Verbum domini củA ĐỨc giáo hoàng bêNÊĐITÔ XVI gửi các giám mụC, HÀng giáo sĩ, CÁc ngưỜi nam nữ SỐng đỜi thánh hiếN


Việc giải thích Kinh Thánh theo Công Đồng: một chỉ thị cần nắm vững



tải về 1.18 Mb.
trang3/6
Chuyển đổi dữ liệu20.11.2017
Kích1.18 Mb.
#34442
1   2   3   4   5   6

Việc giải thích Kinh Thánh theo Công Đồng: một chỉ thị cần nắm vững


34. Trên bối cảnh này, ta có thể đánh giá tốt hơn các nguyên tắc quan trọng cho việc giải thích thuộc khoa chú giải Công giáo do Công Đồng Vatican II đã quy định, đặc biệt trong Hiến chế tín lý Dei Verbum: “Vì trong Kinh Thánh, Thiên Chúa nói nhờ loài người và dùng cách nói của loài người mà phán dạy, nên để thấy rõ điều chính Ngài muốn truyền đạt cho chúng ta, nhà chú giải Kinh Thánh phải cẩn thận tìm hiểu điều các thánh sử thật sự có ý trình bày và điều Thiên Chúa muốn diễn tả qua lời lẽ của các ngài”.106 Một đàng, Công Đồng nhấn mạnh tới việc nghiên cứu các văn thể và ngữ cảnh, như là những yếu tố căn bản giúp hiểu được ý nghĩa tác giả thánh nhắm đến. Đàng khác, vì Kinh Thánh phải được giải thích trong cùng một Thần Khí theo đó Kinh Thánh đã được viết ra, Hiến chế tín lý đưa ra ba tiêu chuẩn nền tảng để giúp quan tâm đến chiều kích thần linh của Kinh Thánh: 1) phải giải thích bản văn trong khi vẫn lưu ý tới tính thống nhất của toàn bộ Kinh Thánh; ngày nay, người ta gọi đây giải thích theo Thư Quy; 2) kế đó, phải quan tâm đến Truyền thống sống động của toàn thể Giáo Hội; và 3) cuối cùng, phải tỏ ra tôn trọng nguyên tắc loại suy đức tin. “Chỉ khi nào cả hai bình diện phương pháp luận, phương pháp mang tính phê bình-lịch sử và phương pháp mang tính thần học, đều được tôn trọng, ta mới có thể nói tới một khoa chú giải thần học, tức một khoa chú giải phù hợp với Quyển Sách này”.107

Các Nghị Phụ có lý khi quả quyết rằng không thể chối cãi được hoa trái tích cực phát sinh từ việc sử dụng phương pháp nghiên cứu phê bình-lịch sử. Tuy nhiên, trong khi khoa chú giải hàn lâm hiện đại, kể cả Công Giáo, làm việc ở một cấp độ cao trên bình diện của phương pháp luận phê bình-lịch sử bằng cách tiếp thu những đóng góp mới đây, vẫn nên yêu cầu có một nghiên cứu tương tự dành cho chiều kích thần học của các bản văn Kinh Thánh, hầu Kinh Thánh được hiểu sâu sắc hơn, theo ba yếu tố đã được Hiến chế tín lý Dei Verbum nêu ra.108


Nguy hiểm của thuyết nhị nguyên
và khoa chú giải trần tục hoá


35. Về phương diện này, nên nhắc tới nguy cơ trầm trọng do một thuyết nhị nguyên mới xuất hiện ngày nay khi tiếp cận Kinh Thánh. Quả thế, phân biệt hai bình diện tiếp cận Kinh Thánh không hề có nghĩa tách biệt chúng hay đặt chúng đối lập nhau, cũng không chỉ là đặt chúng bên nhau. Chúng được liên kết với nhau. Đáng tiếc thay, không hiếm khi người ta đã tách biệt chúng cách vô ích, và do đó, tạo ra một sự phân rẽ giữa chú giải và thần học, điều này “xảy ra cả ở những bình diện học thuật cao nhất”.109 Ở đây, tôi muốn nhắc đến các hậu quả đáng lo ngại nhất cần phải tránh.

a) Trước hết, nếu hoạt động chú giải chỉ giới hạn ở bình diện thứ nhất, thì hậu quả là làm cho chính Kinh Thánh thành một bản văn thuộc quá khứ: “Ta có thể rút ra được các hệ luận luân lý, ta có thể học biết lịch sử, nhưng Quyển Sách như thế chỉ nói về quá khứ, và khoa chú giải không còn thật sự mang tính thần học nữa, mà trở thành một khoa sử học thuần túy, một khoa lịch sử về văn chương”.110 Rõ ràng là một lối giản lược như thế không thể nào giúp hiểu được biến cố Thiên Chúa mạc khải bằng Lời của Ngài, một mạc khải đã được truyền lại cho ta trong Truyền thống sống động và trong Kinh Thánh.

b) Tình trạng thiếu một công việc chú giải Kinh Thánh theo đức tin không phải chỉ kéo theo một sự trống vắng; thay vào đó sẽ không tránh được một cách giải thích khác, một cách giải thích trần tục hóa, duy nghiệm, với chìa khóa căn bản là xác tín rằng yếu tố thần linh không hề xuất hiện trong lịch sử loài người. Theo cách giải thích này, bất cứ chỗ nào xem ra có sự hiện diện của một yếu tố thần linh, thì đều phải được giải thích cách khác và phải giản lược mọi sự vào chiều kích nhân loại. Hậu quả là người ta đề nghị những cách giải thích phủ nhận tính lịch sử của các yếu tố thần linh.111

c) Một lập trường như thế chỉ có thể gây ra những tác hại trong đời sống Giáo Hội, vì gieo rắc sự hoài nghi đối với các Mầu nhiệm căn bản của Kitô giáo và giá trị lịch sử của chúng, chẳng hạn việc thiết lập phép Thánh Thể và sự Phục Sinh của Đức Kitô. Khi đó, người ta đã áp đặt một cách giải thích triết học, cách này phủ nhận rằng yếu tố thần linh có thể đi vào và hiện diện trong lịch sử. Chấp nhận một lối giải thích như thế trong các nghiên cứu thần học chắc chắn sẽ đưa tới một tình trạng lưỡng phân nặng nề phân biệt giữa chú giải chỉ giới hạn ở bình diện thứ nhất và thần học chỉ nhằm thiêng liêng hoá ý nghĩa của Kinh Thánh, mà không tôn trọng đặc tính lịch sử của Mạc Khải.

Lập trường này chỉ có thể đưa tới một kết quả tiêu cực cả trên đời sống thiêng liêng lẫn trên hoạt động mục vụ; “hậu quả của tình trạng thiếu vắng bình diện phương pháp luận thứ hai là đã tạo ra một hố sâu phân cách giữa chú giải khoa học và Lectio divina. Đôi khi điều này có thể gây ra một tình trạng thiếu trong sáng trong việc soạn bài giảng lễ”.112 Cũng cần phải lưu ý rằng sự lưỡng phân này đôi khi tạo ra tình trạng mơ hồ lẫn lộn và thiếu chắc chắn trong việc đào luyện trí thức cho các ứng viên đi tới các thừa tác vụ thánh.113 Tóm lại, “nơi nào khoa chú giải không phải là khoa thần học, thì Kinh Thánh không thể là linh hồn của khoa thần học, và ngược lại, nơi nào nền thần học không chủ yếu là việc giải thích Kinh Thánh của Giáo Hội, nền thần học ấy sẽ không còn có nền móng nữa”.114 Vậy, cần phải cương quyết quan tâm nhiều hơn nữa đến các chỉ dẫn mà Hiến chế tín lý Dei Verbum đã cung cấp về phương diện này.

Đức tin và lý trí trong tiếp cận Kinh Thánh


36. Tôi tin rằng điều Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết về vấn đề này trong thông điệp Fides et ratio có thể giúp hiểu biết đầy đủ hơn về khoa chú giải và tương quan của khoa này với toàn bộ thần học. Ngài quả quyết rằng không được đánh giá thấp “mối nguy hiểm gắn liền với ý muốn cố gắng rút ra chân lý Kinh Thánh từ việc áp dụng một phương pháp luận duy nhất, mà quên rằng cần có một cách chú giải bao quát hơn, giúp nhà chú giải, cùng với toàn thể Giáo Hội, đạt tới nghĩa trọn của các bản văn. Những ai dấn thân vào việc nghiên cứu Kinh Thánh phải luôn nhớ rằng các phương pháp luận giải thích khác nhau đều có một quan niệm triết học tại nền của chúng: vậy cần cứu xét phương pháp ấy cẩn thận trước khi áp dụng vào các bản văn thánh”.115

Suy tư sáng suốt ấy giúp ta thấy rõ là trong tiếp cận giải thích Kinh Thánh, nhất thiết sẽ phải đề cập đến tương quan đúng đắn giữa đức tin và lý trí. Quả thế, cách giải thích Kinh Thánh kiểu trần tục hoá phải được coi như là hành vi của một lý trí, về phương diện cấu trúc, muốn loại trừ khả năng Thiên Chúa đi vào trong đời sống loài người và nói với loài người bằng ngôn ngữ loài người. Vậy, trong trường hợp này, cần phải mời người ta mở rộng phạm vi của lý trí.116 Chính vì thế, khi sử dụng các phương pháp phân tích lịch sử, ta phải tránh chọn cho mình những tiêu chuẩn nào tiên thiên khép lại với việc Thiên Chúa tự mạc khải ra trong lịch sử loài người. Tóm lại, tính thống nhất của hai bình diện giải thích Kinh Thánh giả thiết có một sự hài hoà giữa đức tin và lý trí. Một đàng, phải có một đức tin nắm vững một tương quan thích đáng với lý trí ngay thẳng và không bao giờ được thoái hoá thành chủ trương duy tín, đưa tới cách đọc Kinh Thánh theo chủ trương bảo thủ. Đàng khác, phải có một lý trí, trong khi đi tìm các yếu tố lịch sử có trong Kinh Thánh, tỏ ra cởi mở và không tiên thiên bác bỏ tất cả những gì vượt quá tầm mức của mình. Nói cho cùng, tôn giáo của Lời nhập thể sẽ chỉ có thể cho thấy rằng tôn giáo này hết sức hợp lý đối với bất cứ ai chân thành đi tìm chân lý và ý nghĩa tối hậu của đời mình và của lịch sử.


Nghĩa văn tự và nghĩa thiêng liêng


37. Như Thượng Hội Đồng đã quả quyết,117 nếu vẫn biết lắng nghe các Giáo Phụ và học cách tiếp cận chú giải của các ngài, ta nhận được một đóng góp tốt mà tìm lại được một lối giải thích Kinh Thánh thích đáng. Quả thế, các Giáo Phụ cống hiến cho chúng ta một nền thần học vẫn còn giá trị quan trọng cho ngày hôm nay bởi vì tập trung vào việc nghiên cứu Kinh Thánh như một toàn bộ. Trước hết và chủ yếu, các ngài là “những nhà chú giải Kinh Thánh”.118 Gương sáng của các ngài có thể “dạy các nhà chú giải hiện đại một lối tiếp cận thực sự có tính tôn giáo đối với Kinh Thánh, cũng như một lối giải thích luôn luôn hài hoà với tiêu chuẩn hiệp thông vào kinh nghiệm của Giáo Hội, đang tiến bước xuyên qua lịch sử dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần”.119

Dù rõ ràng không có được các tài nguyên triết học và lịch sử mà các nhà chú giải hiện đại hiện sử dụng, Truyền thống Giáo Phụ và Trung Cổ vẫn biết nhận ra những nghĩa khác nhau của Kinh Thánh, bắt đầu với nghĩa văn tự, tức “nghĩa được các lời của Kinh Thánh nói lên và được khoa chú giải nhận ra dựa trên những quy tắc giải thích đúng đắn”.120 Thánh Tôma Aquinô chẳng hạn, viết rằng “tất cả các nghĩa của Kinh Thánh đều đặt căn bản trên nghĩa văn tự”.121 Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng thời các Giáo Phụ và thời Trung Cổ, mọi hình thức chú giải, kể cả hình thức văn tự, cũng đều được thực hiện trên căn bản đức tin, và không nhất thiết phân biệt giữa nghĩa văn tự và nghĩa thiêng liêng. Ở đây, chúng ta có thể nhắc tới hai câu thơ Trung Cổ diễn tả tương quan giữa các nghĩa khác nhau của Kinh Thánh:

Littera gesta docet, quid credas allegoria,

Moralis quid agas, quo tendas anagogia.

Nghĩa văn tự nói tới các biến cố;
nghĩa ẩn dụ nói những gì phải tin;


Nghĩa luân lý nói tới những gì phải làm;
nghĩa loại suy nói về điều phải hướng tới”.
122

Ở đây, ta ghi nhận sự thống nhất và mối tương quan qua lại giữa nghĩa văn tự và nghĩa thiêng liêng, mà nghĩa này được phân chia nhỏ ra thành ba nghĩa, tức nghĩa nói tới các nội dung đức tin, đời sống luân lý và sự vươn tới cánh chung.



Tóm lại, dù vẫn nhìn nhận giá trị và sự cần thiết, cũng như các giới hạn, của phương pháp phê bình-lịch sử, ta vẫn học được từ các Giáo Phụ điều này: việc chú giải chỉ “trung thành được với ý hướng của các bản văn Kinh Thánh trong mức độ cố gắng tìm thấy, ngay trong tình trạng các bản văn được viết ra, thực tại đức tin mà chúng diễn tả, và liên kết được thực tại này với kinh nghiệm đức tin của thế giới chúng ta”.123 Chỉ trong viễn tượng này, ta mới có thể nhận ra rằng Lời Thiên Chúa vẫn sống động và đang ngỏ lời với mỗi người chúng ta ngay tại đây và lúc này trong đời sống ta. Theo nghĩa này, khẳng định của Ủy Ban Kinh Thánh Giáo hoàng vẫn còn hoàn toàn giá trị, khi xác định nghĩa thiêng liêng theo đức tin Kitô giáo là như “nghĩa được các bản văn Kinh Thánh diễn tả, khi người ta đọc các bản văn đó dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, trong bối cảnh Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô và đời sống mới phát xuất từ mầu nhiệm đó. Bối cảnh này có thật. Tân Ước nhìn nhận trong bối cảnh đó các lời Sách Thánh được hoàn tất. Như thế, việc đọc lại Sách Thánh dưới ánh sáng của bối cảnh mới này, tức là bối cảnh đời sống trong Chúa Thánh Thần, là điều hoàn toàn có thể chấp nhận”.124

Cần phải vượt quá chữ viết


38. Như thế, muốn tái khám phá tác động qua lại giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh, điều chủ yếu là phải hiều việc chuyển đi từ chữ viết sang tinh thần. Đây không phải là một cuộc chuyển dịch tự động và tự phát; đúng hơn, cần phải vượt quá chữ viết: “quả vậy, Lời Thiên Chúa không bao giờ chỉ hiện diện với chữ viết của bản văn. Muốn đạt tới lời của Ngài, cần phải có một cuộc vượt quá và một tiến trình hiểu biết, được hướng dẫn bởi chuyển động bên trong của toàn bộ các bản văn, và từ đó, cũng phải trở thành một tiến trình liên hệ đến đời sống”.125 Như thế, chúng ta khám phá ra lý do tại sao tiến trình giải thích chính thức không bao giờ chỉ có tính tri thức mà còn liên hệ đến đời sống, một tiến trình đòi ta phải dấn thân vào đời sống của Giáo Hội, hiểu như là đời sống “theo Thần Khí” (Gl 5,16). Như thế, các tiêu chuẩn được đưa ra tại số 12 của Hiến chế tín lý Dei Verbum trở nên rõ ràng hơn: không thể thực hiện một cuộc di chuyển như thế khởi đi từ một mảnh văn mà thôi, nhưng phải liên hệ với toàn bộ Kinh Thánh. Thực vậy, chính vì để đạt tới một Lời duy nhất mà chúng ta nhất thiết phải thực hiện cuộc di chuyển nầy. Một tiến trình như thế mang kịch tính sâu xa, vì trong tiến trình di chuyển nầy, cuộc chuyển đi diển ra trong quyền lực Thánh Thần, nhất thiết can dự tới tự do của mỗi người. Thánh Phaolô đã sống cuộc quá độ này trọn vẹn trong cuộc sống của ngài. Ý nghĩa của cuộc vượt quá chữ viết và việc chỉ hiểu được nó theo toàn bộ, ngài đã diễn tả cách triệt để.trong câu: “Chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống” (2 Cr 3,6). Thánh Phaolô khám phá ra rằng “Thần Khí tự do có một tên riêng, và do đó, sự tự do có một mức độ nội tại: ‘Chúa là Thần Khí, và ở đâu có Thần Khí Chúa, thì ở đó có tự do’ (2 Cr 3,17). Thần Khí tự do không chỉ là ý tưởng hoặc cái nhìn riêng của nhà chú giải. Thần Khí, chính là Chúa Kitô, và Chúa Kitô là Đức Chúa chỉ đường cho chúng ta”.126 Chúng ta biết rằng ngay cả với thánh Augustinô, cuộc di chuyển này vừa mang kịch tính vừa có sức giải thoát; ngài đã tin vào Kinh Thánh, mà lúc đầu ngài thấy vừa rời rạc vừa thô thiển, nhưng nhờ tiến trình di chuyển mà ngài học được từ nơi thánh Ambrôsiô qua cách giải thích tiên trưng, toàn bộ Cựu Ước đã trở thành một con đường dẫn tới Chúa Giêsu Kitô. Đối với thánh Augustinô, việc vượt quá chữ viết đã làm cho chữ viết trở thành khả tín và giúp ngài sau cùng tìm được câu trả lời cho những nỗi lo lắng sâu xa của tâm hồn ngài, đang khao khát chân lý.127

Tính thống nhất nội tại của Kinh Thánh


39. Trong Truyền thống vĩ đại của Giáo Hội, trong cuộc vượt quá từ chữ viết sang tinh thần, chúng ta cũng học được cách nhận ra tính thống nhất của toàn bộ Sách Thánh, bởi vì chỉ có một Lời Thiên Chúa đang thúc bách cuộc sống ta bằng cách không ngừng mời gọi ta hoán cải.128 Các lời lẽ của Hugues de Saint-Victor vẫn là một hướng dẫn chắc chắn cho chúng ta: “Tất cả Sách Thánh là một Quyển Sách duy nhất và Quyển Sách duy nhất đó là chính Chúa Kitô, nói về Chúa Kitô và được nên trọn trong Chúa Kitô”.129 Dĩ nhiên, nếu chỉ nhìn theo phương diện lịch sử hay văn chương, Kinh Thánh không thể nào là một quyển sách duy nhất được, mà là một tuyển tập các bản văn văn chương, được soạn thảo trong hơn một ngàn năm, và cũng không dễ gì mà nhận ra từng quyển riêng lẻ như thuộc về một toàn bộ; trái lại, ta thấy có những căng thẳng giữa chúng với nhau. Điều này đã đúng cho trường hợp Kinh Thánh của Israel, mà Kitô hữu chúng ta gọi là Cựu Ước. Và điều này còn đúng hơn nữa, khi chúng ta, trong tư cách là Kitô hữu, chúng ta liên kết Tân Ước và các sách của Tân Ước, hầu như một thứ chìa khoá giải thích, với Kinh Thánh của Israel, mà coi bản này như một nẻo đường dẫn đến với Chúa Kitô. Nói chung, Tân Ước không sử dụng hạn từ “Sách Thánh” (x. Rm 4,3; 1 Pr 2,6) mà là “các Sách Thánh” (x. Mt 21,43; Ga 5,39; Rm 1,2, 2 Pr 3,16), nhưng “các sách” này vẫn được coi trong toàn bộ như là Lời duy nhất của Thiên Chúa đang được ngỏ với chúng ta.130 Như thế rõ ràng là chính bản thân Chúa Kitô đã đưa lại tính thống nhất cho các “Sách Thánh” trong quan hệ với “Lời” duy nhất. Như thế, ta hiểu những gì được khẳng định tại số 12 của Hiến chế tín lý Dei Verbum”, khi nhắc đến tính thống nhất nội tại của toàn bộ Kinh Thánh như là tiêu chuẩn quyết định cho một việc giải thích đúng đắn trong đức tin.

Tương quan giữa Cựu Ước và Tân Ước

40. Trong viễn tượng duy nhất tính của Kinh Thánh trong Đức Kitô, các nhà thần học cũng như các vị Mục tử cần ý thức về các tương quan giữa Cựu và Tân ước. Trước tiên, rõ ràng Tân Ước nhận Cựu Ước là Lời Thiên Chúa, nên cũng công nhận thế giá của Sách Thánh Do-thái.131 Tân Ước công nhận cách mặc nhiên khi dùng cùng một ngôn từ và thường ám chỉ đến nhiều đoạn văn của Sách Thánh ấy. Tân Ước công nhận cách minh nhiên khi trích dẫn nhiều đoạn từ Sách Thánh ấy để lập luận. Luận chứng dựa trên các các bản văn Cựu Ước có giá trị nhất định, vượt trên mọi lý luận thuần túy nhân loại. Trong Tin Mừng IV, Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi tuyên bố “Lời Kinh thánh không thể bị hủy bỏ” (Ga 10,35), đặc biệt thánh Phaolô nhấn mạnh rằng Mạc khải trong Cựu ước tiếp tục có giá trị cho các tín hữu (x. Rm 15,4; 1 Cr 10,11).132 Đàng khác, chúng ta quả quyết “Đức Giêsu Nadarét là một người Do-thái và Đất thánh là đất mẹ của Hội Thánh”.133 Gốc rễ của Kitô giáo được tìm thấy trong Cựu Ứớc và Kitô giáo luôn luôn được nuôi dưỡng bởi gốc rễ này. Vì thế, giáo lý lành mạnh của Giáo Hội luôn phản đối mọi hình thái mới của thuyết Marcion bằng nhiều cách nhằm đặt Cựu Ước đối kháng với Tân Ước.134

Ngoài ra, chính Tân Ước xác quyết Tân Ước phù hợp với Cựu Ước và tuyên bố rằng trong Mầu nhiệm sự sống, sự chết và sống lại của Đức Kitô, Kinh Thánh của Dân tộc Do-thái đạt được sự hoàn tất hoàn hảo. Tuy nhiên, cần hiểu rằng khái niệm hoàn tất của Kinh Thánh thì phức tạp bởi mang ba chiều kích: một phương diện nền tảng là sự tiếp nối với Mạc khải Cựu Ước, một phương diện đứt đoạn và một phương diện hoàn tất và vượt quá. Mầu nhiệm Đức Kitô nằm trong thế tiếp nối về ý hướng với nền phụng tự hiến tế của Cựu Ước, nhưng được thực hiện cách rất khác biệt, tương ứng với nhiều sấm ngôn của các tiên tri và đạt mức hoàn hảo mà trước đây chưa từng có. Thực sự, Cựu Ước đầy những giằng co giữa phương diện định chế và phương diện tiên tri. Mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô hoàn toàn phù hợp cách không ngờ với các sấm ngôn và với phương diện tiên báo của Kinh Thánh; ít ra Mầu nhiệm này cho thấy được những khía cạnh rõ ràng của sự gián đoạn với các định chế Cựu Ước.



41. Những nhận định trên biểu lộ tầm quan trọng không thể chối cãi của Cựu Ước đối với các Kitô hữu, đồng thời nêu bật tính độc đáo của việc đọc Kinh thánh mang tính Kitô học. Từ thời các Tông đồ và sau đó trong Truyền thống sống động, Giáo Hội luôn làm sáng tỏ tính duy nhất của chương trình của Thiên Chúa trong hai Giao ước, nhờ vào phương pháp kiểu mẫu song đối; phương pháp này không mang tính võ đoán nhưng luôn nằm ở bên trong các biến cố Sách Thánh tường thuật, và dĩ nhiên liên quan đến toàn bộ Kinh Thánh. Phương pháp kiểu mẫu song đối “biện phân trong các công trình của Thiên Chúa thời Giao ước cũ những hình ảnh tiên trưng về những gì Ngài đã hoàn thành khi đến thời viên mãn nơi bản thân của Người Con nhập thể của Ngài”.135 Do đó, Kitô hữu phải đọc Cựu Ước dưới ánh sáng Đức Kitô chết và sống lại. Việc đọc Kinh Thánh như thế tỏ bày cho ta nội dung vô tận của Cựu Ước trong tương quan với Tân Ước, nhưng không được làm ta quên nó vẫn giữ giá trị Mạc khải riêng, như chính Chúa chúng ta đã tái khẳng định (x. Mc 12,29-31). Vì vậy, “Tân Ước đòi phải được đọc dưới ánh sáng Cựu Ước. Giáo lý Kitô giáo thời đầu đã thường xuyên nại vào Cựu Ước (x. 1 Cr 5,6-8; 1 Cr 10,1-11)”.136 Vì lẽ đó, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng quả quyết rằng “hiểu Kinh Thánh theo kiểu Do-thái có thể giúp các Kitô hữu hiểu biết và học hỏi Kinh Thánh”.137

“Tân Ước được ẩn giấu trong Cựu Ước và Cựu Ước được tỏ bày trong Tân Ước”,138 đó là điều mà thánh Augustinô, với sự khôn ngoan sâu sắc, đã diễn tả về đề tài này. Vì thế, điều quan trọng trong mục vụ cũng như trong môi trường nghiên cứu học tập, là cần nêu bật mối tương quan mật thiết của hai Giao ước, bằng cách nhắc lại với thánh Grêgôriô Cả rằng điều mà Cựu Ước hứa, thì Tân Ước cho thấy, điều mà Cựu Ước loan báo cách kín ẩn, thì Tân Ước công bố cách rõ ràng. Vì thế Cựu Ước là lời tiên tri về Tân Ước, còn Tân Ước chính là lời bình luận tuyệt vời của Cựu ước.139



Những trang “tăm tối” của Kinh Thánh

42. Trong bối cảnh tương quan giữa Cựu Ước và Tân Ước, Thượng Hội Đồng cũng đề cập đến vấn đề những trang Kinh Thánh tăm tối và khó hiểu, do nói về bạo lực và sự vô luân. Về vấn đề này, trước tiên cần lưu ý rằng Mạc khải Kinh Thánh cắm rễ sâu xa trong lịch sử. Kế hoạch của Thiên Chúa được biểu lộ tiệm tiến và thực hiện chầm chậm qua các giai đoạn nối tiếp nhau, dù gặp phải sự kháng cự của con người. Thiên Chúa đã chọn một dân riêng và nhẫn nại giáo dục dân ấy. Mạc Khải thích ứng với trình độ văn hóa và luân lý của các thời đại xa xưa và do đó tường thuật lại những sự kiện và những tục lệ, chẳng hạn những hành động gian lận, những can thiệp bạo động, việc hủy diệt các dân tộc, mà không hiển nhiên tố cáo sự vô luân. Điều này được lý giải bằng bối cảnh lịch sử nhưng có thể làm cho độc giả thời nay ngỡ ngàng, nhất là khi người ta quên nhiều lối xử sự “tăm tối” mà qua dòng lịch sử con người vẫn mắc phải, kể cả thời chúng ta. Trong Cựu Ước, các tiên tri đã từng nặng lời với mọi hình thức bất công và bạo lực, tập thể cũng như cá nhân, và đó là cách thức mà Thiên Chúa dùng như phương tiện giáo hóa Dân Ngài hầu chuẩn bị cho họ đón nhận Tin Mừng. Vì thế, hẳn sẽ là sai lầm nếu không coi các trang Kinh Thánh này đặt vấn đề cho chúng ta. Tốt nhất chúng ta cần ý thức rằng để hiểu những trang này, phải có hiểu biết chuyên môn nhờ học hỏi cách đọc bản văn trong bối cảnh lịch sử-văn chương và theo chiều hướng Kitô giáo, có “Tin mừng và Luật mới được hoàn tất trong mầu nhiệm Vượt Qua”140 như chìa khóa tuyệt vời của chú giải. Tôi khuyến khích những nhà nghiên cứu và các Mục tử nỗ lực giúp các tín hữu tiếp cận những trang Kinh Thánh này nhờ đọc và khám phá ý nghĩa dưới ánh sáng của Mầu nhiệm Đức Kitô.

Kitô hữu và Do-thái đứng trước Kinh Thánh

43. Khi nhìn nhận mối tương quan mật thiết nối kết Cựu và Tân Ước, chúng ta nghĩ ngay đến mối liên hệ giữa Kitô hữu và Do-thái, một liên hệ không bao giờ được quên lãng. Với người Do-thái, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã từng tuyên bố: “Các bạn là những người anh em thân quý của chúng tôi trong đức tin của Abraham, tổ phụ chúng ta”.141 Chắc chắn, lời tuyên bố trên không có nghĩa là không biết gì về những đứt đoạn với các định chế Cựu Ước mà Tân Ước đã xác định, và càng không có nghĩa là không biết gì về sự hoàn tất Kinh Thánh trong mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô, đã được nhận biết là Đấng Mêsia và là Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự khác biệt sâu xa và tận căn ấy không hề bao hàm một sự thù nghịch đối với nhau. Ngược lại, gương thánh Phaolô (x. Rm 9-11) cho thấy rằng “một thái độ tôn trọng, quý mến và yêu thương đối với Dân tộc Do-thái là thái độ duy nhất thật sự Kitô giáo trong hoàn cảnh hiện nay, một hoàn cảnh hiểu là thành phần nhiệm mầu trong kế hoạch hoàn toàn tích cực của Thiên Chúa”.142 Quả thật, khi đề cập đến người Do-thái, thánh Phaolô khẳng định rằng: “Theo ơn tuyển chọn, họ là những người được yêu thương, và đó là nhờ các tổ phụ. Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý” (Rm 11,28-29).

Hơn nữa, thánh Phaolô còn dùng hình ảnh xinh đẹp là cây ô-liu để mô tả mối tương quan rất gần gũi giữa Kitô hữu và Do-thái: Giáo Hội của Lương Dân như cành cây ô-liu dại, được tháp vào cây ô-liu tốt là Dân Giao Ước (x. Rm 11,17-24). Như thế, chúng ta rút được nguồn lương thực từ chính những nguồn cội thiêng liêng ấy. Chúng ta gặp gỡ nhau như anh em, những người anh em mà vào một vài thời điểm lịch sử đã có một quan hệ căng thẳng, nhưng giờ đây vững vàng dấn bước vào việc xây dựng những nhịp cầu nối, dựa trên nền tảng là tình bạn vững bền.143 Cũng chính Đức Gioan Phaolô II đã nói: “Chúng ta có nhiều điểm chung. Cùng nhau, chúng ta có thể góp phần rất nhiều mà xây dựng hòa bình, công lý, xây dựng một thế giới huynh đệ hơn và nhân bản hơn”.144



Tôi mong muốn khẳng định lại lần nữa rằng việc đối thoại với người Do-thái thật quý hóa đối với Giáo Hội. Tại bất cứ nơi nào thấy là thích hợp, rất nên kiến tạo những cơ hội để gặp gỡ và trao đồi, kể cả những cơ hội công khai, nhắm giúp đào sâu sự hiểu biết lẫn nhau, quý mến nhau và hợp tác, kể cả trong việc nghiên cứu Kinh Thánh.

Giải thích Kinh Thánh theo thuyết bảo thủ

44. Do đã quan tâm đến các khía cạnh khác nhau của đề tài giải thích Kinh Thánh, nay chúng tôi có thể đề cập đến vấn đề đã nhiều lần được đặt ra trong các tranh luận của Thượng Hội Đồng, đó là giải thích Kinh Thánh theo thuyết bảo thủ.145 Về vấn đề này, Ủy Ban Kinh Thánh Giáo hoàng , trong văn kiện Việc giải thích Kinh Thánh trong Giáo Hội, đã trình bày những chỉ dẫn quan trọng. Ở đây, tôi muốn lưu ý đặc biệt đến những cách đọc không tôn trọng bản tính đích thực của bản văn thánh, nên đã đưa ra những lối giải thích chủ quan và tùy tiện. Quả vậy, chủ thuyết “duy văn tự” được kiểu đọc bảo thủ đề cao trong thực tế là một phản bội cả đối với nghĩa văn tự lẫn nghĩa thiêng liêng, vì mở đường cho đủ kiểu lèo lái, chẳng hạn phổ biến những cách giải thích Kinh Thánh chống Giáo Hội. “Vấn đề căn bản đặt ra cho lối giải thích Kinh Thánh bảo thủ là: khi từ chối không đếm xỉa đến tính chất lịch sử của Mạc khải Kinh Thánh, nó làm cho mình không có khả năng chấp nhận trọn vẹn chân lý của chính việc Nhập Thể. Chủ trương bảo thủ tìm cách trốn tránh bất cứ sự gần gũi nào giữa cái thánh thiêng và cái phàm nhân trong những mối tương giao với Thiên Chúa (...) Vì lý do đó, chủ trương này có khuynh hướng xử lý bản văn Kinh Thánh như thể bản văn đã được Thánh Thần đọc chính tả từng chữ. Chủ trương này không thể nhận rằng Lời Thiên Chúa đã được công thức hóa trong một ngôn ngữ và cách diễn tả chịu ảnh hưởng của thời đại này, thời đại kia”.146 Ngược lại, Kitô giáo nhận ra trong các lời chính Lời, chính Logos, đang chiếu tỏa Mầu nhiệm của Người xuyên qua tình trạng đa phức và thực tế của lịch sử nhân loại.147 Câu trả lời đích thực cho một lối đọc bảo thủ là “cách đọc Kinh thánh trong niềm tin được thực hành từ thời Thượng Cổ trong Truyền thống của Giáo Hội; [cách đọc này] đi tìm chân lý cứu độ đưa lại sự sống cho mỗi tín hữu và cho toàn Giáo Hội. Cách đọc này nhìn nhận giá trị lịch sử của Truyền thống Kinh Thánh. Chính là do giá trị của Truyền thống này như là một chứng tá lịch sử mà cách đọc này muốn tái khám phá ra ý nghĩa sống động của Kinh Thánh là nhắm đến sự sống của các tín hữu hôm nay”,148 tuy vẫn không bỏ qua vai trò trung gian nhân loại của bản văn linh hứng và các thể văn của bản văn.

Đối thoại giữa các Mục tử,
các nhà thần học và các nhà chú giải


45. Việc giải thích đích thực trong đức tin đưa đến những hệ quả quan trọng trong lãnh vực hoạt động mục vụ của Giáo Hội. Về vấn đế này, các Nghị Phụ đã khuyến cáo phải có, chẳng hạn, một liên hệ chặt chẽ hơn giữa các Mục tử, các nhà chú giải và các nhà thần học. Các Hội đồng Giám mục rất nên khuyến khích kiểu gặp gỡ này “nhằm cổ võ một sự hiệp thông sâu sắc hơn tron việc phục vụ Lời Thiên Chúa”.149 Một sự cộng tác như thế giúp mỗi người chu toàn nhiệm vụ của mình cách tốt đẹp hơn vì lợi ích của cả Giáo Hội. Quả thật, đối với các nhà nghiên cứu cũng vậy, dấn thân theo chiều hướng mục vụ có nghĩa là tiếp cận bản văn thánh trong tư cách là một sứ điệp Thiên Chúa truyền thông cho loài người nhằm cứu độ họ. Vì thế, như Hiến chế tín lý Dei Verbum đã tuyên bố, “các nhà chú giải Công Giáo và những nhà nghiên cứu thần học phải chuyên cần hiệp lực, cố gắng dùng những phương thế thích hợp mà khảo sát và trình bày Kinh Thánh, dưới sự trông nom của Huấn Quyền thánh; công việc này phải được thực hiện thế nào để có đa số tối đa những người phục vụ Lời Chúa có thể cung cấp hữu hiệu cho dân Thiên Chúa lương thực Kinh Thánh có sức soi sáng tâm trí, củng cố ý chí và thiêu đốt lòng người yêu mến Thiên Chúa”.150

Kinh Thánh và đại kết

46. Ý thức rằng Giáo Hội được xây dựng trên Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, Thượng Hội Đồng muốn nhấn mạnh đến đặc tính trung tâm của các nghiên cứu Kinh Thánh trong cuộc đối thoại đại kết, nhằm diễn tả trọn vẹn sự hợp nhất của tất cả những người tin vào Chúa Kitô.151 Quả thật, chính trong Kinh Thánh, chúng ta gặp được lời cầu nguyện rất cảm động Đức Giêsu dâng lên Chúa Cha để xin cho các môn đệ của Người được nên một, hầu thế gian có thể tin (x. Ga 17,21). Tất cả những điều này càng củng cố chúng ta trong xác tín rằng cùng lắng nghe và suy niệm Lời Chúa giúp chúng ta sống sự hiệp thông thật sự, cho dù chưa trọn vẹn;152 “việc cùng nhau lắng nghe Kinh Thánh như thế thúc đẩy chúng ta đi tới đối thoại bác ái và làm tăng trưởng đối thoại chân lý”.153 Thật vậy, cùng lắng nghe Lời Thiên Chúa với nhau, cùng thực hành Lectio divina, để cho mình ngỡ ngàng trước tính chất mới mẻ, không bao giờ già đi hoặc cạn kiệt, của Lời Thiên Chúa, vượt thắng tình trạng điếc lác khiến chúng ta không nghe được những lời không hòa hợp với các ý kiến hoặc thành kiến của chúng ta, lắng nghe và học hỏi Lời trong sự hiệp thông với các tín hữu thuộc mọi thời đại: tất cả những điều này làm nên một con đường phải rảo qua để đạt tới sự hợp nhất trong đức tin, như một lời đáp trả cho việc lắng nghe Lời Thiên Chúa.154 Lời của Công Đồng Vatican II thật sự rõ ràng về điểm này: “Trong chính việc đối thoại [đại kết], Kinh Thánh là dụng cụ tuyệt hảo trong bàn tay toàn năng của Thiên Chúa để đạt tới sự hiệp nhất được Đấng Cứu Thế tỏ bày cho mọi người”.155 Do đó, rất nên phát triển việc nghiên cứu, tranh luận và những cuộc cử hành đại kết về Lời Thiên Chúa, trong sự tôn trọng những luật lệ riêng và những truyền thống khác nhau.156 Những cuộc cử hành này giúp ích cho công cuộc đại kết, và một khi được sống đúng ý nghĩa, chúng tạo nên những thời điểm đầy ắp lời cầu nguyện chân thật để xin Thiên Chúa cho mau đến ngày chúng ta vẫn khao khát, ngày mà chúng ta cùng có thể tiến tới cùng một bàn ăn và uống cùng một chén duy nhất. Tuy nhiên, dù cổ võ những thời điểm này là việc chính đáng và đáng khen, phải đề nghị thế nào để các tín hữu không coi đó như là những cách thay thế Thánh lễ vào những ngày lễ buộc.

Trong công việc học hỏi và cầu nguyện, chúng ta cũng thanh thản nhìn nhận có những khía cạnh còn cần phải được đào sâu và do đó chúng ta còn xa cách nhau, chẳng hạn trong Giáo Hội, phải hiểu thế nào về chủ thể có quyền giải thích và về vai trò quyết định của Huấn Quyền.157

Đàng khác, tôi muốn nhấn mạnh đến những gì các Nghị Phụ đã nói về tầm quan trọng đối với lãnh vực đại kết của các bản dịch Kinh Thánh trong các ngôn ngữ khác nhau. Quả thật, chúng ta biết rằng dịch một bản văn không phải là một công việc thuần túy máy móc, nhưng theo nghĩa nào đó, thuộc về công việc giải thích. Về vấn đề này, Đấng đáng kính Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Những ai còn nhớ là những cuộc tranh luận xung quanh Kinh Thánh đã gây ra những chia rẽ nặng nề thế nào, nhất là bên Phương Tây, đều có thể đánh giá cao bước tiến đầy ý nghĩa là những bản dịch làm chung ấy”.158 Theo nghĩa này, cổ võ những bản dịch chung Kinh Thánh góp phần vào nỗ lực đại kết. Ở đây, tôi muốn cám ơn tất cả những ai đang đảm nhận trách nhiệm quan trọng này và khích lệ họ kiên trì theo đuổi công việc của họ.

Các hậu quả trên việc tổ chức các khoa thần học

47. Một hậu quả khác xuất phát từ một việc giải thích đúng đắn trong đức tin, đó là cần phải cho thấy những liên hệ của công việc này với việc đào tạo chú giải và thần học, đặc biệt với việc đào tạo các ứng viên cho chức linh mục. Phải làm sao cho việc học hỏi Kinh Thánh thật sự là linh hồn của thần học trong mức độ người ta nhìn nhận rằng Kinh Thánh là Lời Thiên Chúa đang ngỏ với thế giới hôm nay, với Giáo Hội và với riêng từng người. Điều quan trọng là các tiêu chuẩn được nêu ra trong số 12 của Hiến chế tín lý Dei Verbum được thực sự quan tâm và được đào sâu. Phải tránh vun trồng quan niệm là có thể nghiên cứu cách khoa học, coi như trung lập, đối với Kinh Thánh. Vì thế, trong khi học các ngôn ngữ mà Kinh Thánh đã được viết và những phương pháp chú giải thích hợp, các sinh viên cũng cần phải có một đời sống thiêng liêng sâu sắc, đến nỗi hiểu được rằng chỉ có thể hiểu Kinh Thánh, nếu sống Kinh Thánh.

Trong viễn tượng ấy, tôi yêu cầu việc học hỏi Lời Thiên Chúa, đã được truyền đạt và viết ra, phải diễn ra một trong một tinh thần Giáo Hội sâu sắc. Vì mục đích ấy, trong đào tạo trường lớp, cần quan tâm đến những can thiệp của Huấn Quyền trên lãnh vực này; Huấn Quyền “không ở trên Lời Thiên Chúa nhưng là tôi tớ phục vụ Lời, vì chỉ giảng dạy điều đã được truyền lại, cũng như do mệnh lệnh của Thiên Chúa và nhờ ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Huấn Quyền kính mến lắng nghe, thành kính gìn giữ và trung thành trình bày Lời đó”.159 Do đó, phải để ý làm cho công việc học hỏi diễn tiến với xác tín là “do ý định hết sức khôn ngoan của Thiên Chúa, Thánh Truyền, Thánh Kinh và Huấn Quyền của Giáo Hội được nối kết và liên đới với nhau đến nỗi một cái nào có thể đứng vững một mình không cần hai cái kia”.160 Tôi ao ước rằng, theo lời dạy của Công Đồng Vatican II, việc học hỏi Kinh Thánh, được đọc trong sự hiệp thông với Giáo Hội phổ quát, phải thật sự là linh hồn của các khoa thần học.161



Các thánh và việc giải thích Kinh Thánh

48. Việc giải thích Kinh Thánh hẳn sẽ không đầy đủ nếu ta không đặt mình lắng nghe chính những người đã từng sống Lời Thiên Chúa, đó là các thánh.162 Thật vậy, “viva lectio est vita bonorum” (việc đọc Lời Chúa sống động là đời sống của những người tốt lành).163 Quả thế, những người có thể giải thích Kinh Thánh sâu sắc nhất là những người đã để cho Lời Thiên Chúa uốn nắn, qua việc lắng nghe, đọc và chuyên chăm suy niệm.

Chắc chắn không phải tình cờ mà các nền linh đạo lớn đã ghi đậm nét trên lịch sử Giáo Hội đều phát sinh nhờ quy chiếu minh nhiên về Kinh Thánh. Tôi nghĩ chẳng hạn đến thánh Antôn tu viện trưởng, được đánh động bởi lắng nghe các lời của Đức Kitô: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mt 19,21).164 Không kém đánh động là trường hợp thánh Basiliô Cả, vì trong tác phẩm Opera Moralia, ngài đã tự hỏi: “Điều gì là điểm thuộc riêng đức tin? Đó chính là sự chắc chắn tròn đầy và không hề nghi ngờ về sự thật của những Lời được Thiên Chúa linh hứng [...] Điều gì là điểm thuộc riêng của người tín hữu? Đó là sống phù hợp với chắc chắn tròn đầy vào những gì mà các lời Kinh Thánh diễn tả, không dám thêm hoặc bớt dù chỉ một lời”.165 Thánh Biển-đức, trong Tu luật của người, đã quy chiếu về Kinh Thánh như “chuẩn mực hoàn toàn ngay thẳng cho đời sống con người”.166 Thánh Phanxicô Assisi, như tác giả Tôma Xêlanô viết, “khi nghe dạy rằng các môn đệ Đức Kitô không được sắm vàng, bạc hay tiền đồng giắt lưng, khi đi đường không được mang theo bao bị, lương thực, gậy chống, cũng không mang giày dép, không có tới hai áo…, lập tức lòng thánh nhân hớn hở vui mừng trong Chúa Thánh Thần, ngài reo lên: “Đây là điều tôi mong mỏi, đây là điều tôi tìm kiếm, đây là điều tôi hết sức ước muốn thực hiện!”.167 Thánh Clara đã lấy lại trọn vẹn cho mình kinh nghiệm của thánh Phanxicô: “Lối sống Hội Dòng các Chị Em Nghèo Khó là: Tuân giữ Phúc Âm thánh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.168 Thánh Đa Minh Gútman cũng thế, “ở mọi nơi, người đều tỏ ra là con người của Tin Mừng, trong lời nói cũng như việc làm”169 và muốn rằng các anh em thuyết giáo của người đều phải như thế: “những con người của Tin Mừng”.170 Thánh Têrêsa Giêsu, nữ tu Dòng Kín Cát-minh, trong các tác phẩm của người, thường xuyên nại tới các hình ảnh Kinh Thánh để giải thích kinh nghiệm thần bí của người; người nhắc lại rằng chính Chúa Giêsu tỏ bày cho người biết rằng “mọi sự dữ của thế gian đều phát xuất từ chỗ thiếu hiểu biết rõ ràng về các chân lý của Kinh Thánh”.171 Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã khám phá ra Tình yêu như ơn gọi riêng của người khi nghiền ngẫm Kinh Thánh, đặc biệt các chương 12 và 13 của Thư 1 gửi tín hữu Côrintô;172 cũng chính vị thánh này đã mô tả sự thu hút của Kinh Thánh: “Em chỉ việc liếc vào Tin Mừng, là lập tức em ngửi thấy hương thơm cuộc đời Chúa Giêsu và em biết em phải chạy về phía nào”.173 Mỗi vị thánh giống như một tia sáng phát xuất từ Lời Thiên Chúa: chúng ta có thể nghĩ đến thánh Inhaxiô Lôiôla khi người đi tìm kiếm chân lý và phân định thiêng liêng; thánh Gioan Bốtcô với niềm say mê giáo dục giới trẻ; thánh Gioan Maria Vianney với ý thức về sự cao cả của chức linh mục như hồng ân và bổn phận; thánh Piô Pietrelcina như dụng cụ của lòng thương xót Thiên Chúa; thánh Giôsêmaria Étcriva trong hoạt động rao giảng về lời Thiên Chúa mời gọi mọi người nên thánh; chân phước Têrêsa Cancútta, nhà thừa sai của lòng bái ái Thiên Chúa đối với những kẻ bị bỏ rơi, và nghĩ tới cả các vị tử đạo dưới chế độ Đức quốc xã và cộng sản, được đại diện bởi thánh Bênêđita Thánh giá (Edith Stein), nữ tu Cát-minh và chân phước Alôi Stêpinác, Hồng y tổng giám mục Zagreb.

49. Như thế, sự thánh thiện trong tương quan với Lời Thiên Chúa cách nào đó thuộc về truyền thống tiên tri, tại đó Lời Thiên Chúa bố trí cuộc đời của vị tiên tri theo hướng phục vụ Người. Theo nghĩa này, sự thánh thiện trong Giáo Hội là một cách giải thích Kinh Thánh mà không ai có thể bỏ qua. Thánh Thần, Đấng đã linh hứng các tác giả thánh, cũng là Đấng dẫn đưa các thánh đến chỗ hiến tặng cuộc đời các ngài cho Tin Mừng. Khi cố gắng học lấy gương sống của các ngài, chúng ta đi trên nẻo đường chắc chắn để thực hiện được một cách giải thích Lời Thiên Chúa sống động và hiệu quả.

Từ mối liên hệ giữa Lời Thiên Chúa và sự thánh thiện, chúng ta đã có một chứng tá trực tiếp trong kỳ họp XII của Thượng Hội Đồng Giám Mục. Đó là vào ngày 12-10, tại quảng trường thánh Phêrô, đã diễn ra lễ phong thánh cho bốn vị thánh mới: linh mục Gaêtanô Ericô, đấng sáng lập Hội Thừa sai Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria; Mẹ Maria Bênađa Buýtle, sinh tại Thụy-sĩ và truyền giáo tại Êquađo và Côlômbia; Nữ tu Anphonsina của Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, vị thánh đầu tiên sinh tại Ấn-độ; nữ giáo dân Nácxiađa Giêsu Máctigiô Môran. Bằng đời sống, các ngài đã làm chứng cho toàn thế giới và cho Giáo Hội thấy sự phong phú vĩnh hằng của Tin Mừng Đức Kitô. Chúng ta hãy cầu xin Chúa, nhờ sự cầu thay nguyện giúp của các vị thánh được phong trong thời gian Thượng Hội Đồng Giám Mục họp về Lời Chúa, ban cho đời sống chúng ta thành “mảnh đất tốt”, trên đó Đấng gieo giống thần linh có thể gieo Lời, hầu mang lại trong ta những hoa trái thánh thiện, “gấp ba mươi, sáu mươi và một trăm” (Mc 4,20).



PHẦN HAI

VERBUM IN ECCLESIA

(LỜI TRONG GIÁO HỘI)

“Còn những ai đón nhận,



thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12)

LỜI THIÊN CHÚA VÀ GIÁO HỘI

Giáo Hội đón nhận Lời

50. Đức Chúa công bố Lời của Ngài để Lời Ngài được đón nhận bởi những kẻ đã được tạo dựng “bởi” chính Ngôi Lời. “Người đã đến nhà mình” (Ga 1,11): Lời không phải là một cái gì ngay từ nguyên thủy xa lạ với chúng ta và công trình tạo dựng đã được Thiên Chúa muốn có trong một tương quan mật thiết với đời sống thần linh. Lời Tựa của Tin Mừng thứ tư cũng đặt chúng ta trước sự chối từ đối với Lời Thiên Chúa của những “người nhà”, họ “đã không chịu đón nhận” Người (Ga 1,11). Không đón nhận Lời có nghĩa là không lắng nghe tiếng của Lời, không sống phù hợp với Logos. Ngược lại, nơi nào con người, dù mỏng giòn và tội lỗi, chân thành mở ra gặp gỡ Đức Kitô, thì nơi ấy bắt đầu xuất hiện một sự thay đổi tận căn: “còn những ai đón nhận thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12). Đón nhận Ngôi Lời có nghĩa là để cho Người uốn nắn để nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, với “Con một đến từ Chúa Cha” (Ga 1,13) nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần. Đó là khởi đầu cho một cuộc tạo thành mới. Khi đó, sinh ra một thụ tạo mới, cũng như một dân mới. Những ai tin, hay đúng hơn, những ai sống trong sự vâng phục đức tin, thì “được Thiên Chúa sinh ra” (Ga 1,13) và được trở nên những kẻ thông phần vào sự sống thần linh: họ là con trong Chúa Con (x. Gl 4,5-6; Rm 8,14-17). Khi chú giải đoạn Tin Mừng này của thánh Gioan, thánh Augustinô nói cách súc tích như sau: “bạn đã được Ngôi Lời tạo dựng nhưng bạn cần phải được Ngôi Lời tái tạo”.174 Ở đây, chúng ta nhận ra dung mạo của Giáo Hội như một thực thể được xác định bởi biết đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng khi mặc xác phàm, đã đến dựng lều giữa chúng ta (Ga 1,14). Ngôi nhà Thiên Chúa ở giữa loài người, gọi là shekinah ấy (x. Xh 26,1), đã từng được tiên báo trong Cựu Ước, nay được thể hiện nơi sự hiện diện vĩnh viễn của Thiên Chúa với con người trong Đức Kitô.

Sự hiện diện liên tục của Đức Kitô
trong đời sống Giáo Hội


51. Tương quan giữa Đức Kitô, Lời của Chúa Cha, và Giáo Hội không thể được hiểu đơn thuần như một biến cố thuộc quá khứ, nhưng là một tương quan sống động mà mỗi tín hữu được kêu mời chính mình đi vào. Quả thế, chúng ta đang nói đến sự hiện diện của Lời Thiên Chúa với chúng ta hôm nay: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Như Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Sự hiện diện của Đức Kitô cho con người ở mọi thời đại được thực hiện nơi Thân Mình Người là Giáo Hội. Vì lý do đó, Đức Chúa đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ, Thánh Thần sẽ giúp các ông “nhớ lại” và sẽ dạy cho các ông hiểu các lệnh truyền của Người (x. Ga 14,26) và Thánh Thần sẽ là nguyên lý và nguồn cội của một đời sống mới trong thế giới (x. Ga 3,5-8; Rm 8,1-13)”.175 Hiến chế tín lý Dei Verbum diễn tả mầu nhiệm này bằng thuật ngữ Kinh Thánh của cuộc đối thoại hôn ước: “Thiên Chúa, Đấng xưa đã phán dạy, nay vẫn không ngừng ngỏ lời với Hiền Thê của Con yêu dấu mình; và Thánh Thần, Đấng làm cho tiếng nói sống động của Phúc Âm vang dội trong Giáo Hội và nhờ Giáo Hội làm vang dội trong thế giới, hướng dẫn các tín hữu nhận biết toàn thể chân lý và làm cho Lời Chúa Kitô tràn ngập lòng họ (x. Cl 3,16)”.176

Hiền Thê của Đức Kitô, thầy dạy việc lắng nghe, hôm nay vẫn đang nói trong đức tin: “Lạy Chúa, xin hãy nói, Giáo Hội của Chúa đang lắng nghe”.177 Chính vì thế, Hiến chế tín lý Dei Verbum bắt đầu như thế này: “Khi thành kính lắng nghe và dạn dĩ công bố Lời Thiên Chúa, Thánh Công Đồng…”.178 Đó là một định nghĩa năng động về đời sống của Giáo Hội: “Đó là những từ ngữ Giáo Hội dùng để nói lên một phương diện trong tính cách của Giáo Hội: Giáo Hội là một cộng đoàn lắng nghe và công bố Lời Thiên Chúa. Giáo Hội không kín múc lấy sự sống từ chính mình nhưng từ Tin Mừng và, từ Tin Mừng này, Giáo Hội vẫn lại luôn luôn rút ra được một định hướng cho hành trình của mình. Đây là một nhận định mà mọi Kitô hữu phải đón nhận và áp dụng cho chính mình: chỉ người nào đặt mình trong tư thế lắng nghe Lời thì mới có thể trở thành kẻ loan báo”.179 Trong Lời Thiên Chúa được công bố và lắng nghe, trong các Bí tích, Đức Giêsu đang nói hôm nay, ở đây và bây giờ, cho mỗi người: “Ta thuộc về con, Ta ban mình cho con” để cho con người có thể đáp trả và đến phiên mình có thể nói: “Con thuộc về Chúa”.180 Như thế, Giáo Hội xuất hiện như là môi trường để chúng ta có thể nhờ ân sủng mà cảm nghiệm điều được Lời Tựa của Tin Mừng Gioan thuật lại: “Còn những ai đón nhận, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12).



PhỤng vỤ, môi trưỜng ĐẶc Trưng
cỦa LỜi Thiên Chúa


Lời Thiên Chúa trong phụng vụ thánh

52. Khi xét đến Giáo Hội như “nơi cư ngụ của Lời”,181 người ta phải chú ý trước hết đến phụng vụ thánh. Đó đích thực là môi trường đặc trưng để Thiên Chúa nói trong đời sống hiện tại của chúng ta, là nơi hôm nay Thiên Chúa đang nói với Dân của Ngài, đoàn Dân đang lắng nghe và đáp trả. Tự bản chất, mỗi một hành động phụng vụ đều được nuôi dưỡng bằng Kinh Thánh. Như Hiến chế Sacrosanctum Concilium đã khẳng định, “trong việc cử hành phụng vụ, Kinh Thánh giữ vai trò tối quan trọng. Thực vậy, người ta trích từ Kinh Thánh những bài để đọc, để dẫn giải trong bài giảng, cũng như những ca vịnh để hát. Chính nhờ nguồn cảm hứng và sức phấn khởi của Kinh Thánh mà xuất phát những lời kinh, lời nguyện và những bài phụng ca, đồng thời những động tác và các biểu hiệu trở thành có ý nghĩa”.182 Hơn thế nữa, người ta còn phải nói rằng chính Đức Kitô “hiện diện trong lời của Người vì chính Người nói khi người ta đọc Kinh Thánh trong Giáo Hội”.183 Thật vậy, “chính việc cử hành phụng vụ trở thành một việc công bố liên tục, đầy đủ và hữu hiệu Lời Thiên Chúa. Chính vì thế, Lời Thiên Chúa, được công bố đều đặn trong phụng vụ thì luôn sống động và hữu hiệu do quyền năng của Chúa Thánh Thần, và thể hiện tình yêu của Chúa Cha không bao giờ ngừng tác động nơi mọi người”.184 Giáo Hội đã luôn ý thức rằng trong hành vi phụng vụ, Lời Thiên Chúa luôn được hỗ trợ bởi tác động mật thiết của Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho Lời Thiên Chúa mang lại kết quả trong tâm hồn tín hữu. Thật thế, chính nhờ Đấng Bảo Trợ mà “Lời Thiên Chúa trở nên nền tảng của hành vi phụng vụ, quy luật và sự nâng đỡ của trọn cuộc sống. Công trình của Chúa Thánh Thần (…) gợi lên trong lòng của mỗi người tất cả những gì được phát biểu cho toàn thể cộng đoàn tín hữu khi Lời Thiên Chúa được công bố; và trong khi củng cố sự hiệp nhất của mọi người, Chúa Thánh Thần cũng làm sống lại các đặc sủng khác nhau và thúc đẩy chúng hành động dưới nhiều cách thế”.185

Vì thế, phải hiểu và sống giá trị chính yếu của hành động phụng vụ nhờ am tường Lời Thiên Chúa. Theo một ý nghĩa nào đó, việc chú giải đức tin dựa trên nền tảng Kinh Thánh, phải luôn coi phụng vụ là điểm quy chiếu, nơi đó Lời Thiên Chúa được cử hành như một lời hiện tại và sống động: “Như thế, trong phụng vụ, Giáo Hội trung thành theo cách đọc và chú giải Kinh Thánh như Đức Kitô đã làm, từ cái ‘hôm nay’ của việc Người đến, Người khuyến khích thăm dò cẩn thận toàn bộ Kinh Thánh”.186



Ở đây, người ta thấy khoa sư phạm khôn ngoan của Giáo Hội khi theo nhịp điệu của năm phụng vụ mà công bố và lắng nghe Kinh Thánh. Sự dàn trải của Lời Thiên Chúa trong thời gian được thể hiện một cách đặc biệt trong việc cử hành Thánh Thể và trong Phụng Vụ các Giờ Kinh. Ở trung tâm của tất cả, Mầu nhiệm Vượt Qua chói sáng và gắn liền với mầu nhiệm ấy là tất cả các mầu nhiệm của Đức Kitô và của lịch sử cứu độ được hiện tại hóa theo cách bí tích: “Trong khi cử hành những Mầu Nhiệm Cứu Chuộc như thế, Giáo Hội rộng mở cho các tín hữu sản nghiệp nhân đức và công nghiệp của Chúa, khiến cho những mầu nhiệm này có thể nói là hiện diện qua mọi thời đại, ngõ hầu các tín hữu tiếp xúc với các mầu nhiệm đó sẽ được đầy tràn ơn cứu chuộc”.187 Tôi khuyến khích các Mục tử của Giáo Hội và các phụ tá mục vụ tìm cách làm thế nào cho mọi tín hữu biết cảm nếm ý nghĩa sâu xa của Lời Thiên Chúa được triển khai suốt năm trong phụng vụ, diễn tả các Mầu nhiệm nền tảng của đức tin. Việc tiếp cận Kinh Thánh một cách đúng đắn cũng tùy thuộc vào đó.

Kinh Thánh và các Bí tích

53. Khi đề cập đến chủ đề giá trị của phụng vụ đối với việc hiểu Lời Thiên Chúa, Thượng Hội Đồng Giám Mục cũng muốn nhấn mạnh đến tương quan giữa Kinh Thánh và hành động bí tích. Rất thích hợp để đào sâu mối liên hệ giữa Lời và Bí tích, trong hành động mục vụ của Giáo Hội cũng như trong nghiên cứu thần học.188 Chắc chắn “phụng vụ Lời Chúa là một yếu tố quyết định trong việc cử hành các Bí tích của Giáo Hội”;189 tuy nhiên, trong hành động mục vụ, các tín hữu không phải lúc nào cũng ý thức về mối liên hệ này và không phải lúc nào cũng nhận ra được tính duy nhất giữa cử chỉ và lời nói. “Nhất là khi cử hành các Bí tích, các linh mục và phó tế phải nêu bật sự duy nhất giữa Lời và Bí tích trong thừa tác vụ của Giáo Hội”.190 Thật vậy, trong tương quan giữa Lời và cử chỉ bí tích, chính hành động của Thiên Chúa trong lịch sử được thể hiện dưới hình thức phụng vụ qua đặc tính trình diễn (performatif, trình-bày-và-thực-hiện) của Lời. Trong lịch sử cứu độ, không có tách biệt giữa điều Thiên Chúa nói và làm; chính Lời của Ngài luôn sống động và hữu hiệu (x. Dt 4,12), như từ ‘dabar’ trong tiếng Híp-ri diễn tả rõ ràng. Cũng thế, trong hành động phụng vụ, chúng ta đứng trước Lời của Ngài, Lời đang thực hiện điều Lời nói. Khi huấn luyện Dân Thiên Chúa khám phá tính cách trình diễn của Lời Thiên Chúa trong phụng vụ, người ta cũng giúp cho Dân Thiên Chúa nhận ra hành động của Ngài trong lịch sử cứu độ và trong lịch sử cá nhân của mỗi một thành viên.

Lời Thiên Chúa và Thánh Thể

54. Điều vừa khẳng định cách tổng quát về tương quan giữa Lời và Bí tích, sẽ có ý nghĩa sâu xa hơn khi chúng ta đề cập đến việc cử hành Thánh Thể. Đàng khác, sự hiệp nhất sâu xa giữa Lời và Thánh Thể đặt nền trên chứng từ của Kinh Thánh (x. Ga 6; Lc 24), đã được các Giáo Phụ làm chứng cho và được Công Đồng Vatican II tái khẳng định.191 Về vấn đề này, chúng ta nghĩ đến bài diễn từ dài của Đức Giêsu về bánh trường sinh trong hội đường Caphácnaum (x. Ga 6,22-69), bài này đặt nền tảng trên sự so sánh giữa Môsê và Đức Giêsu, giữa người đã trò chuyện với Thiên Chúa mặt đối mặt (x. Xh 33,11) và Đấng mạc khải Thiên Chúa (x. Ga 1,18). Thật vậy, bài diễn từ về bánh đưa trở lại với quà tặng của Thiên Chúa mà Môsê đã nhận lãnh cho Dân mình với man-na trong hoang địa, mà trong thực tế đó là Torah, Lời Thiên Chúa làm cho sống (x. Tv 119; Cn 9,5). Đức Giêsu hoàn thành nơi chính bản thân Người hình ảnh cổ xưa: “Bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian… Chính tôi là bánh trường sinh” (Ga 6,33.35). Ở đây, “Luật đã trở thành Ngôi vị. Khi gặp gỡ Đức Giêsu, chúng ta được nuôi sống có thể nói bằng chính Thiên Chúa hằng sống, thật sự chúng ta ăn ‘bánh từ trời xuống’”.192 Lời Tựa của Tin mừng Gioan được đào sâu thêm trong diễn từ tại Caphácnaum: nếu ở đó Logos của Thiên Chúa trở thành xác thể, ở đây xác thể này trở thành “bánh” để cho thế gian được sống (x. Ga 6,51), điều này ám chỉ đến việc Đức Giêsu ban chính mình trong mầu nhiệm thập giá, một hành vi được xác nhận bởi các lời liên quan đến máu Người đổ ra “làm thức uống” (x. Ga 6,53). Theo cách thức này, trong mầu nhiệm Thánh Thể, được tỏ hiện đâu là man-na đích thực, bánh đích thực từ trời xuống: chính là Logos của Thiên Chúa đã trở thành xác thể, và đã hiến dâng chính mình cho chúng ta trong Mầu nhiệm Vượt Qua.

Trình thuật của Luca về các môn đệ Emmau cho phép chúng ta suy gẫm sâu xa hơn về mối dây liên kết Lời với việc bẻ bánh (x. Lc 24,13-35). Đức Giêsu đến gặp họ vào hôm sau ngày sa-bát, lắng nghe họ giãi bày nỗi thất vọng của họ, và cùng đồng hành với họ, “Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (24,27). Hai môn đệ bất đầu khám phá Sách Thánh theo một cách thức mới mẻ nhờ vị khách bộ hành tỏ ra rất gần gũi cách bất ngờ với cuộc đời họ. Điều đã xảy ra trong những ngày ấy không còn xuất hiện ra như một thất bại, nhưng như một hoàn tất và một khởi hành mới.Tuy nhiên, những lời này xem ra chưa làm cho các môn đệ thỏa mãn. Tin Mừng Luca nói với chúng ta rằng “mắt họ mở ra và họ nhận ra Người” (24,31), chỉ khi Đức Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho họ, trong khi trước đó “mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người” (24,16). Sự hiện diện của Đức Giêsu, trước tiên qua lời nói, sau đó qua cử chỉ bẻ bánh, đã cho phép các môn đệ nhận ra Người; họ đã có thể cảm nghiệm một cách mới mẻ những gì họ đã sống trước đó với Người: “Dọc đường khi Người nói chuyện và giải thích Thánh Kinh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (24,32).



55. Những trình thuật này cho thấy chính Kinh Thánh đưa chúng ta đến chỗ nắm bắt được mối liên hệ không thể chia lìa của Kinh Thánh với Thánh Thể. “Chính vì thế phải luôn nhớ rằng Lời Thiên Chúa, được Giáo Hội đọc và loan báo trong phụng vụ, dẫn đến hy tế của Giao ước và bàn tiệc của ân sủng, nghĩa là Thánh Thể”.193 Lời và Thánh Thể liên kết mật thiết với nhau đến độ không thể hiểu cái này mà không có cái kia: Lời Thiên Chúa đã trở thành xác thể theo cách bí tích trong biến cố Thánh Thể. Thánh Thể giúp chúng ta hiểu Kinh Thánh, cũng như Kinh Thánh đến phiên mình soi sáng và giải thích Mầu nhiệm Thánh Thể. Thật vậy, nếu không nhìn nhận sự hiện diện đích thực của Chúa trong Thánh Thể, việc hiểu Kinh Thánh sẽ không đầy đủ. Chính vì thế, “Lời Thiên Chúa và Mầu nhiệm Thánh Thể, luôn luôn và ở khắp nơi, tuy không được Giáo Hội thờ phượng như nhau, nhưng được Giáo Hội tôn kính như nhau. Được thúc đẩy bởi gương của Đấng Sáng lập, Giáo Hội đã không bao giờ ngừng cử hành Mầu nhiệm Vượt Qua của Người bằng cách họp nhau để “đọc trong tất cả Sách Thánh những gì liên quan đến Người” (Lc 24,27) và để thực hiện công trình cứu độ nhờ việc tưởng niệm Đức Chúa và nhờ các Bí tích”.194

Bí tích tính của Lời

56. Việc nhắc lại đặc tính trình diễn của Lời Thiên Chúa trong hành động bí tích và trong việc đào sâu tương quan giữa Lời và Thánh Thể, đưa chúng ta đến một chủ đề quan trọng, đã được Thượng Hội Đồng nêu lên, liên quan đến bí tích tính của Lời.195 Về vấn đề này, cần nhắc lại rằng Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói đến “viễn tượng tích của Mạc Khải, và một cách đặc biệt, đến dấu chỉ Thánh Thể trong đó sự kết hiệp không thể phân chia giữa thực tại và ý nghĩa của nó cho phép hiểu được chiều sâu của Mầu nhiệm”.196 Từ đó, chúng ta hiểu rằng Mầu nhiệm Nhập thể đích thực là nguồn gốc của bí tích tính của Lời Thiên Chúa: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm (xác thịt)” (Ga 1,14), thực tại của Mầu nhiệm được mạc khải đã được ban cho chúng ta trong “xác thịt” của Người Con. Lời Thiên Chúa có thể đón nhận bằng đức tin qua “dấu chỉ” của lời nói và cử chỉ nhân loại. Như thế, đức tin nhận biết Ngôi Lời Thiên Chúa, khi đón tiếp các các cử chỉ và các lời nói Người dùng để tỏ mình cho chúng ta. Vì thế, viễn tượng bí tích của Mạc Khải cho thấy phương cách cứu độ trong lịch sử qua đó Ngôi Lời Thiên Chúa đi vào trong thời gian và không gian, trở thành Đấng đối thoại với con người; còn con người thì được mời gọi đón nhận trong đức tin quà tặng được ban cho.

Như thế, bí tích tính của Lời có thể hiểu cách loại suy như sự hiện diện đích thực của Chúa Kitô dưới hình bánh và rượu được truyền phép.197 Bằng cách đến bàn thờ và thông phần vào bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta thực sự thông hiệp vào Mình và Máu Chúa Kitô. Việc công bố Lời Thiên Chúa trong khi cử hành bao hàm việc nhìn nhận chính Chúa Kitô hiện diện và ngỏ lời với chúng ta198 để được chúng ta lắng nghe. Về thái độ phải có đối với Thánh Thể cũng như đối với Lời Thiên Chúa, thánh Giêrônimô xác quyết: “Chúng ta đọc Kinh Thánh. Tôi nghĩ rằng Tin Mừng là Mình Chúa Kitô; tôi nghĩ rằng Kinh Thánh là giáo huấn của Người. Và khi Người nói: nếu các ngươi không ăn thịt Con Người, và nếu các ngươi không uống Máu Người (Ga 6,53), các lời của Người nói đến Mầu nhiệm [Thánh Thể], tuy nhiên, Mình và Máu Chúa Kitô đích thực là Lời của Sách Thánh, đó là giáo huấn của Thiên Chúa. Khi chúng ta đến với Mầu nhiệm [Thánh Thể] mà có một miếng bánh rơi xuống, chúng ta cảm thấy có lỗi. Và khi chúng ta lắng nghe Lời Thiên Chúa, đó là Lời Thiên Chúa và là Mình Máu Chúa Kitô rơi vào lỗ tai chúng ta, thế mà chúng ta, chúng ta lại nghĩ đến chuyện khác. Chúng ta có thể tưởng tượng ra nguy hiểm lớn lao mà chúng ta đang gặp phải không?”.199 Chúa Kitô, hiện diện thực sự trong hình bánh và hình rượu, cũng hiện diện cách loại suy trong Lời được công bố trong phụng vụ. Như thế, đào sâu ý nghĩa của bí tích tính của Lời Thiên Chúa có thể giúp hiểu cách thống nhất hơn Mầu nhiệm của Mạc Khải được thực hiện “bằng các hành động và lời nói liên kết mật thiết với nhau”,200 điều đó mang lại ích lợi cho đời sống thiêng liêng của tín hữu và cho công việc mục vụ của Giáo Hội.



Kinh Thánh và Sách Bài đọc

57. Khi nhấn mạnh đến tương quan giữa Lời và Thánh Thể, Thượng Hội Đồng đã muốn nhắc lại một số khía cạnh của cuộc cử hành liên quan đến việc phục vụ Lời. Tôi muốn nhấn mạnh đặc biệt đến tầm quan trọng của Sách Bài đọc. Cuộc cải tổ do Công Đồng Vatican II201 khởi xướng đã mang lại kết quả khi mở rộng cửa đến với Kinh Thánh, nay được đề nghị dồi dào hơn, đặc biệt trong phụng vụ ngày Chúa nhật. Cấu trúc hiện nay của Sách Bài đọc không chỉ trình bày thường xuyên hơn các bản văn quan trọng nhất của Sách Thánh, nhưng còn giúp chúng ta hiểu tính duy nhất của kế hoạch của Thiên Chúa nhờ mối tương liên giữa các bài đọc của Cựu và Tân Ước, “trung tâm của mối tương liên đó là Chúa Kitô được cử hành trong Mầu nhiệm Vượt Qua của Người”.202 Một số những khó khăn còn tồn tại đối trong việc hiểu các tương quan giữa các bài đọc của hai Giao Ước, nay phải được xét đến dưới ánh sáng của cách đọc theo Thư Quy, nghĩa là dưới ánh sáng của tính duy nhất nội tại của toàn thể Kinh Thánh. Nơi nào cảm thấy có nhu cầu, các cơ quan thẩm quyền có thể cho xuất bản tài liệu giáo khoa cho phép hiểu mối liên kết giữa các bài đọc được Sách Bài đọc đề nghị, tất cả các bài đọc này phải được công bố cho cộng đoàn phụng vụ, như phụng vụ của ngày hôm đó dự trù. Phải thông báo cho Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích những vấn đề khác có thể xảy ra và các khó khăn gặp phải.

Hơn nữa, chúng ta không được quên rằng Sách Bài đọc hiện thời của nghi lễ La-tinh cũng mang một ý nghĩa đại kết, vì nó được sử dụng và đồng thời được đánh giá cao bởi những cộng đoàn chưa thông hiệp đầy đủ với Giáo Hội Công Giáo. Vấn đề Sách Bài đọc trong phụng vụ của các Giáo Hội Công Giáo Đông phương được đặt ra cách khác; Thượng Hội Đồng yêu cầu vấn đề phải được “cứu xét cách có thẩm quyền”203 theo những truyền thống riêng biệt và những thẩm quyền của các Giáo Hội sui iuris, đồng thời cũng phải lưu ý tới bối cảnh đại kết.



Công bố Lời và thừa tác vụ đọc sách

58. Thượng Hội Đồng về Thánh Thể đã yêu cầu phải quan tâm nhiều hơn nữa đến việc công bố Lời Thiên Chúa.204 Như mọi người đều biết, trong khi bài Tin Mừng được linh mục hay phó tế công bố, theo truyền thống La-tinh, bài đọc một và bài đọc hai được một độc viên đã được chỉ định, nam hay nữ, công bố. Ở đây, tôi muốn dựa vào ý kiến của các Nghị Phụ; cả trong trường hợp này nữa, các ngài đã nhấn mạnh rằng cần phải quan tâm đào luyện cách thích đáng205 việc thực thi munus của độc viên trong cử hành phụng vụ206 và, một cách đặc biệt thừa tác vụ đọc sách, theo nghi lễ La-tinh, là một thừa tác vụ dành cho giáo dân. Các độc viên được giao việc phục vụ này, ngay cả khi không được cắt đặt làm thừa tác viên đọc sách, phải thực sự là những người thích hợp và được chuẩn bị chu đáo. Phải chuẩn bị cho họ về Kinh Thánh và phụng vụ cũng như về khía cạnh kỹ thuật: “Việc huấn luyện về Kinh Thánh phải cho phép độc viên định vị được các bài đọc trong bối cảnh đặc thù của chúng và nắm bắt được, dựa vào ánh sáng của đức tin, trọng tâm của sứ điệp được mạc khải. Việc huấn luyện về phụng vụ phải cung cấp cho độc viên khả năng hiểu được ý nghĩa và cấu trúc của phần phụng vụ Lời Chúa và nhận ra được những liên hệ giữa phụng vụ Lời Chúa và phụng vụ Thánh Thể. Việc chuẩn bị kỹ thuật phải làm cho đọc viên ngày càng có khả năng hơn trong nghệ thuật đọc trước công chúng, hoặc trực tiếp, hoặc dùng những phương tiện khuếch âm hiện đại”.207


tải về 1.18 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương