguyên chánh trọng ư ẩm hà;

Ái văn khái kiến chi hoài, thu cánh thâm ư xuân lộ.


Lai hiếu duật truy;

Vi thành mặc tố.


Thần võng đồng nhi võng oán, như tại huân cao;

Phước lai hạ nhi lai vinh, vĩnh tích dận tô.


Thử ngưỡng lại

Tiền nhân chi gia huệ giã !


Phục duy thượng hưỡng !

Ghi chú:
(1): Hà Đông quận: chỉ tộc Bùi (xem trích sao Bách gia tánh quận danh trong lịch Tàu ở trang 747).

C. – XUÂN THU HIỆP TÊ

Kính lạy Tổ tiên !


Sông Sài thủy (1) nước cuồn cuộn chảy, uống nước trong càng nhớ ngọn nguồn;

Non Tào sơn (2) cây bát ngát tươi, ngắm cây tốt, không quên cội rễ.


Nhớ Tổ tiên xưa:
Hoan quận nguyên lai;

Phi y tộc hệ.


Trên đường Nam tiến, khi băng ngàn, khi lội suối, nghìn dặm gian truân;

Nơi đất Hoa châu, có đồng ruộng, có khe trong, trăm phần tráng lệ.


Dựng đình mở chợ, Cai phủ Khánh Sơn hầu công cả, bia Đình Châu thuở trước từng ghi;

Đắp đặp khai hoang, Xá sai Lữ Tài nam bước đầu, đất Bình Thuận (3) ngày xưa thường kể.


Nào chùa, nào miểu, nào từ đường, nào tự sở, chăm việc tôn linh;

Nầy cửa, nầy nhà, này thổ phụ, nầy lương điền, lo bề sinh kế.


Đây Rộc Sách, Chà Rang, đây Đồng Nam, Cầu Cao, Gò Thị, khi sương chiều, khi nắng sớm, sáo diều dịu vợi, êm đềm thay nơi đất tổ quê cha;

Kìa An Lâm, Cổ Tháp, kìa Thanh Châu, Lệ Trạch, Cù Bàn, khi gió mát, khi trăng thanh, điệu hát véo von, thắm thiết bấy tình trúc mai lan quế.


Ruộng ăn nằm, tằm ăn đứng, giữ nghiệp nông tang;

Trước học lễ, sau học văn, nêu gương hiếu đễ.


Nếp tề gia, trọng đạo lý cương thường;

Thuật xử thế, noi thi thơ nhạc lễ.


Hơn cả dinh cơ sản nghiệp, để lại cháu con bằng âm đức, nhờ phước Tổ tiên;

Gặp cơn thủy lạo thiên tai, đỡ đần làng xóm với chí thành, thắm tình huynh đệ.


Thời cựu học xôi kinh nấu xử, sân Trình cửa khổng bậc túc nho, Tú Cử kịp người;

Buổi tân văn cách vật trí tri, gió Á mưa Âu hạng kỹ thuật chuyên viên lắm kẻ.


Kết nhân nghị chọn gia phong phúc đức, trổ chồi non, nối nghiệp tiền nhân;

Việc tu thân noi lương hữu hiền sư, dồi tánh tốt, rạng danh gia thế.


Trải lúc cơ trời biến cải, dù buổi thái bình hay cơn binh hỏa, sức âm phò nói thật khôn cùng;

Qua tuần cuộc thế đổi thay, dù nơi đất khánh hoặc ở quê nhà, ơn mặc trợ kể sao cho xuể.


Đất lành người đảm, đời này sang đời nọ, nhuần đượm hồng ân;

Nhân tốt quả xinh, lớp trước lại lớp sau, dồi dào phước huệ.


Thật là: Tổ đức tày non;

Tôn công tựa bể.


Nay nhân: Gia tiết Thanh minh;

Xuân Thu hiệp tế.


Hội họp cháu con;

Tiến hành nghi lễ.


Trầm hương nghi ngút, lễ bậc ba tuần;

Văn tế nôm na, lòng son một vẻ.


Minh dương tuy cách, đạo cảm thông sâu hẳn không sai;

Tiên tục dù xa, niềm chứng giám ắt là có lẽ.


Thắt chặt thâm tình cốt nhục, rách lành đùm bọc, cùng một lòng nội ngoại tương thân;

Gắn ghi đại nghĩa thiên luân, lớn nhỏ chở che cả năm Phái xa gần tương tế.


Sự dĩ lễ mà tế dĩ lễ, ngửa xin Trời Phật độ Tiền nhân giải thoát tiêu dao;

Sanh vi anh thì tử vi linh, cúi nguyện Tổ tiên giúp hậu thế thịnh khương miêu duệ.


Kính thay xin hưởng (4)


Chú thích:


  1. Sông Sài thủy = Sài giang, sông Thu Bồn.

  2. Non Tào sơn = hòn núi Quắp, hòn núi Chùa.

  3. Cũng như Bình Khương, Bình Thuận là một tên cũ của Vĩnh Trinh.

  4. Ô. Bùi Tấn cung soạn (1974)


tải về 132.71 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương