VIỆn kiểm sát nhân dân tối cao ­­­­­ TÀi liệu tập huấn bộ luật tố TỤng hình sự NĂM 2015 Hà Nội, tháng 4 năm 2016



tải về 0.7 Mb.
trang1/7
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích0.7 Mb.
#16907
  1   2   3   4   5   6   7

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

­­­­­

TÀI LIỆU TẬP HUẤN

BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015

Hà Nội, tháng 4 năm 2016



* Lãnh đạo VKSNDTC duyệt tài liệu:

Đ/c Lê Hữu Thể, Phó Viện trưởng VKSNDTC



* Đơn vị chủ trì biên soạn tài liệu:

Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, VKSNDTC



*Thành viên tham gia biên soạn tài liệu:

+ Đ/c Nguyễn Thị Thủy, Vụ trưởng Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, VKSNDTC

+ Đ/c Hồ Đức Anh, Chánh Thanh tra, VKSNDTC

+ Đ/c Hoàng Anh Tuyên, Trưởng phòng Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, VKSNDTC

+ Đ/c Phạm Thị Thùy Linh, Kiểm tra viên Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, VKSNDTC
I. SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003

1. Để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương cải cách tư pháp như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần X, XI của Đảng. Các nghị quyết của Đảng nhấn mạnh: Cải cách mạnh mẽ thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp; đồng thời, yêu cầu cải cách nhiều nội dung cụ thể khác của tố tụng hình sự. Đây là những định hướng quan trọng, chỉ đạo việc nghiên cứu, hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS).

2. Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6 đã thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng ta về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bổ sung nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ, bổ sung và làm rõ hơn nhiệm vụ của Tòa án và Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng Hiến định. Những sửa đổi, bổ sung này đòi hỏi phải được cụ thể hóa trong BLTTHS (sửa đổi).

3. Tổng kết thực tiễn hơn 10 năm thi hành đã khẳng định vai trò quan trọng của BLTTHS năm 2003 trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Mặc dù vậy, thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 cũng bộc lộ những vướng mắc, bất cập, chủ yếu là: (1) Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng có những nội dung chưa phù hợp nên ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoạt động; điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán là những người trực tiếp giải quyết vụ án nhưng chỉ được giao những thẩm quyền rất hạn chế nên đã ảnh hưởng đến chất lượng và tiến độ giải quyết vụ án; (2) Còn thiếu một số quyền quan trọng bảo đảm cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội; (3) Quy định về căn cứ tạm giam còn định tính đang là nguyên nhân dẫn đến việc lạm dụng tạm giam trong thực tiễn; quy định về một số biện pháp cưỡng chế tố tụng còn chưa đầy đủ và cụ thể, thiếu cơ chế ràng buộc trách nhiệm trong trường hợp người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; (4) Quy định về chứng cứ còn bất cập, chưa phù hợp với diễn biến tình hình tội phạm, chưa thể hiện được yêu cầu tranh tụng đã trở thành nguyên tắc Hiến định và chưa theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, chủ yếu vẫn chỉ ghi nhận những nguồn chứng cứ truyền thống, chưa công nhận là chứng cứ đối với các dữ liệu điện tử được thu thập từ mạng in-tơ-nét, từ các thiết bị điện tử; (5) Chế định thời hạn tố tụng chưa thật hợp lý, vẫn còn những hoạt động tố tụng chưa bị ràng buộc bởi thời hạn; thời hạn tạm giam còn dài; một số thời hạn quá chặt chẽ nên thiếu tính khả thi; (6) Bộ luật hiện hành mới chỉ quy định thủ tục áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội, chưa quy định thủ tục cho người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng; thiếu các biện pháp bảo vệ người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác; (7) Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm thiếu chặt chẽ đang là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến kháng nghị giám đốc thẩm còn nhiều như hiện nay.

4. Thời gian qua, Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật liên quan đến tố tụng hình sự như: Luật tổ chức VKSND, Luật tổ chức TAND, Luật luật sư, Luật trợ giúp pháp lý, Luật thi hành án hình sự… Quá trình xây dựng Dự án BLTTHS phải quán triệt đầy đủ nội dung mới trong các đạo luật nêu trên để đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

5. Chủ động hội nhập quốc tế đã trở thành nhu cầu nội tại của Việt Nam. Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức quốc tế và trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời, trong quan hệ hợp tác song phương với các quốc gia, đã đàm phán và ký kết nhiều Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù với các nước trên thế giới. Trong khi đó, nhiều quy định của BLTTHS hiện hành mới dừng ở những quy định chung; chưa quy định rõ về giá trị của các nguồn tư liệu có được thông qua hoạt động tương trợ tư pháp hình sự; thiếu các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm thực hiện tốt các cam kết quốc tế.

Từ những lý do trình bày trên, việc sửa đổi BLTTHS là khách quan và cần thiết.

II. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG DỰ ÁN BLTTHS

1. Mục tiêu

Xây dựng BLTTHS (sửa đổi) thực sự khoa học, tiến bộ và có tính khả thi cao; là công cụ pháp lý sắc bén để đấu tranh hữu hiệu với mọi tội phạm, tháo gỡ những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được Hiến định.

2. Quan điểm chỉ đạo xây dựng Dự án BLTTHS

Thứ nhất, thể chế hóa đầy đủ các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời, chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội.

Thứ hai, tăng cường hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân; cụ thể hóa các trình tự, thủ tục tố tụng, xác định đầy đủ quyền và trách nhiệm luật định, hạn chế tối đa các quy định chung chung, phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành.

Thứ ba, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, dự án BLTTHS tiếp tục kế thừa những quy định còn phù hợp, khắc phục căn bản những vướng mắc, bất cập đặt ra.

Thứ tư, khẳng định tiếp tục duy trì và phát huy những ưu điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn; đồng thời, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.

Thứ năm, bảo đảm thống nhất với các luật mới được Quốc hội ban hành; nắm bắt các định hướng lớn trong các dự án luật liên quan đang được soạn thảo; nội luật hóa các điều ước quốc tế liên quan đến tố tụng hình sự mà Việt Nam là thành viên.

III. NHỮNG CONG VIỆC ĐÃ THỰC HIỆN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN BỘ LUẬT

1. Thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập, Tổ chuyên gia và tổ chức nhiều hoạt động của Ban soạn thảo.

2. Tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003 tại 10 bộ, ngành hữu quan với nhiều hình thức.

3. Nghiên cứu các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Hiến pháp năm 2013 về cải cách tư pháp nói chung và cải cách trong lĩnh vực tố tụng hình sự nói riêng.

4. Rà soát các văn bản pháp luật; các điều ước quốc tế liên quan đến tố tụng hình sự.

5. Biên dịch và tham khảo Luật tố tụng hình sự của nhiều nước; tổ chức các đoàn công tác ra nước ngoài nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm.

6. Nghiên cứu nhiều đề án, đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ phục vụ xây dựng dự án Bộ luật.

7. Phân công cho 7 bộ, ngành trong Ban soạn thảo trực tiếp soạn thảo các chương, các phần của Bộ luật, sau đó đưa ra thảo luận chung và quyết định lựa chọn các phương án trên cơ sở sự đồng thuận của đa số thành viên Ban soạn thảo.

8. Tổ chức nhiều hội thảo, tọa đàm trong nước và quốc tế. Trong đó, có 63 Hội nghị liên ngành tư pháp ở địa phương góp ý cho dự án Bộ luật.

9. Gửi Dự thảo BLTTHS tới 10 bộ, ngành hữu quan để tổ chức lấy ý kiến trong toàn hệ thống; xin ý kiến Chính phủ và các bộ, ngành; báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Tư pháp và tiếp thu, hoàn chỉnh dự án Bộ luật; báo cáo Quốc hội thảo luận, cho ý kiến tại phiên họp thứ 9 và báo cáo Quốc hội thảo luận, thông qua tại kỳ hợp thứ 10.

IV. PHẠM VI SỬA ĐỔI VÀ BỐ CỤC CỦA BỘ LUẬT

Để thực hiện mục tiêu và quán triệt các quan điểm chỉ đạo nêu trên, phạm vi sửa đổi BLTTHS lần này được xác định là sửa đổi căn bản, toàn diện. Trên cơ sở đó, Bộ luật gồm 510 điều, được bố cục thành 9 phần, 36 chương, trong đó, bổ sung mới 176 điều, sửa đổi 317 điều, giữ nguyên 17 điều, bãi bỏ 26 điều. Kết cấu của Bộ luật được thiết kế khoa học hơn, theo trình tự tố tụng từ khởi tố đến điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và gắn với các chủ thể tiến hành tố tụng ở mỗi giai đoạn. Cụ thể như sau:

- Phần thứ nhất: Những quy định chung của BLTTHS.

- Phần thứ hai: Khởi tố, điều tra vụ án hình sự.

- Phần thứ ba: Truy tố.

- Phần thứ tư: Xét xử vụ án hình sự.

- Phần thứ năm: Thi hành bản án và quyết định của Tòa án.

- Phần thứ sáu: Thủ tục xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

- Phần thứ bảy: Thủ tục đặc biệt.

- Phần thứ tám: Hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự.

- Phần thứ chín: Điều khoản thi hành.

V. NHỮNG NỘI DUNG LỚN SỬA ĐỔI, BỔ SUNG TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015

Phần thứ nhất: Những quy định chung

1. Những nguyên tắc cơ bản (Chương II)

1.1. Bổ sung nguyên tắc mới

- BLTTHS năm 2015: bổ sung 05 nguyên tắc mới, gồm: suy đoán vô tội (Điều 13); không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm (Điều 14); tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra (Điều 19); tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26); kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự (Điều 33).

- Lý do: nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát trong hoạt động tố tụng hình sự.

1.2. Loại bỏ những nguyên tắc không mang tính nguyên tắc

- BLTTHS năm 2003: gồm 30 nguyên tắc nhưng nhiều quy định không mang tính nguyên tắc mà bản chất chỉ là những quy định về trình tự, thủ tục tố tụng hoặc trách nhiệm của các cơ quan như: nguyên tắc trách nhiệm của các tổ chức và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm (Điều 23); nguyên tắc sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 24); nguyên tắc phát hiện và khắc phục nguyên nhân và điều kiện phạm tội (Điều 27).

- BLTTHS năm 2015: đã đưa các quy định nêu trên ra khỏi hệ thống các nguyên tắc và quy định trong Chương I (Phạm vi điều chỉnh, nhiệm vụ, hiệu lực của BLTTHS).

- Lý do: bảo đảm các quy định về nguyên tắc đúng nghĩa là những tư tưởng chỉ đạo đối với việc xây dựng và thực hiện BLTTHS, bảo đảm tính khoa học, chặt chẽ của hệ thống các nguyên tắc cơ bản, tạo cơ sở cho việc hình thành những chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

1.3. Sửa đổi một số nguyên tắc

- BLTTHS năm 2015: sửa đổi một số nguyên tắc tại các điều 7, 8, 9, 10, 11, 12, 15, 16, 17, 18, 20, 21, 22, 23, 24, 25, 27, 28, 30, 31, 32.

- Lý do: nhằm phù hợp với Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tính chính xác hơn cả về nội dung và kỹ thuật.

2. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Chương III)



2.1. Phạm vi điều chỉnh và tên chương

- BLTTHS năm 2003: chương III chỉ quy định về cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án); người tiến hành tố tụng (Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án). Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được quy định duy nhất tại Điều 111 nhưng thiếu các quy định về thẩm quyền của cấp trưởng, cấp phó các cơ quan này.

- BLTTHS năm 2015: mở rộng phạm vi điều chỉnh của chương này theo hướng không chỉ điều chỉnh đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, mà còn điều chỉnh cả cơ quan và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Trên cơ sở đó, điều chỉnh tên chương thành: “Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.

- Lý do: để khắc phục những hạn chế của BLTTHS hiện hành, hạn chế những khó khăn trong tổ chức thực hiện.

2.2. Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp (các điều 36, 39, 40, 41 và 44)

- BLTTHS năm 2003: quy định khi được phân công giải quyết vụ án, cấp phó các cơ quan tố tụng chỉ có thẩm quyền tố tụng, không có thẩm quyền hành chính tư pháp. Thẩm quyền hành chính tư pháp chỉ thuộc cấp trưởng hoặc một cấp phó được ủy quyền khi cấp trưởng vắng mặt.

- BLTTHS năm 2015: quy định rõ: (1) Trong lĩnh vực được phân công phụ trách, cấp phó không chỉ được giao thẩm quyền tiến hành tố tụng mà còn được giao thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp; (2) Những thẩm quyền có tính chất quyết định việc “đóng, mở” một giai đoạn tố tụng, những thẩm quyền liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân thì giao cho Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định; những thẩm quyền có tính chất phát hiện hoặc làm sáng tỏ sự thật vụ án giao cho Điều tra viên, Kiểm sát viên trực tiếp quyết định.

- Lý do: thực hiện chủ trương về cải cách tư pháp đã được nêu trong các nghị quyết của Đảng; khắc phục những hạn chế, vướng mắc từ thực tiễn, bảo đảm quyền hạn đi đôi với trách nhiệm, từ đó thúc đẩy quá trình giải quyết vụ án khẩn trương, chính xác, đề cao trách nhiệm đầy đủ của từng chức danh tố tụng, đồng thời, bảo đảm thận trọng, chặt chẽ trong kiểm soát hoạt động tố tụng, phù hợp với mặt bằng năng lực các chức danh tư pháp hiện nay.

2.3. Tăng quyền, tăng trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán (các điều 37, 42 và 45)

- BLTTHS năm 2003: Điều tra viên, Kiểm sát viên là những người trực tiếp giải quyết vụ án nhưng chỉ được giao một số ít các thẩm quyền tố tụng và chủ yếu là những thẩm quyền có tính chất thi hành lệnh, quyết định của thủ trưởng các cơ quan tố tụng.

- BLTTHS năm 2015:

+ Tăng cho Điều tra viên các thẩm quyền: (1) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; (2) Triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; (3) Quyết định áp giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ; quyết định dẫn giải người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại; (4) Quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát; (5) Quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; (6) Thi hành lệnh phong tỏa tài khoản (Điều 37).

+ Tăng cho Kiểm sát viên các thẩm quyền: (1) Trực tiếp giải quyết và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; (2) Triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; (3) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, đề nghị thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; (4) Bắt buộc có mặt khi Cơ quan điều tra tiến hành đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét; (5) Yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã, đình nã bị can; (6) Quyết định áp giải người bị bắt, bị can; quyết định dẫn giải người làm chứng, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, bị hại; (7) Quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân để giám sát; quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 42).



+ Tăng cho Thẩm phán các thẩm quyền: (1) Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp cưỡng chế; (2) Quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại, thực nghiệm điều tra; thay đổi hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản; (3) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; (4) Yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; (5) Quyết định việc thu thập, bổ sung chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử (Điều 45).

- Lý do: khắc phục những hạn chế, vướng mắc từ thực tiễn; thúc đẩy quá trình giải quyết vụ án khẩn trương, chính xác; tăng cường trách nhiệm của những chức danh tư pháp.

2.4. Mở rộng diện người tiến hành tố tụng (các điều 34, 38, 43 và 48)

- BLTTHS năm 2003: diện người tiến hành tố tụng gồm: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án.

- BLTTHS năm 2015: bổ sung diện người tiến hành tố tụng gồm: Cán bộ điều tra, Kiểm tra viên, Thẩm tra viên và quy định cụ thể nhiệm vụ của họ khi được phân công giúp việc cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Chánh án Tòa án.

- Lý do: để phù hợp với Luật tổ chức VKSND năm 2014, Luật tổ chức TAND năm 2014 và thực tiễn giải quyết vụ án hình sự thời gian qua.

2.5. Bổ sung cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 35 và Điều 39)

- BLTTHS năm 2003: quy định cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra gồm Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, Cảnh sát biển, các cơ quan khác thuộc Công an nhân dân và Quân đội nhân dân.

- BLTTHS năm 2015: bổ sung cơ quan Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đồng thời, quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó, Cán bộ điều tra của lực lượng Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

- Lý do: nhằm phản ứng kịp thời với tình hình tội phạm xảy ra trên biển, đồng thời, góp phần khẳng định chủ quyền biển đảo từ phương diện hoạt động tư pháp.

2.6. Bổ sung quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó, cán bộ điều tra các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 39 và Điều 40)

- BLTTHS năm 2003: không quy định nội dung này. Tại Điều 111 chỉ quy định khái quát, có tính nguyên tắc: các cơ quan này phải thực hiện đúng nguyên tắc, trình tự, thủ tục đối với hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật này.

- BLTTHS năm 2015: bổ sung hai điều luật mới nhằm quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

- Lý do: nhằm khắc phục những bất cập của Bộ luật hiện hành, phân định chính xác phạm vi điều chỉnh giữa BLTTHS với Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự.

3. Người tham gia tố tụng (Chương IV)

3.1. Mở rộng diện người tham gia tố tụng (Điều 55)

- BLTTHS năm 2003: quy định những người tham gia tố tụng gồm: người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng; người bào chữa; người bảo vệ quyền lợi của đương sự; người giám định; người phiên dịch.

- BLTTHS năm 2015: bổ sung 09 diện người tham gia tố tụng, gồm: (1) Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố; (2) Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; (3) Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; (4) Người bị bắt; (5) Người chứng kiến; (6) Người định giá tài sản; (7) Người dịch thuật; (8) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; (9) Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội. Đồng thời, quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng.

- Ghi chú: trong 09 diện người nêu trên, có những người đã được quy định trong BLTTHS năm 2003, nhưng chỉ quy định ở các thủ tục tố tụng cụ thể nhưng thiếu quy định về quyền, nghĩa vụ của họ; có những người được bổ sung mới (như: người dịch thuật; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội) nhằm bảo đảm tốt hơn quyền của người tham gia tố tụng hoặc đáp ứng sự thay đổi của Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung chế định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân.

3.2. Bổ sung quyền và quy định rõ hơn nghĩa vụ của người bị buộc tội (các điều 58, 59, 60 và 61)

- BLTTHS năm 2003: quy định quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhưng chưa đầy đủ.

- BLTTHS năm 2015: bổ sung cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo một số quyền sau đây: (1) Được nhận các quyết định tố tụng liên quan đến mình; (2) Đưa ra chứng cứ; (3) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (4) Có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; (5) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; (6) Bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội họ trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra theo quy định của Bộ luật này khi có yêu cầu; (7) Bị cáo có quyền trực tiếp hỏi những người tham gia tố tụng nếu được Chủ tọa phiên tòa đồng ý; (8) Một số quyền khác. Đồng thời, quy định rõ hơn nghĩa vụ của người bị buộc tội phải chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền.

- Lý do: nhằm bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ.

3.3. Xác định đầy đủ diện của bị hại, bổ sung quyền và quy định rõ hơn nghĩa vụ của họ (Điều 62)

- BLTTHS năm 2003: người bị hại chỉ là cá nhân.

- BLTTHS năm 2015: bị hại gồm cá nhân bị thiệt hại và tổ chức bị thiệt hại. Đồng thời, bổ sung cho bị hại và người đại diện của họ các quyền: (1) Được cơ quan tố tụng thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của họ; (2) Đưa ra chứng cứ; (3) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (4) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá, người dịch thuật; (5) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người tham gia phiên tòa và một số quyền khác. Quy định rõ hơn nghĩa vụ và trách nhiệm của người bị hại: (1) Nghĩa vụ chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền; (2) Trường hợp cố ý vắng mặt hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải.

- Lý do: để bị hại bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại là cá nhân, cơ quan, tổ chức; đồng thời tăng cường trách nhiệm của họ trong việc phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tố tụng trong việc phát hiện, xử lý tội phạm.

3.4. Bổ sung quyền và quy định rõ hơn nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (các điều 63, 64 và 65)

- BLTTHS năm 2003: có quy định nhưng chưa đầy đủ.

- BLTTHS năm 2015: bổ sung một số quyền như: (1) Đưa ra chứng cứ; (2) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (3) Yêu cầu giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; (4) DĐược thông báo kết quả giải quyết vụ án; (5) Đề nghị chủ tọa hỏi những người tham gia phiên tòa; (6) Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; Và một số quyền khác. Đồng thời, quy định rõ hơn nghĩa vụ của những chủ thể này phải chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền.

- Lý do: để bảo đảm cho những chủ thể này bảo vệ tốt hơn quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng, bảo đảm việc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật.

3.5. Sửa đổi các quy định liên quan đến người làm chứng (Điều 66)

- BLTTHS năm 2003: trong giai đoạn xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, chưa phát sinh tư cách người làm chứng.

- BLTTHS năm 2015: quy định thời điểm người làm chứng tham gia tố tụng sớm hơn, kể từ khi cơ quan có thẩm quyền xác minh các nguồn tin về tội phạm. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc hoặc học tập phải tạo điều kiện để họ tham gia tố tụng.

- Lý do: bảo đảm việc giải quyết vụ việc, vụ án được chính xác, nhanh chóng hơn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

4. Bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (Chương V)



4.1. Mở rộng diện người được bảm đảm quyền bào chữa (Điều 72)

- BLTTHS năm 2003: quy định 03 diện người có quyền được bào chữa gồm: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

- BLTTHS năm 2015: bổ sung người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt cũng được bảo đảm quyền bào chữa.

- Lý do: để phù hợp với Hiến pháp năm 2013 (Điều 31).

4.2. Mở rộng diện người bào chữa (Điều 72)

- BLTTHS năm 2003: quy định 03 diện người bào chữa gồm: luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.

- BLTTHS năm 2015: bổ sung diện người bào chữa là Trợ giúp viên pháp lý để bào chữa miễn phí cho các đối tượng thuộc diện chính sách.

- Lý do: để bảo đảm tốt hơn quyền của người bị buộc tội, phù hợp với Luật trợ giúp pháp lý đã quy định diện người này.

4.3. Đổi mới quy định về cấp đăng ký bào chữa (78)

- BLTTHS năm 2003: quy định để được tham gia bào chữa trong vụ án, người bào chữa phải được cấp giấy đăng chứng nhận người bào chữa.

- BLTTHS năm 2015: thay quy định cấp giấy chứng nhận người bào chữa bằng thủ tục đăng ký bào chữa. Theo đó, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ theo luật định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm: kiểm tra giấy tờ do người bào chữa cung cấp, nếu thấy đủ điều kiện luật định thì vào sổ đăng ký bào chữa và gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký và cơ sở giam giữ. Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố tụng.

- Lý do: nhằm bảo đảm người bào chữa nhanh chóng tham gia tố tụng.

4.4. Bổ sung một số quyền và cơ chế bảo đảm người bào chữa thực hiện tốt các quyền luật định (Điều 73)

- BLTTHS năm 2003: quy định nhưng chưa đầy đủ.

- BLTTHS năm 2015: bổ sung một số quyền của người bào chữa, gồm: (1) Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt; Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can thay vì chỉ được hỏi khi cơ quan tiến hành tố tụng đồng ý như hiện nay; (2) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; (3) Thu thập chứng cứ; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (4) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; (5) Đề nghị thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Đồng thời, bổ sung nghĩa vụ của người bào chữa phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; không được tiết lộ thông tin mà mình biết được khi tham gia các hoạt động tố tụng liên quan đến vụ án hoặc liên quan đến người mà mình bào chữa cho những người không có trách nhiệm giải quyết vụ án. Ngoài ra, cũng bổ sung các cơ chế để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa như: Quy định trách nhiệm của các cơ quan tố tụng phải thông báo trước cho người bào chữa thời gian và địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia; Quy định cụ thể thủ tục gặp người bị buộc tội đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam, thủ tục giao nộp chứng cứ, thủ tục đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án.

- Lý do: để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội; đồng thời nhằm tăng cường trách nhiệm của người bào chữa.

4.5. Quy định cụ thể thủ tục mời, cử người bào chữa (Điều 75)

- BLTTHS năm 2003: quy định chưa đầy đủ về thủ tục mời, cử người bào chữa; không cho phép người thân thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa.

- BLTTHS năm 2015: bổ sung người thân thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa. Đồng thời, quy định cụ thể thủ tục và trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan quản lý người bị tạm giữ, tạm giam khi tiếp nhận được yêu cầu nhờ người bào từ người buộc tội phải chuyển yêu cầu này hoặc thông báo cho người bào chữa được họ nhờ biết; có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa liên hệ với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để thỏa thuận về việc nhờ bào chữa.

- Lý do: để bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của người bị buộc tội, nhất là người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam.

4.6. Mở rộng các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa (Điều 76)

- BLTTHS năm 2003: quy định bắt buộc mời người bào chữa cho bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình.

- BLTTHS năm 2015: quy định bắt buộc mời người bào chữa cho bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là 20 năm, tù chung thân, tử hình;

- Lý do: để bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội theo khung hình phạt có quy định các loại, mức hình phạt nghiêm khắc, nhưng đồng thời bảo đảm phù hợp với điều kiện cụ thể nước ta.

4.7. Bổ sung các quy định về những trường hợp không được làm người bào chữa (Điều 73)

- BLTTHS năm 2003: có quy định nhưng chưa đầy đủ.

- BLTTHS năm 2015: bổ sung những đối tượng không được làm người bào chữa, gồm: (1) Nếu đã tham gia vụ án đó với tư cách là người dịch thuật; (2) Là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xoá án tích; đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.

- Lý do: để phù hợp với Luật luật sư; bảo đảm tính khách quan, tính chặt chẽ của hoạt động tố tụng hình sự.

4.8. Quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn (Điều 72)

- BLTTHS năm 2003: quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng kể từ khi có quyết định tạm giữ.

- BLTTHS năm 2015: quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn, kể từ khi có người bị bắt.

- Lý do: cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 (Điều 31).

4.9. Về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự (Điều 83 và Điều 84)

- BLTTHS năm 2003: chưa quy định về người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.

- BLTTHS năm 2015: xây dựng hai điều luật (Điều 83 và Điều 84) quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này với những bổ sung quan trọng như: (1) Quy định ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố đã có quyền có người bảo vệ quyền lợi; (2) Quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (3) Yêu cầu giám định, định giá tài sản; (4) Quyền tham gia các hoạt động tố tụng để bảo vệ người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự và một số quyền khác.

- Lý do: nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.

5. Chứng minh và chứng cứ (Chương VI)



5.1. Điều chỉnh khái niệm về chứng cứ (Điều 86)

- BLTTHS năm 2003: chỉ cơ quan tiến hành tố tụng mới có quyền thu thập chứng cứ.

- BLTTHS năm 2015: bổ sung người bị buộc tội, người bào chữa và một số người tham gia tố tụng khác cũng có quyền thu thập hoặc cung cấp chứng cứ.

- Lý do: để phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013 về tăng cường tranh tụng, bảo đảm sự công bằng trong quá trình chứng minh.

5.3. Bổ sung một số nguồn chứng cứ và quy định về loại trừ chứng cứ (Điều 87)

- BLTTHS năm 2003: nguồn chứng cứ gồm: vật chứng; lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; kết luận giám định; biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.

- BLTTHS năm 2015: bổ sung nguồn chứng cứ gồm: (1) Dữ liệu điện tử; (2) Kết luận định giá tài sản; (3) Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác trong đấu tranh chống tội phạm. Ngoài ra, còn bổ sung quy định về loại trừ chứng cứ, theo đó: “Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”.

- Lý do: để tháo gỡ những vướng mắc đặt ra trong thực tiễn, phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại và yêu cầu hội nhập quốc tế; đáp ứng các yêu cầu của chứng cứ về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp.

5.4. Quy định cụ thể về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử và việc thu thập phương tiện điện tử, dữ liệu điện tử (Điều 99 và Điều 107)

- BLTTHS năm 2003: không quy định.

- BLTTHS năm 2015: quy định cụ thể về dữ liệu điện tử với tính cách là một loại nguồn chứng cứ như: khái niệm về dữ liệu điện tử; các nguồn chứa dữ liệu điện tử; yêu cầu về giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử; trình tự, thủ tục thu thập, phục hồi dữ liệu điện tử nhằm bảo đảm tính khách quan, tính nguyên trạng và tính có thể kiểm chứng của loại chứng cứ này.

- Lý do: nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm trong tình hình mới, đặc biệt là các tội phạm sử dụng công nghệ cao.

5.5. Về phương thức người bào chữa thu thập chứng cứ (Điều 81)

- BLTTHS năm 2003: không quy định.

- BLTTHS năm 2015: quy định quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa và cách thức người bào chữa thu thập chứng cứ, gồm: gặp thân chủ, bị hại, người làm chứng, những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và các tình tiết liên quan đến việc bào chữa.

- Lý do: để phù hợp với yêu cầu tăng cường tranh tụng; đồng thời, tạo thuận lợi cho người bào chữa trong quá trình thu thập chứng cứ.

5.6. Quy định chặt chẽ và chi tiết việc xử lý vật chứng (Điều 106)

- BLTTHS năm 2003: có quy định nhưng chưa đầy đủ.

- BLTTHS năm 2015: đã sửa đổi, bổ sung chi tiết việc xử lý vật chứng theo từng trường hợp: vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành; vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có; vật chứng là vật không có giá trị hoặc không sử dụng được; vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản; vật chứng là động vật hoang dã và thực vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quy hiếm, động vật, thực vật ngoại lai và một số trường hợp khác.

- Lý do: nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án hình sự, tháo gỡ những vướng mắc do thiếu quy định về xử lý một số vật chứng thời gian qua.

6. Biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế (Chương VII)



6.1. Cách thức thiết kế và bố cục chương

- BLTTHS năm 2003: ngoài các biện pháp ngăn chặn được quy định trong cùng chương; các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác được quy định rải rác trong nhiều chương của BLTTHS, không thống nhất và cách quy định và phải quy định lặp lại trong nhiều giai đoạn tố tụng.

- BLTTHS năm 2015: thu hút toàn bộ các biện pháp có tính cưỡng chế quy định trong các chương, các phần của BLTTHS để điều chỉnh chung trong chương VII. Theo đó, bố cục thành hai mục (Mục I: Biện pháp ngăn chặn và Mục II: Biện pháp cưỡng chế). Từng biện pháp được điều chỉnh bởi năm yếu tố: căn cứ áp dụng, thẩm quyền quyết định, trình tự, thủ tục và thời hạn tiến hành.

- Lý do: nhằm bảo đảm tính thống nhất, chặt chẽ khi quy định về các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013; tạo điều kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng thuận tiện áp dụng, đồng thời, nhân dân thuận tiện trong việc giám sát.

6.2. Quy định cụ thể hơn về các biện pháp bắt (Điều 109)

- BLTTHS năm 2003: chỉ quy định biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, bắt người đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam.

- BLTTHS năm 2015: quy định về các trường hợp bắt, bao gồm: (1) Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; (2) Bắt người phạm tội quả tang; (3) Bắt người đang bị truy nã; (4) Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; (5) Bắt người bị yêu cầu dẫn độ.

- Lý do: nhằm bảo đảm tính cụ thể trong cách thức quy định về biện pháp bắt người; đồng thời, đáp ứng yêu cầu hợp tác quốc tế trong TTHS.

6.3. Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110)

- BLTTHS năm 2003: quy định bắt người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp ngăn chặn độc lập.

- BLTTHS năm 2015: quy định cụ thể về trường hợp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, cụ thể là, trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tiến hành các hoạt động: (1) lấy lời khai ngay người bị giữ; (2) ra quyết định tạm giữ; (3) ra lệnh bắt người bị giữgửi ngay cho Viện kiểm sát kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn hoặc trả tự do cho người bị giữ.

- Lý do: Quá trình soạn thảo, có ý kiến cho rằng quy định “bắt khẩn cấp”, tức là bắt trước, phê chuẩn sau, do đó, không phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013: “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát”. Trên cơ sở đó, đã phải điều chỉnh lại tên gọi của biện pháp này là “giữ người trong trường hợp khẩn cấp”.

6.3. Bổ sung và quy định chặt chẽ những người có thẩm quyền bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ (Điều 110 và Điều 117)

- BLTTHS năm 2003: quy định những người có thẩm quyền bắt khẩn cấp gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ người, gồm những người có thẩm quyền bắt khẩn cấp và Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển.

- BLTTHS năm 2015: bổ sung thẩm quyền bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ cho một số chủ thể thuộc Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Kiểm ngư gắn với tiêu chí “thực hiện nhiệm vụ ở địa bàn biên giới, hải đảo, xa cơ quan điều tra chuyên trách”, cụ thể gồm: Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục nghiệp vụ và pháp luật Cảnh sát biển; Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư Vùng.

- Lý do: để phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.

6.4. Quy định cụ thể những việc cần làm ngay sau khi bắt người hoặc nhận người bị bắt (Điều 104)

- BLTTHS năm 2003: chưa quy định cụ thể những việc cần làm sau khi bắt người bị truy nã.

- BLTTHS năm 2015: quy định rõ trách nhiệm của cơ quan bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp truy nã; trách nhiệm của cơ quan đã ra quyết định truy nã.

- Lý do: nhằm khắc phục những hạn chế của BLTTHS hiện hành; pháp điển hóa Thông tư liên tịch số 05/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 7/9/2005.

6.5. Quy định chặt chẽ căn cứ tạm giam và rút ngắn thời hạn tạm giam (Điều 119 và Điều 173)

- BLTTHS năm 2003: quy định đối với bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm thì có thể tạm giam khi có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Không cho phép tạm giam đối với bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định mức phạt tù đến 2 năm.

- BLTTHS năm 2015: quy định chặt chẽ căn cứ tạm giam, theo đó, đối với bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm thì cụ thể hóa căn cứ cản trở điều tra, truy tố, xét xử bằng các căn cứ cụ thể, theo đó, việc tạm giam chỉ có thể được áp dụng khi thuộc các trước hợp sau đây: (1) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; (2) Không có nơi cứ trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; (3) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; (4) Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; (5) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; (6) Tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; (7) Đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. Quy định chỉ có thể tạm giam bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định mức phạt tù đến 2 năm nhưng bỏ trốn nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.

Trong giai đoạn điều tra: rút ngắn thời hạn tạm giam 1 tháng đối với tội ít nghiêm trọng; 2 tháng đối với tội rất nghiêm trọng. Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh với các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, BLTTHS 2015 cho phép gia hạn tạm giam đến khi kết thúc điều tra nhưng để bảo đảm chặt chẽ, tránh lạm dụng, thẩm quyền gia hạn tạm giam trong trường hợp này chỉ thuộc Viện trưởng VKSNDTC.



- Trong giai đoạn truy tố: thời hạn tạm giam tối đa đối với bị can về tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng là 30 ngày; tội rất nghiêm trọng là 45 ngày; tội đặc biệt nghiêm trọng là 60 ngày (Lưu ý: không còn được tính thêm 3 ngày giao cáo trạng và các quyết định tố tụng như Điều 166 BLTTHS năm 2003).

- Lý do: thể chế hóa chủ trương của Đảng về hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam; khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn liên quan đến bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định mức phạt tù đến 2 năm nhưng bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân, phù hợp với yêu cầu xây dựng nền tư pháp văn minh tiến bộ.

6.6. Sửa đổi các quy định về biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú (các điều 121, 122 và 123)

- BLTTHS năm 2003: không quy định chế tài đối với người bảo lĩnh nếu để người bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ cam đoan; quy định cho phép đặt cả tiền hoặc tài sản để bảo đảm. Các biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú không bị ràng buộc bởi thời hạn.

- BLTTHS năm 2015: quy định chế tài phạt tiền áp dụng đối với người bảo lĩnh nếu để cho bị can, bị cáo bỏ trốn; chỉ quy định đặt tiền, không quy định đặt tài sản; quy định cụ thể nghĩa vụ của người nhận bảo lĩnh và nghĩa vụ của bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền, cấm đi khỏi nơi cư trú phải cam đoan; bổ sung thời hạn áp dụng đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền; theo đó, thời hạn áp dụng các biện pháp này không được quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử; đối với người bị kết án phạt tù thì không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.

- Lý do: nhằm phát huy hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam; bảo đảm giải quyết vụ án được nhanh chóng, tháo gỡ vướng mắc hiện nay trong việc định giá, giám định tài sản, dẫn đến chậm trễ trong áp dụng; bảo đảm mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân phải được ràng buộc chặt chẽ về thời hạn.

6.7. Bổ sung biện pháp tạm hoãn xuất cảnh (Điều 124)

- BLTTHS năm 2003: không quy định.

- BLTTHS năm 2015: bổ sung biện pháp tạm hoãn xuất cảnh, theo đó, biện pháp này được áp dụng đối với: a) Người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ; b) Bị can, bị cáo.

- Lý do: để phúc đáp yêu cầu phát hiện và xử lý tội phạm, phù hợp với Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014.

6.8. Các biện pháp cưỡng chế (các điều 126, 127, 128, 129 và 130)

- BLTTHS năm 2003: chỉ quy định 03 biện pháp cưỡng chế gồm (1) Áp giải; (2) Dẫn giải; (3) Kê biên tài sản.

- BLTTHS năm 2015: bổ sung thêm biện pháp phong tỏa tài khoản. Đồng thời, quy định các biện pháp cưỡng chế trong cùng một mục và quy định cụ thể căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng từng biện pháp này.

- Lý do: tạo thuận lợi trong thực tiễn áp dụng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân tốt hơn.

7. Hồ sơ vụ án, văn bản tố tụng, thời hạn, chi phí tố tụng (Chương VIII)



7.1. Bổ sung quy định về trách nhiệm lập hồ sơ vụ án (Điều 131)

- BLTTHS năm 2003: không quy định

- BLTTHS năm 2015: quy định trách nhiệm lập hồ sơ vụ án của từng cơ quan tiến hành tố tụng trong các giai đoạn cụ thể. Theo đó, trong giai đoạn khởi tố, điều tra, Cơ quan điều tra phải lập hồ sơ vụ án. Trong giai đoạn truy tố, xét xử, các chứng cứ, tài liệu do Viện kiểm sát, Tòa án thu thập phải đưa vào hồ sơ vụ án.

- Lý do: bảo đảm trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng và bảo đảm tính đầy đủ, hợp pháp của hồ sơ vụ án.

7.2. Bổ sung và quy định cụ thể nội dung các văn bản tố tụng (Điều 132)

- BLTTHS năm 2003: không có điều luật riêng để quy định những nội dung cần phải có trong một văn bản tố tụng.

- BLTTHS năm 2015: quy định cụ thể những nội dung cần thiết phải có trong văn bản tố tụng, bao gồm: số, ngày, tháng, năm, địa điểm ban hành văn bản tố tụng; căn cứ ban hành văn bản tố tụng; nội dung của văn bản tố tụng; họ tên, chức vụ, chữ ký của người ban hành văn bản tố tụng và đóng dấu.

- Lý do: tạo sự thống nhất trong quá trình người có thẩm quyền tiến hành tố tụng lập văn bản tố tụng; đồng thời, khắc phục hạn chế của BLTTHS năm 2003, trong các điều luật cụ thể phải quy định lặp lại các nội dung của văn bản tố tụng.

7.3. Quy định cụ thể thủ tục lập biên bản và ký biên bản tố tụng trong các trường hợp người tham gia tố tụng không biết chữ hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần mà không thể ký vào biên bản (Điều 133)

- BLTTHS năm 2003: không quy định.

- BLTTHS năm 2015: quy định trường hợp người tham gia tố tụng không ký vào biên bản thì người lập biên bản ghi rõ lý do và mời người chứng kiến ký vào biên bản. Trường hợp người tham gia tố tụng không biết chữ thì người lập biên bản đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến. Biên bản phải có điểm chỉ của người tham gia tố tụng và chữ ký của người chứng kiến. Trường hợp người tham gia tố tụng có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc vì lý do khác mà không thể ký vào biên bản thì người lập biên bản đọc biên bản cho họ nghe với sự có mặt của người chứng kiến và những người tham gia tố tụng khác. Biên bản phải có chữ ký của người chứng kiến.

- Lý do: nhằm bảo đảm tính hợp pháp của việc lập các biên bản tố tụng trong từng trường hợp cụ thể.

7.4. Quy định cụ thể các loại chi phí tố tụng và xác định trách nhiệm chi trả chi phí tố tụng trong từng trường hợp (Điều 135)

- BLTTHS năm 2003: chỉ quy định về án phí.

- BLTTHS năm 2015: quy định chi phí trong tố tụng hình sự gồm án phí, lệ phí và các chi phí tố tụng; đồng thời, xác định cụ thể án phí, lệ phí, chi phí tố tụng gồm những loại gì. Ngoài ra, bổ sung trách nhiệm chi trả chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch, người dịch thuật, người bào chữa trong trường hợp chỉ định người bào chữa; chi phí giám định, định giá tài sản; các khoản chi phí khác theo quy định của pháp luật do các cơ quan, người đã trưng cầu, yêu cầu, chỉ định chi trả; trường hợp Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cử người bào chữa thì do Trung tâm này chi trả. Đối với các hoạt động tố tụng do người tham gia tố tụng yêu cầu thì việc chi trả lệ phí, chi phí theo quy định của pháp luật.

- Lý do: bảo đảm tính cụ thể và tính thống nhất trong thực tiễn áp dụng.

7.5. Quy định cụ thể các phương thức và thủ tục cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết, thông báo các văn bản tố tụng (các điều 137, 138, 139, 140 và 141)

- BLTTHS năm 2003: chỉ quy định phương thức, không quy định thủ tục để thực hiện các phương thức đó. Các phương thức cũng không được quy định riêng trong một điều luật mà nằm rải rác trong các thủ tục khác nhau.

- BLTTHS năm 2015: quy định cụ thể các phương thức cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết, thông báo các văn bản tố tụng và thủ tục cụ thể khi thực hiện các phương thức nêu trên.

- Lý do: tháo gỡ những vướng mắc, hướng dẫn thực tiễn thực hiện thống nhất, đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để xác định tính hợp pháp của các thủ tục cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết, thông báo các văn bản tố tụng.

7.6. Quy định trách nhiệm của những người có thẩm quyền trong việc cấp, giao, chuyển, gửi, thông báo các văn bản tố tụng (Điều 142)

- BLTTHS năm 2003: không quy định.

- BLTTHS năm 2015: quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng như người được giao trách nhiệm cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết, thông báo văn bản tố tụng. Những người này nếu không thực hiện, thực hiện không đầy đủ theo quy định của Bộ luật này thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.

- Lý do: bảo đảm cho người tham gia tố tụng và những người liên quan được nhận, biết văn bản tố tụng có liên quan, từ đó thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình.

Phần thứ hai: Khởi tố, điều tra vụ án hình sự



Каталог: images -> documents
documents -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
documents -> CỤC ĐĂng kiểm việt nam
documents -> QuyếT ĐỊnh của thủ TƯỚng chính phủ SỐ 276/2006/QĐ-ttg ngàY 4 tháng 12 NĂM 2006 VỀ giá BÁN ĐIỆn thủ TƯỚng chính phủ
documents -> Nghị ĐỊnh số 47/2010/NĐ-cp ngàY 06 tháng 05 NĂM 2010 CỦa chính phủ quy đỊnh xử phạt hành chính về HÀNH VI VI phạm pháp luật lao đỘNG
documents -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc BÁo cáo hoạT ĐỘng y tế CƠ SỞ
documents -> Số hồ sơ: /vslđ HỒ SƠ VỆ sinh lao đỘNG
documents -> Mẫu (Form) nc13 Ban hành kèm theo Thông tư số 31/2015/tt-bca
documents -> THÔng tư CỦa bộ CÔng thưƠng số 10/2008/tt-bct ngàY 25 tháng 7 NĂM 2008
documents -> BỘ lao đỘng-thưƠng binh và XÃ HỘI
documents -> NghÞ ®Þnh cña ChÝnh phñ Sè 67/2001/N§-cp ngµy 01 th¸ng 10 n¨m 2001 Ban hµnh c¸c danh môc chÊt ma tuý vµ tiÒn chÊt

tải về 0.7 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương