Văn minh và những Bất mãn từ nó Sigmund Freud (1856 1939)



tải về 0.76 Mb.
trang3/13
Chuyển đổi dữ liệu11.09.2017
Kích0.76 Mb.
#33083
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13

Trong phân tích vừa mới qua, tất cả khổ đau là không có gì khác hơn ngoài sự xúc cảm, nó chỉ tồn tại chừng nào chúng ta cảm thấy nó, và chúng ta chỉ cảm thấy nó trong hệ quả của những đường lối nhất định, trong đó cấu trúc sinh vật của chúng ta bị quy định.
Thô sống nhất, nhưng cũng hiệu quả nhất trong những phương pháp tạo ảnh hưởng này là một phương pháp hóa học – uống chất gây say. Tôi không nghĩ rằng có bất cứ ai hoàn toàn hiểu được cơ chế của nó, nhưng một sự kiện là có những chất lạ, khi hiện diện trong máu hoặc mô tế bào, trực tiếp gây cho chúng ta những cảm giác thích thú, và chúng cũng thay đổi những điều kiện quản trị sự nhạy cảm của chúng ta khiến chúng ta trở thành không có khả năng để tiếp nhận những xung lực không thích thú.
Hai hiệu ứng không chỉ xảy ra đồng thời, nhưng dường như ràng buộc mật thiết với nhau. Nhưng phải có những thực chất trong kết cấu hóa học của cơ thể của chính chúng ta, chúng có những tác dụng tương tự, bởi vì chúng ta biết ít nhất một trạng thái bệnh lý, mania [7], trong đó một điều kiện tương tự như say sưa phát sinh mà không có cho uống bất kỳ loại thuốc uống say sưa độc hại nào.
Bên cạnh điều này, đời sống tinh thần bình thường của chúng ta trưng bày những dao động giữa một thoát mở tương đối dễ dàng của niềm vui và một thoát mở tương đối khó khăn, song song với điều đó có một giảm bớt đi hoặc một tăng lên sự cảm thụ với khó chịu không vui. Rất đáng tiếc khía cạnh nhiễm say sưa này của tiến trình trí não cho đến nay đã tránh thoát nghiên cứu khoa học.
Dịch vụ đem lại từ những môi chất làm say sưa [8] này trong phấn đấu cho hạnh phúc, và trong giữ đau khổ ở cách một khoảng xa, là được ước vọng rất cao như một phúc lợi mà những cá nhân và và đám đông đều như nhau đã cho chúng một chỗ vững chãi trong nền kinh tế của libido [9] của họ. Chúng ta nợ những môi chất làm say sưa loại giống như vậy không chỉ đơn thuần là thu hoạch trực tiếp của niềm vui, nhưng cũng còn một mức độ độc lập với thế giới bên ngoài được khao khát rất lớn. Bởi vì người ta biết rằng, với sự giúp đỡ của chất “đánh chìm những bận lòng” [10] này, một người bất kỳ lúc nào cũng có thể rút khỏi áp lực của thực tại, và tìm trú ẩn trong một thế giới của một người riêng, với những điều kiện tốt hơn về sự nhạy cảm.
Như được biết rõ, chính là do thuộc tính này của những chất gây say nó cũng quyết định sự nguy hiểm và gây thương tích của chúng. Chúng có trách nhiệm, trong những trường hợp nhất định, cho sự phí phạm vô ích một phần chia lớn của sinh lực vốn có thể đã được sử dụng vào sự cải thiện của đám đông nhân loại.
Cấu trúc phức tạp của bộ máy trí não của chúng ta, tuy nhiên, chấp nhận cả toàn bộ một số những ảnh hưởng khác. Cũng đúng như khi một thỏa mãn của bản năng đem hạnh phúc đến cho chúng ta, nên khổ đau khốc hại sinh ra cho chúng ta nếu thế giới bên ngoài để chúng ta thiếu ăn, nhịn đói, nếu nó từ chối không thỏa mãn chán ngấy những nhu cầu của chúng ta. Do đó người ta có thể hy vọng sẽ thoát khỏi được một phần của những đau khổ của người ta, bằng cách ảnh hưởng trên những xung động bản năng.
Đây là loại bảo vệ chống đau khổ thôi không còn được áp dụng cho bộ máy cảm giác, nó tìm cách để làm chủ những nguồn gốc bên trong của những nhu cầu chúng ta. Hình thức cực đoan của điều này là nguyên nhân xảy ra làm giết sạch những bản năng, như được sự khôn ngoan thế gian của phương Đông kê đơn, và được thực hành trong Yoga.
Nếu như nó thành công, đó là sự thật, sau đó chủ thể cũng từ bỏ tất cả những hoạt động khác nữa - ông đã hy sinh đời mình, bằng con đường khác, và một lần nữa ông chỉ đạt được hạnh phúc của sự tĩnh lặng. Chúng ta theo con đường tương tự, khi mục tiêu của chúng ta ít cực đoan hơn, và chúng ta chỉ thử cố gắng kiểm soát đời sống bản năng của chúng ta. Trong trường hợp đó, những yếu tố kiểm soát là những tác lực tinh thần cao hơn, vốn tự thân chúng là đối tượng của nguyên tắc thực tế.
Ở đây, mục tiêu của sự thỏa mãn là hoàn toàn tất cả tuyệt không có nghĩa buông bỏ; nhưng một số lượng nhất định của sự bảo vệ chống lại đau khổ được nắm giữ, trong sự không-thỏa mãn đó, đau đớn không phải chịu cảm nhận đến thế, như trong trường hợp của những bản năng giữ phụ thuộc như trong những trường hợp của những không-bị-cấm-đoán. Như chống lại điều này, có một giảm thiểu không chối cãi trong tiềm năng của vui hưởng thích thú. Xúc cảm về hạnh phúc xuất phát từ sự thỏa mãn của một thúc đẩy có tính bản năng man dã, không uốn nắn, đến từ ego, thì dữ dội hơn không thể sánh với cái xuất phát từ một sự thỏa mãn đến ngấy một bản năng đã được thuần hóa. Những khôn cưỡng được của những bản năng đồi trụy, và có lẽ sự hấp dẫn nói chung của những thứ bị cấm, tìm thấy một giải thích về lợi hại hơn thiệt ở đây.
Một kỹ thuật khác để ngăn chống đau khổ là sử dụng những chuyển dịch vị trí của libido, vốn bộ máy trí não của chúng ta cho phép làm, và qua đó chức năng của nó thu gặt được sự mềm dẻo rất nhiều. Công việc ở đây là là chuyển đổi những mục tiêu bản năng theo một cách sao cho chúng không thể trồi lên va đầu với thất vọng từ thế giới bên ngoài. Trong điều này, sự thăng hoa của những bản năng [11] giúp tay hỗ trợ của nó. Người ta gặt hái được nhiều nhất, nếu như người ta có thể nâng cao đầy đủ năng suất của niềm vui từ những nguồn của công việc thuộc về tinh thần và trí tuệ. Khi được như vậy, số phận ít có thể làm được gì với một người.
Một sự thỏa mãn của loại này, chẳng hạn như niềm vui của một nghệ sĩ trong sáng tạo, trong việc đem cho ra khối lượng những tưởng tượng lạ lùng của ông, hoặc của một nhà khoa học trong việc giải quyết vấn đề hay khám phá những sự thật, có một tính chất đặc biệt mà chúng ta chắc chắn một ngày sẽ có thể mô tả trong những thuật ngữ khoa lý thuyết ức đoán tâm lý [12].
Lúc này đây, chúng ta chỉ có thể nói tượng trưng rằng những thỏa mãn như vậy có vẻ “thanh hơn và cao hơn”. Nhưng cường độ của chúng là dịu nhẹ so với của những có nguồn gốc từ thỏa mãn chán ngấy những xung động bản năng thô dã và nguyên sơ; nó không làm chấn động sinh mạng vật lý của chúng ta. Và điểm yếu của phương pháp này là nó không áp dụng được một cách tổng quát: chỉ với một số ít người có thể đạt đến nó.
Nó tiền giả định là bao hàm một sở hữu của những phân bối và những quà tặng đặc biệt, vốn với bất kỳ mức độ thực tế nào, chúng là rất xa mới thành phổ thông. Và ngay cả với một số ít người quả thực sở hữu chúng, phương pháp này không thể đem cho sự bảo vệ hoàn toàn khỏi khổ đau. Nó không tạo ra áo giáp không thể xuyên thủng nào để chống lại những mũi tên của số mệnh, và nó có thói quen thất bại khi nguồn gốc của khổ đau là cơ thể của riêng của một người [13].
Trong khi trình tự này đã rõ ràng cho thấy một dự định để làm một người độc lập với thế giới bên ngoài, bằng tìm kiếm sự thỏa mãn ở bên trong, những tiến trình thuộc về tinh thần, trình thức tiếp theo sẽ đem phơi ra những đặc trưng đó lại còn mạnh mẽ hơn. Trong nó, sự liên kết với thực tại vẫn còn lỏng lẻo hơn nhiều nữa, thỏa mãn là thu được từ những ảo tưởng, chúng được nhận thức như thể không có sự khác biệt giữa chúng và thực tại được cho phép can dự với sự vui hưởng.
Khu vực mà từ đó những ảo tưởng này nổi lên là đời sống của sự tưởng tượng; vào thời gian khi sự phát triển của ý thức về thực tại đã xảy ra, khu vực này đã được bày tỏ được miễn trừ khỏi những đòi hỏi của thử nghiệm-thực tại, và đã được đặt riêng ra cho mục đích của những ao-ước-mong-thỏa-mãn [14] vốn chúng là đã khó khăn để thực hiện cho được.
Đứng đầu trong những thỏa mãn này thông qua fantasy là sự vui hưởng của những tác phẩm nghệ thuật – một thích thú vui hưởng, vốn do tác nhân của nghệ sĩ, được làm cho ngay cả những người tự họ không thuộc giới sáng tạo cũng tiếp cận được [15]. Ai là người có thể tiếp thụ được ảnh hưởng của nghệ thuật không thể đặt một giá trị quá cao cho nó như là một nguồn vui và an ủi trong đời sống. Dù sao đi nữa, sự gây mê nhẹ gây ra trong chúng ta bằng nghệ thuật không có thể làm hơn được ngoài đem ra một rút lui tạm thời ngắn ngủi khỏi áp lực của những nhu cầu của sống còn, và nó không đủ mạnh để làm cho chúng ta quên đi đau khổ thực sự.
Một trình tự khác, hoạt động đầy năng lực mạnh mẽ hơn và thông quán toàn diện hơn. Nó nhìn thực tại như là kẻ địch độc nhất, và như nguồn gốc của tất cả mọi khổ đau, vốn không thể nào có thể sống được với nó, thế nên người ta phải cắt đứt tất cả những quan hệ với nó, có thế người ta mới có hạnh phúc dù là trong cách bất kỳ nào đi nữa. Vị đạo sĩ ẩn tu quay lưng ông lại với thế giới, và sẽ không có trao đổi mặc cả nào với nó. Nhưng người ta có thể làm nhiều hơn thế; người ta có thể cố gắng tái tạo thế giới, để xây lên thay vào trong chỗ đứng của nó một thế giới khác, trong đó những nét đặc biệt nào của nó không thể chịu đựng được bị loại bỏ, và thay thế bằng những cái khác phù hợp với mong ước của riêng một người.
Nhưng bất cứ là ai, trong thách thức tuyệt vọng, bát đầu hành trình trên lối này để đến hạnh phúc, như một quy luật sẽ không đạt được gì cả. Thực tại là quá mạnh với anh ta. Anh trở thành một người điên, một người trong hầu hết mọi phần không tìm thấy được một ai giúp anh trong việc thực hiện qua trọn những ảo tưởng của anh ta.
Tuy nhiên, điều được xác định là mỗi người trong chúng ta hành xử trong một cách, dưới cái nhìn của người khác, như một kẻ bị bệnh hoang tưởng [16], sửa chữa một vài khía cạnh của thế giới vốn anh ta không thể chịu đựng được, bằng sự xây dựng một ao ước và đưa ảo tưởng này vào trong thực tại.
Một tầm quan trọng đặc biệt gắn với trường hợp vốn trong đó cố gắng này nhằm kiếm chác một chắc chắn của hạnh phúc, và một bảo vệ chống lại đau khổ, qua một sự trộn khuôn đúc lại ảo tưởng cho thực tại, được một số lượng đáng kể con người nói chung đem thực hiện. Những tôn giáo của nhân loại phải được xếp vào trong số những ảo tưởng của quần chúng thuộc về loại này. Không một ai, không cần phải nói, là người chia sẻ một ảo tưởng đã từng bao giờ công nhận nó là như thế.
Tôi không nghĩ rằng tôi đã thực hiện một liệt kê đầy đủ những phương pháp, vốn qua chúng con người gắng gỏi để dành hạnh phúc và giữ đau khổ ở xa, và tôi cũng biết nữa, rằng chất liệu đã có thể được sắp xếp một cách khác đi. Một trình tự tôi đã vẫn chưa đề cập - không phải tôi đã quên nó, nhưng vì nó sẽ là quan tâm của chúng ta sau này trong một kết nối khác.
Và làm sao người ta lại có thể quên được, trong tất cả những gì khác, kỹ thuật này trong nghệ thuật sống? Nó nổi bật dễ thấy vì một sự kết hợp đáng chú ý nhất của những tính năng đặc trưng. Cũng thế, dĩ nhiên nó có mục tiêu nhắm làm cho chủ thể độc lập với Số Phận [17] (tốt nhất là gọi nó như thế), và đến cuối cùng đó, nó tìm ra chỗ của sự thỏa mãn trong những tiến trình trí não nội bộ, trong khi làm như vậy, đem sử dụng sự chuyển đổi của libido mà chúng ta đã nói.
Nhưng nó không quay lưng lại với thế giới bên ngoài; trái lại, nó bám vào những đối tượng thuộc thế giới đó và thu nhận được hạnh phúc từ một quan hệ xúc cảm với chúng. Cũng không phải nó hài lòng với mục tiêu nhắm một sự tránh khó chịu không vui - một mục đích, như chúng ta có thể gọi nó, thuộc sự cam chịu mệt mỏi; nó vượt qua điều này bằng cách không chú ý nhiều và không giữ chặt với cái nguyên bản, phấn đấu đầy đam mê cho một thực hiện tích cực của hạnh phúc. Và có lẽ nó thực sự đến gần với mục tiêu này hơn bất kỳ phương pháp khác.
Tất nhiên, tôi đương nói về cách sống vốn nó lấy tình yêu làm trung tâm của tất cả mọi thứ, vốn nó tìm kiếm tất cả sự thỏa mãn trong yêu thương và được thương yêu. Một thái độ tâm lý thuộc loại này đủ tự nhiên đến với tất cả chúng ta; một trong những hình thức mà trong đó tình yêu tự nó thể hiện - tình yêu tính dục [18] - đã cho chúng ta kinh nghiệm mạnh mẽ nhất của chúng ta về một cảm giác tràn ngập lạc thú, và như thế đã trang bị cho chúng ta với một mô hình trong săn tìm hạnh phúc của chúng ta.
Còn điều gì tự nhiên hơn là chúng ta nên kiên trì khi tìm kiếm hạnh phúc dọc theo con đường mà chúng ta đầu tiên trên đó đã chạm mặt nó? Mặt yếu của kỹ thuật sống này dễ dàng nhận thấy; nếu không không có con người nào sẽ nghĩ đến việc bỏ con đường đến hạnh phúc này với bất kỳ gì khác. Đó là chúng ta không bao giờ bỏ ngỏ không phòng vệ đến thế trong chống lại đau khổ, như khi chúng ta yêu thương, không bao giờ bị bất hạnh trong bất lực không sao giúp đỡ được đến thế, như khi chúng ta đánh mất đối tượng yêu thương của chúng ta, hay tình yêu của nó. Nhưng điều này không gạt bỏ đi kỹ thuật sống dựa trên giá trị của tình yêu như là một phương tiện để hạnh phúc. Có nhiều hơn nữa để nói về nó. (Xem dưới đây – ở chương V)
Từ đây, chúng ta có thể tiếp tục xem xét trường hợp thú vị, trong đó hạnh phúc trong đời sống là chủ yếu tìm trong việc vui hưởng về cái đẹp, bất cứ chỗ nào vẻ đẹp tự trình bày với những giác quan của chúng ta và phán đoán của chúng ta - vẻ đẹp của những hình dạng và động tác của con người, của những đối tượng và những phong cảnh thiên nhiên, và của những sáng tạo của nghệ thuật và ngay cả của khoa học.
Thái độ thẩm mỹ này cho mục tiêu của đời sống cung cấp rất ít bảo vệ chống lại những mối đe dọa của đau khổ, nhưng nó có thể bù đắp rất lớn lao. Việc vui hưởng cái đẹp có một phẩm chất gây ngộ độc nhẹ, đặc thù của xúc cảm. Cái đẹp không có công dụng rõ ràng; cũng chẳng có bất kỳ nhu cầu rõ ràng nào về văn hóa cho nó. Thế nhưng văn minh không thể không có nó.
Khoa học về thẩm mỹ điều tra những điều kiện theo đó những sự vật được cảm thấy là đẹp, nhưng nó đã không có khả năng đưa ra bất kỳ giải thích nào về bản chất và nguồn gốc của cái đẹp, và giống như thường thường xảy ra, thiếu thành công được giấu dưới một dòng tuôn chảy những từ vang dội và trống rỗng. Đáng tiếc, khoa phân tích tâm lý cũng chẳng có chút gì để nói về cái đẹp cả. Tất cả những gì có vẻ chắc chắn là sự bắt nguồn của nó từ lĩnh vực của xúc cảm tính dục.
Tình yêu về cái đẹp xem ra là một thí dụ hoàn hảo về một thúc đẩy bị ức chế trong mục tiêu của nó. “Cái đẹp” và “thu hút” [19] là những thuộc tính ban đầu được gán vào đối tượng tính dục. Điều đáng được ghi nhận lại, là tự thân những bộ phận sinh dục, ảnh tượng của chúng là luôn luôn phấn khích, tuy nhiên hầu như không bao giờ được đánh giá là đẹp; thay vào đó, phẩm chất thuộc vẻ đẹp dường như gắn vào những đặc tính tính dục thứ yếu hạng nhì nào đó.
Mặc dù liệt kê của tôi không đầy đủ. Tôi sẽ liều lĩnh với một ít nhận xét như một kết luận cho sự thăm dò của chúng ta. Chương trình của làm trở nên hạnh phúc, vốn nguyên tắc niềm vui áp đặt trên chúng ta, không thể hoàn thành được, thế nhưng chúng ta phải không – đúng vậy, chúng ta không thể - buông bỏ những nỗ lực của chúng ta để mang nó gần đến hơn sự hoàn thành bằng vài phương tiện này hay khác.
Những lối rất khác nhau có thể được lấy trong hướng đó, và chúng ta có thể dành ưu tiên hoặc là cho khía cạnh tích cực của mục tiêu, đó là dành lấy niềm vui, hoặc về khía cạnh tiêu cực của nó, đó là của tránh né khó chịu không vui. Không bằng một lối nào trong số này chúng ta có thể đạt được tất cả những gì chúng ta ao ước.
Hạnh phúc, trong ý nghĩa giảm thiểu, trong đó chúng ta nhìn nhận nó như có thể có được, là một vấn đề của kinh tế của libido từng cá nhân. Không có quy tắc vàng áp dụng chung cho tất cả mọi người: mỗi người phải tìm ra cho chính mình xem ông ta có thể được cứu trong thời thức đặc biệt cụ thể nào [20]. Tất cả mọi loại của những thành tố khác nhau sẽ hoạt động để chỉ đạo lựa chọn của ông ta.
Nó là một câu hỏi về bao nhiêu thỏa mãn thực sự ông ta có thể mong đợi lấy được từ thế giới bên ngoài, xa đến đâu ông bị dẫn đi để làm chính ông độc lập với nó, và cuối cùng, bao nhiêu sức mạnh ông cảm thấy ông có để thay đổi thế giới cho thích hợp với những ước muốn của ông. Trong điều này, thể chất tâm thần của ông sẽ đóng một phần quyết định, không đếm xỉa gi tới những hoàn cảnh bên ngoài.
Một người là người ưu thắng về gợi tình nhục dục [21] sẽ dành chọn lựa đầu tiên cho những quan hệ xúc cảm của mình với người khác; con người quá-yêu-chỉ-mình [22], người nghiêng về tự chủ độc lập, sẽ tìm kiếm những thỏa mãn chính của mình trong những tiến trình trí não bên trong ông ta; con người của hành động sẽ không bao giờ buông bỏ thế giới bên ngoài mà ông có thể thử sức mạnh của mình trên nó [23].
Đối với loại thứ hai của những loại này, bản chất của những tài năng của ông ta, và số lượng của sự thăng hoa bản năng mở ra cho ông ta, sẽ quyết định đâu là chỗ ông sẽ đặt định những chú tâm của mình. Bất kỳ lựa chọn nào nếu được đẩy đến một cực đoan sẽ bị trừng phạt bằng cách phơi mở cá nhân với những nguy hiểm vốn chúng nổi lên nếu như một kỹ thuật của sinh sống đã được chọn như là một độc nhất không nào khác, lại tỏ ra không thỏa đáng.
Cũng đúng như một doanh nhân thận trọng tránh buộc tất cả vốn của mình vào chỉ một doanh nghiệp, thế nên, có lẽ sự khôn ngoan của thế gian sẽ khuyên chúng ta đừng tìm toàn bộ sự hài lòng của chúng ta từ chỉ một nguyện vọng ao ước duy nhất.
Sự thành công của nó không bao giờ chắc chắn, bởi vì điều đó phụ thuộc vào sự hội tụ của nhiều yếu tố, có lẽ trên không gì nhiều hơn là trên khả năng của thể chất tâm linh để thích ứng những chức năng của nó với môi trường, và sau đó khai thác môi trường đó cho một thu hoạch của niềm vui.
Một người là kẻ được sinh ra với một thể chất bản năng bất lợi đặc biệt, và là người đã không được hợp thức trải qua sự chuyển đổi và sắp xếp lại những thành phần libido của mình vốn chúng là không thể nào thiếu được cho những thành tựu sau đó, sẽ thấy khó khăn để đạt được hạnh phúc từ những tình cảnh bên ngoài của mình, đặc biệt là nếu ông phải đối mặt với những nhiệm vụ thuộc loại một vài khó khăn.
Như là một kỹ thuật cuối cùng của sinh sống, vốn nó ít nhất sẽ mang lại cho ông ta những thỏa mãn thay thế, ông được cung cấp một thứ trốn chạy vào những bệnh thần kinh - một trốn chạy mà ông thường hoàn thành khi ông vẫn còn trẻ. Người nhìn thấy theo đuổi hạnh phúc của mình không đi đến gì cả trong những năm về sau vẫn có thể tìm thấy sự an ủi trong thu hoạch niềm vui từ say sưa ngộ độc mãn tính; hoặc ông ta có thể bắt đầu trên nỗ lực tuyệt vọng ở sự nổi loạn xem thấy trong một bệnh nhân psychosis [24].
Tôn giáo hạn chế cuộc chơi này của lựa chọn và thích ứng, vì nó áp đặt cùng như nhau trên tất cả mọi người, lối đi riêng của nó đến sự thụ nhận hạnh phúc và phòng chống đau khổ. Kỹ thuật của nó bao gồm trong sự dìm giá trị của đời sống xuống thành chán nản, và bóp méo bức tranh thế giới thực tại trong một phương cách huyễn tưởng – vốn tiền giả định một sự dọa dẫm trên trí thông minh.
Với giá này, bằng cách ép buộc gắn chặt chúng trong một trạng thái tinh thần ấu trĩ trẻ con, và bằng cách lôi kéo chúng vào một huyễn tưởng của đám đông, tôn giáo đã thành công trong việc tránh cho nhiều người một bệnh neurosis [25] cá nhân. Nhưng hầu như không có được bất cứ gì khác hơn nữa.
Như chúng ta đã nói, có nhiều lối vốn chúng có thể dẫn đến hạnh phúc loại như con người có thể đạt được, nhưng chẳng có lối nào vốn có thể là thế với sự chắc chắn. Ngay cả tôn giáo cũng không thể giữ lời hứa của nó. Nếu kẻ tin tưởng cuối cùng thấy chính mình buộc phải nói về những “lệnh truyền không thể hiểu được” của Gót, ông đương thú nhận rằng tất cả những gì còn lại với ông ta như một sự an ủi khả hữu cuối cùng, và nguồn của hoan lạc trong sự khổ đau của ông là một sự tuân phục vô điều kiện. Và nếu như ông ta đã được sửa soạn với điều đó, có lẽ ông đã có thể tránh cho chính ông lối đi vòng ông đã làm.

Chương III


Thăm dò của chúng ta liên quan đến hạnh phúc cho đến đây đã không dạy chúng ta nhiều những gì mà đã không là kiến thức phổ thông rồi. Và ngay cả nếu chúng ta từ đó tiến đến vấn đề tại sao là quá khó cho con người được hạnh phúc, dường như không có nhiều triển vọng hơn để học hỏi được bất cứ gì mới.

Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất

(Aug/2011)

(Còn tiếp...)

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

[1] Providence

[2] tiếng Đức trong bản Anh ngữ: “Wer Wissenschaft und Kunst besitzt, hat auch Religion; - Wer jene beide nicht besitzt, der habe Religion!” – Goethe, Zahme Xenien IX (Gedichte aus dem Nachass)


[3] [Vẫn chưa tìm được truy nguồn được trích dẫn này]
[4] [Trong Die Fromme Helene Wilhelm Busch cũng đã nói cùng một điều trên một diện thấp hơn: ‘Wer Sorgen hat, hat auch Likor’ – Ai là người có bận tâm cũng có rượu ngọt nữa]
[5] fantasy, hay phantasy : tưởng tượng, nhưng về những điều thường không có cơ sở thực tại. Cõ lẽ chúng ta nên dùng từ “phăng-ta-di” hay “fantasy” thì gọn hơn là diễn dịch dài dòng mà vẫn chưa hoàn toàn sát ý, nếu dịch là tưởng tượng thì quá tổng quát.
[6] [Goethe, thực vậy, báo trước chúng ta rằng “không có gì khó hơn phải gánh chịu một liên tục của những ngày tươi đẹp”.

Alles in der Welt lässt sich ertragen

Nur nicht eine Reibe von schönen Tagen. (Weimar, 1810-12.)

Nhưng điều này có thể là một cường điệu, phóng đại quá mức.]


[7] mania: hưng cảm - bệnh tâm thần đánh dấu bằng những thời kỳ phấn khích, sảng khoái, có ảo giác, và năng động thái quá (great excitement, euphoria, delusions, and overactivity). .

[8] Intoxicating media.

[9] Libido: từ của Freud – chỉ năng lực của thúc đẩy tình dục, như một bộ phận của đời sống bản năng con người. – the economics of libido là thuật ngữ đặc biệt của ông.

[10] Trong nguyên bản tiếng Đức: “Sorgenbrecher”: rượu tiêu sầu.

[11] sublimation of the instincts: sự thăng hoa những bản năng – sublimation – nghĩa chữ là “nâng lên cao” đến tuyệt hảo. Từ Freud dùng để chỉ một hiện tượng trong đó có một tiến trình chuyển hướng năng lực tâm lý từ khát vọng-ego (thí dụ, thỏa mãn tình dục) - xem là thấp - sang qua sự thỏa mãn những mục tiêu văn hóa (thí dụ, nghệ thuật, xã hội) - xem là cao.

[12] metapsychological: khoa lý thuyết ức đoán tâm lý – nghiên cứu những tiến trình não thức, quan hệ não thức và cơ thể, những gì vượt quá khả năng có thể nghiên cứu thực nghiệm được.


[13] [Trong một con người, khi không có phân bối đặc biệt ghi rõ như mệnh lệnh cho thấy những quan tâm thích thú của đời sống của anh ta sẽ nhận được phương hướng nào, công việc của nghề chuyên môn thông thường là mở cửa cho tất cả mọi người có thể “chơi” phần được giao cho nó bằng lời khuyên khôn ngoan của Voltaire (nói ở trên).
Điều là không thể, trong những giới hạn của một thăm dò ngắn, để thảo luận cho đầy đủ ý nghĩa quan trọng của công việc của nền kinh tế của libido. Không có kỹ thuật nào khác cho việc tiến hành đời sống gắn chặt cá nhân với thực tại như đặt sự nhấn mạnh trên công việc; bởi vì ít nhất là công việc của anh ta đem cho anh một chỗ vững chắc trong một phần chia của thực tại, trong cộng đồng con người.
Khả năng nó cung cấp về sự chuyển dịch một lượng lớn những thành phần libido, dù là quá-yêu-chỉ-mình (narcissistic), hung hãn (aggressive) hay ngay cả như gợi dâm (erotic), đến với công việc của nghề chuyên môn, và với những quan hệ của con người thông nối với nó, đem thêm cho nó một giá trị không có cách nào là phải xếp hàng thứ yếu, sau những gì nó vui thích như một gì đó không thể thiếu được trong sự bảo tồn và biện minh cho sự hiện hữu trong xã hội.
Hoạt động của những nghề nghiệp chuyên môn là một nguồn của sự thỏa mãn đặc biệt, nếu nó là một lựa chọn tự do -, đó à nói rằng, nếu bằng những phương tiện của sự thăng hoa, nó làm cho có khả năng xử dụng về những khuynh hướng hiện hữu, về sự dai dẳng hay tăng cường những xung lực bản năng. Và tuy thế, như là một đường dẫn đến hạnh phúc, con người không đánh giá rất cao việc làm. Họ không cố gắng theo đuổi nó như như là họ theo đuổi những khả năng khác của sự thỏa mãn.
Tuyệt đại đa số người ta chỉ làm việc dưới áp lực của sự cần thiết, và ác cảm tự nhiên này của con người với sự làm việc nêu lên những vấn đề xã hội khó khăn nhất.]
[14] fulfilling wishes : những ao ước mình ôm ấp – thường là rất khó khăn, tự biết là khó thành

[15] [Cf. ‘Formulations on the two Principles of Mental Functioning’ (1911b) và Lecture XXIII của tập Introductory Lectures (1916-17) của tôi]

[16] paranoia
[17] Fate : hiểu là số phận – nhưng gì xảy ra ngoài sự kiểm soát của con người – gốc ý từ “Moirae” – nội dung trong câu chuyện ba chị em trong huyền thoại Greek: Clotho quay guồng chỉ - là chiều dài đời sống của mỗi người, Lachesis do chiều dài cho mỗi người, và Atropos cắt chỉ - khi một người đến lúc chết.
[18] sexual love: tình yêu trên cơ sở phái tính con người.



tải về 0.76 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương