VƯỜn quốc gia bidoup – NÚi bà



tải về 363.49 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu26.04.2018
Kích363.49 Kb.
#37432
  1   2   3
ỦY BAN NHÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

VƯỜN QUỐC GIA BIDOUP – NÚI BÀ


DỰ THẢO



PHƯƠNG ÁN


THÀNH LẬP TRUNG TÂM

QUỐC TẾ NGHIÊN CỨU RỪNG NHIỆT ĐỚI

Tháng 8 năm 2010


MỞ ĐẦU

Vườn Quốc gia Bidoup-Núi Bà tỉnh Lâm Đồng được thành lập theo Quyết định 1240/QĐ-TTg ngày 19/11/2004 của Thủ tướng chính phủ, trên cơ sở chuyển hạng từ Khu bảo tồn thiên nhiên Bidoup-Núi Bà.

Đã trình bày ở phần dưới.

Nằm ở phía đông bắc tỉnh Lâm Đồng thuộc cao nguyên Langbiang hay cao nguyên Đà Lạt, là dãy núi cao cuối cùng của dãy Trường Sơn Nam, Vườn Quốc gia Bidoup-Núi Bà vừa chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, vừa chịu ảnh hưởng của địa hình nên khí hậu mang tính chất Á nhiệt đới. Bên cạnh đó,Vườn còn là nơi chuyển tiếp giữa vùng cao nguyên và vùng Đông Nam Bộ nên sở hữu nguồn tài nguyên sinh vật phong phú, đa dạng và rất độc đáo.


Với diện tích được giao quản lý là hơn 65.000 ha, trong đó trên 90% diện tích là rừng nguyên sinh, Vườn Quốc gia Bidoup-Núi Bà được xem như là một trong những khu vực còn lưu giữ được một diện tích rừng nguyên sinh liên tục rộng nhất Việt Nam. Thêm vào đó, diện tích rừng nguyên sinh này còn bao gồm nhiều hệ sinh thái đa dạng và đặc trưng cho hệ sinh thái rừng nhiệt đới núi cao và được xem như là mẫu chuẩn của hệ sinh thái rừng quốc gia gồm các kiểu rừng đặc trưng của vùng Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, và do vậy đã trở thành một điểm đến ưa thích của các nhà khoa học và sinh viên trong và ngoài nước đến nghiên cứu về rừng nhiệt đới.
Được đánh giá là một trong bốn trung tâm đa dạng sinh học của Việt Nam, Vườn Quốc gia Bidoup-Núi Bà sở hữu tính đa dạng sinh học cao về hệ động thực vật. Ngoài các họ thực vật đặc trưng cho vùng Á nhiệt đới như: Fagaceae, Lauraceae, Ericaceae, Theaceae…, nổi bật hơn cả là Vườn Quốc gia sở hữu đến 14 loài hạt trần trên tổng số 33 loài hạt trần có mặt tại Việt Nam, trong đó nhiều loài đặc hữu có giá trị cao về khoa học như: Pinus kremfii, Pinus dalatensis, Taxus wallichiana, Podocarpus neriforius…. Vườn Quốc gia cũng được đánh giá là một trong những trung tâm đa dạng về lan của quốc gia.
Hệ động vật của VQG cũng rất đa dạng và đặc hữu cao với các điểm nổi bật đối với khu hệ thú VQG Bidoup-Núi Bà là sự hiện diện tương đối đầy đủ của các loài thú lớn móng guốc như: Bò tót (Bos gaurus), Trâu rừng (Bubalus arnee), Sơn dương (Naemorhedus sumatraensis), Mang lớn (Megamuntiacus vuquangensis), Voi (Elephas maximus). Các loài linh trưởng cũng khá phong phú (07loài).

Theo phân tích và đánh giá của tổ chức chim quốc tế (Birdlife International) năm 1998, Vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà thuộc cao nguyên Đà Lạt là một trong 3 vùng chim đặc hữu (EBA) của Việt Nam. Riêng Vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà chiếm 03/6 vùng chim quan trọng (IBA) của cao nguyên Đà Lạt: Bidoup (VN036), Langbian (VN037), Cổng trời (VN056).


Với tính đa dạng và đặc hữu cao về hệ động thực vật, rừng của Vườn Quốc gia Bidoup-Núi Bà thực sự đang chứa đựng nhiều giá trị khoa học quí giá cần được nghiên cứu và khám phá để phục vụ chung cho sự tiến bộ của khoa học nhân loại. Vì lý do này, từ ngày thành lập đến nay đã có rất nhiều đoàn nghiên cứu trong nước và quốc tế đã chọn Vườn Quốc gia như một điểm đến cho việc tiến hành các nghiên cứu cơ bản và chuyên sâu về hệ động thực vật rừng nhiệt đới. Các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học này đã góp phần vô cùng quan trọng trong việc từng bước giải mã các bí ẩn khoa học chứa đựng trong các cánh rừng nhiệt đới nguyên sinh của Vườn và từ đó đã giúp Vườn từng bước đề xuất các chiến lược bảo tồn hiệu quả cho các loài động thực vật quí hiếm, góp phần vào chiến lược quản lý rừng bền vững của Vườn Quốc gia Bidoup-Núi Bà.
Để thuận lợi hơn trong công tác thu hút nguồn lực từ các chuyên gia trong nước và quốc tế tham gia vào công tác nghiên cứu khoa học đẩy mạnh công tác hợp tác nghiên cứu khoa học trong xu hướng toàn cầu hóa; tranh thủ cơ hội đào tạo nguồn nhân lực, thúc đẩy du lịch sinh thái và dịch vụ khoa học Việc thành lập Trung tâm Quốc tế Nghiên cứu về Rừng Nhiệt đới-Vườn Quốc gia Bidoup-Núi Bà là rất cần thiết. Thành lập trung tâm quốc tế nghiên cứu về rừng nhiệt đới cũng nhằm từng bước kiện toàn mô hình hoạt động của Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà, góp phần vào chiến lược bảo tồn hiệu quả nguồn tài nguyên đa dạng sinh học quốc gia


PHẦN I
THÔNG TIN CHUNG VỀ VƯỜN QUỐC GIA BIDOUP-NÚI BÀ

1.1. CHỨC NĂNG – NHIỆM VỤ:

      1. Chức năng:

  • Trực tiếp quản lý bảo vệ rừng đồng thời thực hiện chức năng thừa hành pháp luật về quản lý bảo vệ rừng trên phạm vi diện tích được giao.

  • Xây dựng, phát triển và sử dụng rừng theo qui hoạch, dự án, kế hoạch được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.

      1. Nhiệm vụ:

  • Bảo tồn và phục hồi tài nguyên thiên nhiên; phát triển và bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên của Vườn Quốc gia; nghiên cứu khoa học kết hợp mở rộng các hoạt động dịch vụ khoa học, học tập và tham quan du lịch.

  • Bảo tồn các hệ sinh thái rừng trong vùng khí hậu Á nhiệt đới núi cao và các loài động thực vật rừng đặc hữu, quí hiếm, gắn kết với các Vườn Quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên kế cận để tạo thành một vùng bảo tồn thiên nhiên rộng lớn, góp phần cho việc bảo tồn đa dạng sinh học ở cao nguyên Đà Lạt, vùng Nam Tây Nguyên và Nam trung bộ.

  • Góp phần phòng hộ đầu nguồn nước cho hệ thống sông Đồng Nai; Sông Serepok và các hồ chứa ở hạ lưu nhằm phục vụ cho các hoạt động phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Lâm Đồng, vùng Nam Tây nguyên, Đông Nam Bộ và Duyên hải cực Nam Trung Bộ.

  • Bảo tồn các sinh cảnh rừng nguyên sinh để tôn tạo và phát triển kiến trúc đô thị thành phố Đà Lạt, bảo tồn các đặc trưng văn hoá bản địa nơi cội nguồn của thành phố Đà Lạt, phục vụ công tác nghiên cứu khoa học và giáo dục về rừng nhiệt đới, phát triển du lịch sinh thái và góp phần củng cố an ninh quốc phòng của tỉnh Lâm Đồng và vùng Tây nguyên.

  • Thực hiện các chương trình hoạt động của Vườn Quốc gia được Chính phủ qui định bao gồm:

+ Bảo tồn tài nguyên rừng và bảo tồn đa dạng sinh học.

+ Phục hồi sinh thái.

+ Phòng chống chữa cháy rừng.

+ Nghiên cứu khoa học.

+ Phát triển du lịch sinh thái.

+ Tuyên truyền giáo dục và bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên.

+ Hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội vùng đệm.

+ Xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực và trang thiết bị khoa học kỹ thuật.

+ Hợp tác Quốc tế.


    1. CƠ CẤU TỔ CHỨC:

  • Ban giám đốc : gồm 1 Giám đốc và 3 Phó giám đốc.

  • Các phòng ban chức năng : bao gồm:

+ Phòng Tổ chức hành chính;

+ Phòng Tài vụ;

+ Phòng Kỹ thuật và Nghiên cứu khoa học;

+ Phòng Kế hoạch và Hợp tác quốc tế, và

+ Tổ xúc tiến công tác du lịch sinh thái và giáo dục môi trường.

Và 01 đơn vị trực thuộc:



+ Hạt Kiểm Lâm Vườn Quốc gia Bidoup – Núi Bà;

  1. Nhân lực:

Cho đến nay, tổng số cán bộ công chức Vườn Quốc gia là 100 người, gồm 88 CB CNV trong biên chế và 22 hợp đồng, trong đó:

  • Trên đại học : 5

  • Đại học các chuyên ngành có liên quan: 38

  • Trung học chuyên nghiệp: 44

  • Khác: 13

Nguồn nhân lực cho hoạt động của Trung tâm Quốc tế Nghiên cứu về rừng Nhiệt đới sẽ được tăng cường thông qua hệ thống các cộng tác viên từ các Viện nghiên cứu, trường đại học trong nước và quốc tế. Nguồn nhân lực này đảm bảo sẽ đáp ứng đầy đủ trong việc thực hiện các nhiệm vụ, triển khai các hoạt động nghiên cứu khoa học của Trung tâm.

PHẦN II
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI

VƯỜN QUỐC GIA BIDOUP-NÚI BÀ

    1. ĐIỀU KIỆNTỰ NHIÊN:

      1. Căn cứ pháp lý liên quan đến việc thành lập VQG

Ngày

Quyết định số

Chi tiết

Trước 1986




Diện tích rừng của VQG được quản lý bởi BQL rừng phòng hộ đầu nguồn hồ thủy điện Đa Nhim, Xí nghiệp Lâm nghiệp Lạc Dương và Lâm Trường Đà Lạt nay là BQL rừng PHCQ Lâm Viên

9/8/1986

Chỉ thị số 194/CT của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng

Ban hành chỉ thị về việc thành lập Khu bảo tồn thiên nhiên Núi Bà (6.000 ha) và khu bảo tồn thiên nhiên Đa Nhim Thượng (7.000 ha). Hai khu BTTN này sau đó được kết hợp lại để hình thành Khu BTTN Bidoup-Núi Bà

22/10/1993

Quyết định số 1496/QĐ-UBTC của UBND tỉnh Lâm Đồng

Trách nhiệm quản lý của khu BTTN Bidoup-Núi Bà được chuyển sang cho BQL rừng đặc dụng

1995




Kế hoạch đầu tư của Bidoup-Núi Bà do Phân Viện điều tra qui hoạch rừng Nam Bộ và Chi cục lâm nghiệp Lâm Đồng xây dựng đã đề xuất thành lập một khu BTTN với diện tích 71.062 ha, gồm phân khu bảo vệ nghiêm ngặt 50.503 ha, và phân khu phục hồi sinh thái 20,559 ha. Sau đó kế hoạch đầu tư này đã được UBND tỉnh Lâm Đồng và Bộ Lâm nghiệp (cũ) phê duyệt.

26/12/2002

Quyết định số 183/QĐ-UB của UBND tỉnh Lâm Đồng

BQL rừng đặc dụng được tái cấu trúc thành BQL khu BTTN. Tổng diện tích của khu BTTN là 64.366 ha, thuộc sự quản lý của Sở Nông nghiệp và PTNT Lâm Đồng.

19/11/2004

Quyết định số 1240/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ

Chuyển khu BTTN Bidoup-Núi bà thành VQG Bidoup-Núi Bà trong hệ thống rừng đặc dụng, tổng diện tích của VQG là 64.800 ha

19/02/2008

Quyết định 450/QĐ-UB của UBND tỉnh Lâm Đồng


Chuyển 8.266 ha rừng đặc dụng của VQG thành rừng phòng hộ

30/10/2009

Quyết định 1738/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ

Phê duyệt kết quả rà soát điều chỉnh phân phu chức năng VQG, trong đó tổng diện tích VQG là 63.938 ha với 56.436 ha là đặc dụng, 7.502 ha là rừng phòng hộ xung yếu

7/1/2010

Quyết định 19/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng

Thu hồi 1025 ha đất lâm nghiệp do BQL rừng phòng hộ đầu nguồn Đa Nhim quản lý và giao cho Vườn Quốc gia Bidoup-Núi Bà để sử dụng làm khu trung tâm hành chính dịch vụ và quản lý bảo vệ rừng



      1. Vị trí, ranh giới

Vị trí

VQG Bidoup-Núi Bà nằm ở cuối vùng Đông Bắc của cao nguyên Đà Lạt thuộc vùng núi cao Nam Việt Nam, huyện Lạc Dương, Đông Bắc tỉnh Lâm Đồng

Tọa độ địa lý

Từ 12000’ đến 120 19’ vĩ độ Bắc.

Từ 108021’ đến 108044’ kinh độ Đông.




Tỉnh

Lâm Đồng

Xã, Huyện

Xã: Dachais, Dasar, Danhim, Dưng K’nớ, Lát và thị trấn Lạc Dương của Huyện Lạc Dương; một phần Xã Đạ Tông của Huyện Đam Rông

Diện tích quản lý

  • Tổng diện tích quản lý: 65.188 ha

  • Diện tích vùng đệm: 33.966 ha

Tiếp cận

Khoảng 50 km từ thành phố Đà Lạt đến VQG bằng tỉnh lộ 723

Ranh giới

  • Phía tây và nam: Giáp với sông Serepok và rừng phòng hộ đầu nguồn Đa Nhim tỉnh Lâm Đồng;

  • Phía bắc: Giáp với VQG Chư Yang Sin, tỉnh Đắc lắc;

  • Phía đông: Giáp với tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận.

2.1.3. Địa hình

Nhìn chung địa hình của khu vực Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà nghiêng theo hướng Đông Bắc-Tây Nam. Địa hình bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi cao như dãy Bidoup chạy theo hướng Đông Nam; dãy Giarich hướng Đông bắc hay dãy Hòn Giao theo hướng Bắc nam. Điều kiện địa hình này cùng với độ chênh cao lớn, từ 600 m (Sông Krongno) và 2.287m (đỉnh Bidoup) hay 2167m (đỉnh Núi Bà) đã tạo ra các kiểu hệ sinh thái rừng và cùng với đó là hệ động thực vật đa dạng và đặc trưng, sẽ là các đối tượng nghiên cứu khoa học quan trọng cho các chuyên gia trong nước và quốc tế.



      1. Khí hậu - Thuỷ văn:

- Khí hậu: Vườn Quốc gia Bidoup – Núi Bà nằm trên địa hình núi trung bình và núi cao, có độ cao trung bình 1.500m – 1.800m, được bao quanh bởi các dãy núi cao, nên tuy nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nhưng khí hậu tại Vườn QG có khí hậu ôn hoà, mát mẻ quanh năm.

Trong năm có hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau; Nhiệt độ trung bình năm 180C; Lượng mưa trung bình: 1800mm; Độ ẩm vào mùa khô là 80% và mùa mưa là 85%. Tuy nhiên tại các đai có độ cao trên 1.900m như Bidoup, Hòn Giao, Gia Rích, Chư Yên Du thì lượng mưa có thể đạt 2.800 – 3.000mm/năm và có sương mù bao phủ quanh năm.



- Thuỷ văn: VQG Bidoup – Núi Bà là thượng nguồn của các hệ thống sông Krông Nô là một nhánh của sông Mêkong, Sông Đồng Nai, là nguồn cung cấp nước cho các nhà máy thuỷ điện ở các tỉnh miền Nam và còn là nguồn cung cấp, duy trì nguồn nước cho các hồ tại Thành Phố Đà Lạt và vùng phụ cận.

    1. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI:

2.2.1. Dân số

VQG Bidoup – Núi Bà nằm trên địa bàn 5 xã của huyện Lạc Dương là: Xã Lát, Đưng Knớ, Đạ Sar, Đạ Chais và Đạ Nhim và một phần nhỏ xã Đạ Tông, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng. Toàn bộ các xã đều nằm ở vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn, có diện tích lớn và dân cư thưa thớt. Tổng diện tích của 5 xã là 127.363,00 ha, tổng số hộ là 2.840 hộ với 14.242 nhân khẩu.Mật độ dân số bình quân là 11,2 người/km2. Trong đó, có những xã có mật độ dân số rất thấp như Đa Chais (3,9 người/km2), Xã Lát (6,0 người/km2).

Hầu hết dân cư đều nằm ngoài vùng lõi của VQG (93,06%), tuy nhiên vẫn còn một số ít đang sống trong vùng lõi. Số dân cư đang sống trong vùng lõi là 193 hộ với 942 nhân khẩu (chiếm 6,94%). Số hộ này tập trung tại 2 thôn là: thôn Klong Klanh (147 hộ với 677 nhân khẩu) và thôn Đưngksi (46 hộ với 265 nhân khẩu) của xã Đạ Chais. Ngoài ra, tại xã Đa Sar và xã Đa Nhim (khu vực Đưng Ja Giêng) vẫn còn có 27 hộ gia đình tuy không định cư cố định nhưng vẫn còn có các hoạt động canh tác nông nghiệp với diện tích khoảng 20ha.
2.2.2. Thành phần dân tộc

Trên địa bàn quản lý của Vườn Quốc gia thì dân tộc K’Ho (gồm bộ tộc người Cill chủ yếu sống ở các xã: Đạ Chais, Đa Nhim, Đa Sar, Đưng K’nớ và bộ tộc người Lạch chủ yếu ở xã Lát) là dân tộc bản địa lớn nhất với 2.424 hộ, chiếm 87,23%, còn lại là 976 hộ dân tộc Kinh chiếm 12,77%.



2.2.3. Dân trí

Hiện nay, tại 5 xã có tổng cộng 3.756 học sinh–sinh viên, chiếm 26,37% tổng dân số. Trong đó, cấp 1 là 1.882 học sinh chiếm 13,21% tổng dân số; cấp 2 là 1.236 học sinh chiếm 8,68% tổng dân số, cấp 3 là 480 học sinh chiếm 3,37% tổng dân số và số sinh viên đang theo học tại các trường ĐH, CĐ và THCN là 158 chiếm 1,11% tổng dân số.


2.2.4. Lao động

Nguồn lao động là khá lớn (có 8.900 lao động chiếm 62,49% dân số đang trong tuổi lao động), trong đó, nam là 4.313 người và nữ là 4.587 người), số người ngoài độ tuổi lao động là 5.342 người chiếm 37,51%. Tuy nhiên hầu hết lao động đều là lao động phổ thông chưa được đào tạo nghề, công việc chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, đánh bắt cá, tham gia tổ giao khoán BVR, làm thuê theo thời vụ.



2.2.5. Giới

Phụ nữ chiếm 48,67 % tổng dân số của 5 xã. Phụ nữ người K’Ho thường sinh rất nhiều con và làm chủ gia đình (theo chế độ mẫu hệ). Họ có quyền kiểm soát các nguồn lực của gia đình như đất đai, vật nuôi, tiền bạc. Họ tham gia vào hầu hết các hoạt động kinh tế bao gồm cả các công việc nặng nhọc cần nhiều cơ bắp như làm rẫy, lấy củi và họ cũng là người chăm lo con cái, chăm lo bữa cơm trong gia đình. Trong gia đình, họ thường đóng vai trò là chủ hộ, nhưng trên thực tế việc quyết định sử dụng mua bán tài sản trong gia đình lại do người đàn ông quyết định. Ngoài ra, do trình độ dân trí thấp hơn, khả năng nói tiếng phổ thông kém, ít khi được đi chợ huyện, chợ tỉnh nên phụ nữ K’ho thường ngại tiếp xúc với người ngoài. Do đó, họ hầu như họ không tham gia các chương trình tập huấn, khuyến nông, khuyến lâm để nắm bắt thông tin về sản xuất, thị trường, cuộc sống chính trị xã hội.



2.2.6. Sinh kế

Nguồn thu nhập chính của các hộ trong vùng chủ yếu là từ Nông nghiệp (chiếm khoảng 87% tổng thu nhập). Trong đó cà phê và bắp là 02 nguồn thu nhập chính. Song hầu hết các hộ có diện tích đất nông nghiệp rất ít, nhập lượng cho nông nghiệp thấp (phân bón, nước tưới, thuốc bảo vệ thực vật, quy trình công nghệ…) kỹ thuật canh tác yếu, nguồn giống không đảm bảo nên năng suất cây trồng rất thấp, cộng với chi phí sản xuất cao nên tiền lãi hàng năm rất thấp, thậm chí còn bị lỗ.

Ngoài nguồn thu từ sản xuất nông nghiệp nguồn thu từ nhận khoán BVR cũng là nguồn thu quan trọng của các hộ. Đối với các hộ được chi trả dich vụ môi trường với mức 290.000 đồng/ha/năm hàng quý có thể được nhân tới 3 triệu đồng, thậm chí còn cao hơn. Đối với các vùng không được chi trả dịch vụ môi trường thì ngoài tiền giao khoán BVR theo chính sách còn được hỗ trợ thêm 100.000 đồng/ha theo chương trình 30a.
Số hộ nghèo và tỷ lệ %




Tổng số hộ

Hộ nghèo

Tỷ lệ
(%)


Thu nhập BQ
của hộ nghèo


§¹ Nhim

619

196

31,66

125.744

X· L¸t

876

194

22,15

104.830

§­ng Kní

313

141

45,05

100.837

§¹ Chais

279

115

41,22

153.432

§¹ Sar

753

190

25,23

112.658

Tổng cộng

2840

836

29,44

119.500

2.2.7. Sự phụ thuộc vào rừng

Với gần 30% số hộ gia đình có thu nhập dưới 200.000 đồng/tháng, trong năm thường thiếu ăn 1-2 tháng, nguồn thu nhập chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp (83,4%), gia đình thường đông con, trình độ dân trí rất thấp nên cuộc sống của hầu hết các hộ trong vùng là phụ thuộc vào rừng.

Các loại sản phẩm mà người dân có từ rừng là: Gỗ, củi, nấm, hạt dẻ, dớn, lan, măng, rau rừng và đốt than. và một số loài động vật làm thực phẩm và bán lấy tiền.

Các loại lâm sản chính, mục đích, thời gian thu hái và mức độ quan trọng

Sản phẩm

Mục đích

Thời gian

Mức độ quan trọng

Gỗ

Làm nhà, bán lấy tiền

Lúc làm nhà, lúc rảnh rỗi

2

Củi

Để đun nấu

Quanh năm

1

Lan, dớn

Trồng và bán

Quanh năm

4

Măng, rau rừng, nấm

Để ăn

Quanh năm

3

Đốt than

Để dùng và bán

Chủ yếu mùa khô

9

Săn bắt thú

Để ăn và bán

Quanh năm đối với người chuyên

8

Cây thuốc

Để chữa bệnh

Lúc đau ốm

6

Đánh bắt cá suối, ếch, rắn….

Để ăn và bán

Lúc rảnh rỗi

5

Các sản phẩm khác

Để dùng và bán

Quanh năm

7

2.3. TÀI NGUYÊN ĐA DẠNG SINH HỌC CHO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VƯỜN QUỐC GIA BIDOUP-NÚI BÀ

Vườn Quốc gia Bidoup – Núi Bà với diện tích quản lý trên 65.000ha, trong đó diện tích có rừng chiếm 91%, được đánh giá là một trong bốn trung tâm đa dạng sinh học của Quốc gia, chứa đựng nhiều giá trị đa dạng sinh học có giá trị ở cả 3 cấp độ: hệ sinh thái, loài và nguồn gien. Các giá trị đa dạng sinh học này còn chứa đựng nhiều bí ẩn khoa học cần được sự tham gia tìm hiểu, nghiên cứu của các chuyên gia trong và ngoài nước để phục vụ ngày càng hiệu quả hơn cho công tác bảo tồn và quản lý rừng bền vững tại Vườn Quốc gia.

Tài Nguyên về đa dạng sinh học của VQG có thề được tóm tắt như sau:



tải về 363.49 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương