Về việc giải quyết (lần 2) đơn khiếu nại của ông Lê Đức Thịnh, thường trú tại thôn Xuân Tổng, xã Văn Hoá, huyện Tuyên Hoá. Chủ TỊch uỷ ban nhân dân tỉnh quảng bìNH



tải về 41.98 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích41.98 Kb.
#11598
UỶ BAN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TỈNH QUẢNG BÌNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Số: 1808 /QĐ-UBND Quảng Bình, ngày 29 tháng 7 năm 2013


QUYẾT ĐỊNH

Về việc giải quyết (lần 2) đơn khiếu nại của ông Lê Đức Thịnh,

thường trú tại thôn Xuân Tổng, xã Văn Hoá, huyện Tuyên Hoá.



CHỦ TỊCH UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003;

Căn cứ Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành;

Căn cứ Luật Khiếu nại năm 2011;

Căn cứ Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều của Luật Khiếu nại;

Căn cứ Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp;

Xét đơn khiếu nại của ông Lê Đức Thịnh đối với Quyết định số 91/QĐ-CT ngày 20/12/2012 của Chủ tịch UBND huyện Tuyên Hóa, hồ sơ giải quyết của UBND huyện Tuyên Hoá và Báo cáo ngày 28 tháng 6 năm 2013 của Đoàn thanh tra liên ngành về kết quả thẩm tra, xác minh nội dung đơn khiếu nại của ông Lê Đức Thịnh, thường trú tại thôn Xuân Tổng, xã Văn Hoá, huyện Tuyên Hoá, với những nội dung và tình tiết sau đây:



I. Nội dung khiếu nại và kết quả giải quyết lần đầu:

1. Nội dung khiếu nại

Ông Lê Đức Thịnh khiếu nại Quyết định số 91/QĐ-CT ngày 20/12/2012 của Chủ tịch UBND huyện Tuyên Hóa về việc giải quyết khiếu nại của ông với 2 nội dung cụ thể sau:

- Diện tích đất tại khu vực Hung Cày thực tế sử dụng là 40 ha chứ không phải là 20 ha như trong Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND huyện. Diện tích này do 10 hộ sử dụng, trong đó có hộ ông Lê Đức Thịnh nhưng UBND huyện Tuyên Hoá không công nhận quyền sử dụng đất cho các hộ là không đúng.

- Toàn bộ diện tích tại khu khu vực Hung Cày của 10 hộ dân đang sử dụng nhưng UBND huyện cho rằng là đất do UBND xã Văn Hóa quản lý, vì vậy khi thu hồi không bồi thường cho ông Lê Đức Thịnh và các hộ khác là không đúng.



2. Kết quả giải quyết lần đầu

Chủ tịch UBND huyện Tuyên Hóa đã thụ lý giải quyết đơn khiếu nại của ông Lê Đức Thịnh về bồi thường giải phóng mặt bằng xây dựng nhà máy sản xuất Clinker, cảng xuất nhập nguyên liệu và khu chứa đá vôi của Công ty TNHH vật liệu xây dựng Việt Nam tại xã Văn Hóa tại Quyết định số 91/QĐ-CT ngày 20/12/2012 với nội dung:

Không công nhận quyền sử dụng đất của 10 hộ đấu thầu, thuê đất tại vùng đất Hung Cày với diện tích 20 ha theo biên bản giao đất, sử dụng đất nông nghiệp giữa UBND xã Văn Hóa với Hội làm vườn trong đó có hộ ông Lê Đức Thịnh.

Không chấp nhận giá trị phê duyệt bồi thường về đất cho 5 hộ đã quy chủ theo hiện trạng lần 1.

Công nhận quy chủ về đất cho UBND xã Văn Hóa quản lý đối với diện tích 441.525 m2 tại vùng đất Hung Cày và quy chủ về tài sản trên đất cho 5 hộ trực tiếp sản xuất bao gồm hộ ông Lê Đức Thắng, ông Lê Anh Phòng, ông Lê Đức Hà, ông Trần Đức Dũng và ông Nguyễn Bá Khang.

Ông Lê Đức Thịnh không đồng ý với Quyết định giải quyết và tiếp tục khiếu nại lên Chủ tịch UBND tỉnh.


II. Kết quả thẩm tra, xác minh

1. Đối với khiếu nại diện tích đất tại khu vực Hung Cày thực tế sử dụng là 40 ha chứ không phải là 20 ha như trong quyết định giải quyết khiếu nại của UBND huyện. Diện tích này do 10 hộ sử dụng trong đó có hộ ông Lê Đức Thịnh nhưng UBND huyện Tuyên Hoá không công nhận quyền sử dụng đất cho các hộ là không đúng.

- Ông Lê Đức Thịnh trình bày: Khu vực đất Hung Cày trước đây là đất hoang, canh tác không có hiệu quả nên UBND xã Văn Hóa đã giao cho Hội làm vườn sử dụng trồng cây lâu năm theo theo Biên bản giao đất nông nghiệp ngày 11/7/1998 được ký giữa UBND xã và Hội làm vườn do ông Lê Đức Thịnh và ông Nguyễn Bá Khang làm đại diện. Hội làm vườn là một tổ chức tự phát do 10 người cùng nhau hợp tác sản xuất không có quyết định thành lập của xã cũng như cấp có thẩm quyền, Hội do ông Lê Đức Thịnh làm tổ trưởng, ông Nguyễn Bá Khang làm tổ phó, Hội sản xuất chung từ năm 1998, đến năm 2004 có 05 người trong đó có ông Lê Đức Thịnh do tuổi cao, sức yếu không thể tiếp tục sản xuất được nữa nên đã bỏ về và để hoang đất đến năm 2008. Cuối năm 2008 khi có chủ trương xây dựng nhà máy xi măng Văn Hoá thì có 05 người gồm ông Lê Anh Phòng, Nguyễn Bá Khang, Trần Đức Dũng, Lê Đức Hà và ông Lê Đức Thắng lên trồng cây và tiếp tục sử dụng.

Ngoài Biên bản giao đất nông nghiệp để sử dụng trồng cây lâu năm ngày 11/7/1998, ông Lê Đức Thịnh không có giấy tờ nào khác của cơ quan có thẩm quyền để chứng minh về quyền sử dụng đất tại khu vực khiếu nại, đồng thời không cung cấp được hồ sơ chứng minh diện tích đất tại Hung Cày là 40 ha.

Ông Lê Đức Thịnh có cung cấp cho Đoàn Thanh tra 08 loại tài liệu để chứng minh cho nội dung khiếu nại. Qua đối chiếu với hồ sơ ông Lê Đức Thịnh đã cung cấp cho UBND huyện Tuyên Hóa thì các loại tài liệu đó không có nội dung gì mới.

- Theo hồ sơ và báo cáo của UBND xã Văn Hoá: Vùng đất Hung Cày trước đây được gọi là vùng đất cứu bần, là vùng đất sản xuất nông nghiệp, trồng hoa màu do Hợp tác xã quản lý để giao cho các xã viên trồng sắn, trồng khoai. Đến năm 1994, khi thực hiện Nghị định 64/CP của Chính phủ về giao đất nông nghiệp cho các hộ gia đình, cá nhân, vùng đất này do xa khu dân cư nên UBND xã không đưa vào phương án giao đất cho các hộ dân mà để cho hộ dân nào có nhu cầu sản xuất thì thuê đất. Năm 1998 ông Lê Đức Thịnh đại diện cho Hội làm vườn gồm 10 người đề xuất nhận đất để lập trang trại, trồng cây lâu năm và phát triển chăn nuôi tại vùng Hung Cày. Chính quyền địa phương thống nhất và ngày 11/7/1998 đã lập biên bản giao đất tại vùng Hung Cày cho Hội làm vườn với thời hạn 50 năm. Khu vực giao đất được mô tả trên biên bản không thực hiện đo vẽ và giao đất thực địa. Theo nội dung Biên bản thì Hội làm vườn được giao diện tích là 20 ha và khi Nhà nước thu hồi đất Hội làm vườn chỉ được đền bù thoả đáng theo giá trị sản phẩm thực tế đã được trồng.

Như vậy, việc UBND xã Văn Hoá giao đất tại khu vực Hung Cày cho Hội làm vườn gồm 10 người trong đó có ông Lê Đức Thịnh là có thật. Tuy nhiên, ông Lê Đức Thịnh chỉ sử dụng đất từ năm 1998 đến năm 2004. Tại thời điểm thu hồi đất năm 2009 ông Lê Đức Thịnh không phải là người đang sử dụng đất nên không thuộc đối tượng bị thu hồi đất. Mặt khác, Biên bản giao đất ngày 11/7/1998 của UBND xã Văn Hoá cho Hội làm vườn không phải là giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003. Việc UBND xã Văn Hoá giao đất cho Hội làm vườn là trái với quy định tại khoản 2 Điều 24 Luật Đất đai năm 1993. Ông Lê Đức Thịnh là cán bộ hưu trí không thuộc đối tượng được giao đất sản xuất nông nghiệp theo quy định tại Điều 6, Điều 7 của Bản Quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp (Ban hành kèm theo Nghị định số 64-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ) và khoản 2 Điều 70 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003.

Đối với khiếu nại về diện tích đất tại khu vực Hung Cày không liên quan đến quyền lợi của ông Lê Đức Thịnh và không có cơ sở nên không được xem xét giải quyết.

Từ kết quả kiểm tra, xác minh và các căn cứ pháp luật nêu trên cho thấy việc UBND huyện Tuyên Hoá không công nhận quyền sử dụng đất của ông Lê Đức Thịnh là đúng. Nội dung này ông Lê Đức Thịnh khiếu nại sai.



2. Đối với nội dung khiếu nại toàn bộ diện tích tại khu khu vực Hung Cày của 10 hộ dân đang sử dụng nhưng UBND huyện cho rằng là đất do UBND xã Văn Hóa quản lý, vì vậy khi thu hồi không bồi thường cho ông Lê Đức Thịnh và các hộ khác là không đúng

Qua thẩm tra, xác minh cho thấy: Trên cơ sở Quyết định 2545/QĐ-UBND ngày 14/9/2009 của UBND tỉnh về việc thu hồi đất để GPMB xây dựng nhà máy sản xuất xi măng tại xã Văn Hóa, UBND huyện đã ra Quyết định thu hồi đất đối với 05 người gồm ông Lê Anh Phòng, ông Lê Văn Thắng, ông Nguyễn Bá Khang, ông Trần Đức Dũng, ông Lê Đức Hà (không có hộ ông Thịnh). Tuy nhiên, sau khi có Quyết định phê duyệt giá trị bồi thường để chi trả cho các hộ dân thì Đảng ủy xã, Thường trực HĐND xã không thống nhất việc bồi thường cho 05 người nên Hội đồng bồi thường giải phóng mặt bằng Dự án xây dựng Nhà Máy xi măng Văn Hoá đã không chi trả tiền bồi thường cho 05 người nêu trên. UBND xã Văn Hoá đã đề nghị UBND huyện, các ngành cấp tỉnh xem xét lại việc quy chủ về đất và tài sản trên đất. Ngày 29/7/2009, Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND huyện Tuyên Hoá, UBND xã Văn Hoá và các ngành có liên quan đã họp, thống nhất kết luận: “Khu vực đất Hung Cày về bồi thường tài sản cho các hộ, còn đất thì thuộc UBND xã quản lý…”.

Trên cơ sở đó, ngày 21/12/2009 UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 3663/QĐ-UBND về việc điều chỉnh Quyết định số 2545/QĐ-UBND ngày 14/9/2009 của UBND tỉnh về việc thu hồi đất để GPMB xây dựng Nhà máy xi măng Văn Hoá, theo đó đất trước đây đã thu hồi đối với 05 người tại khu vực Hung Cày nay được quy chủ thành đất do UBND xã Văn Hoá quản lý.

Tại thời điểm thu hồi đất, trong số 10 người thuộc hội làm vườn, có 05 người đang sử dụng đất là: ông Lê Anh Phòng, ông Nguyễn Bá Khang, ông Trần Đức Dũng, ông Lê Đức Hà và ông Lê Đức Thắng. 05 người này chỉ được bồi thường về tài sản trên đất, không được bồi thường về đất mà chỉ được hỗ trợ, 05 người đã chấp hành tốt việc thu hồi đất, không có khiếu nại; 04 người khác trong hội làm vườn gồm: ông Lê Mạnh Hùng, ông Bùi Văn Minh, ông Trần Văn Hùng và ông Trần Đại Phong cũng không có khiếu nại về việc bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng tại khu vực Hung Cày. Như vậy, việc ông Lê Đức Thịnh yêu cầu phải bồi thường về đất cho 09 hộ nói trên là không đúng với quy định tại khoản 2 Điều 11 Luật Khiếu nại năm 2011 vì không liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Thịnh.

Đối với ông Lê Đức Thịnh: Do ông Thịnh không phải là người đang sử dụng đất (đã bỏ hoang không sản xuất từ năm 2004 đến khi thu hồi đất năm 2009), không có giấy tờ theo quy định của pháp luật để chứng minh quyền sử dụng đất, vì vậy, ông Lê Đức Thịnh yêu cầu được bồi thường trên diện tích đất trước đây đã có sử dụng là không có cơ sở. Mặt khác, để ghi nhận công khai hoang phục hoá trước đây ông Thịnh đã có sử dụng, ngày 20/02/2013 Công ty TNHH Vật liệu xây dựng Việt Nam đã hỗ trợ cho ông Lê Đức Thịnh số tiền 98.000.000 đồng (chín mươi tám triệu đồng), ông Lê Đức Thịnh đã nhận tiền và cam kết từ nay về sau không khiếu kiện gì liên quan đến việc bồi thường, đền bù giải phóng mặt bằng về đất tại Hung Cày, xã Văn Hoá. Tuy nhiên, sau khi nhận được đủ tiền hỗ trợ ông Lê Đức Thịnh vẫn tiếp tục khiếu nại, đã bội ước cam kết của mình.

Căn cứ theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ thì người đang sử dụng đất bị thu hồi đất mới được bồi thường, hỗ trợ. Tại thời điểm thu hồi đất ông Lê Đức Thịnh không sử dụng đất, không có tên trong quyết định thu hồi đất. Do vậy, không được bồi thường và hỗ trợ về đất là đúng quy định của pháp luật.

Nội dung này ông Lê Đức Thịnh khiếu nại sai.

III. Kết luận

- Ông Lê Đức Thịnh không có giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đối với diện tích đất tại khu vực đang khiếu nại; đất tại khu vực Hung Cày ông Lê Đức Thịnh đã bỏ hoang không sản xuất từ năm 2004 đến thời điểm thu hồi đất năm 2009. Vì vậy, việc ông Lê Đức Thịnh yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất của ông tại khu vực Hung Cày theo Biên bản giao đất ngày 11/7/1998 của UBND xã Văn Hoá là không có cơ sở. Nội dung này ông Lê Đức Thịnh khiếu nại sai.

- Ông Lê Đức Thịnh không phải là người đang sử dụng đất, không thuộc đối tượng bị thu hồi đất. Biên bản giao đất ngày 11/7/1998 không phải là giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003. Do vậy, UBND huyện Tuyên Hoá không công nhận nội dung ông Lê Đức Thịnh yêu cầu bồi thường, hỗ trợ về đất là đúng. Công ty TNHH Vật liệu xây dựng Việt Nam đã hỗ trợ cho ông Lê Đức Thịnh số tiền là 98.000.000 đồng công khai hoang phục hoá là hợp tình và đảm bảo lợi ích cho ông Lê Đức Thịnh. Như vậy, nội dung ông Lê Đức Thịnh yêu cầu được bồi thường về đất tại khu vực Hung Cày là khiếu nại sai.

- Qúa trình giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND huyện Tuyên Hóa đã đảm bảo trình tự, thủ tục theo quy định. Nội dung giải quyết khiếu nại của UBND huyện Tuyên Hoá là đúng.

Từ kết quả thẩm tra, xác minh và các căn cứ pháp luật đã nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Không công nhận các nội dung khiếu nại của ông Lê Đức Thịnh, thường trú tại thôn Xuân Tổng, xã Văn Hoá, huyện Tuyên Hoá đối với Quyết định số 91/QĐ-CT ngày 20/12/2012 của Chủ tịch UBND huyện Tuyên Hóa.

Giữ nguyên các nội dung tại Quyết định số 91/QĐ-CT ngày 20/12/2012 của Chủ tịch UBND huyện Tuyên Hóa về giải quyết đơn khiếu nại của ông Lê Đức Thịnh, thường trú tại thôn Xuân Tổng, xã Văn Hoá, huyện Tuyên Hoá.



Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký. Ông Lê Đức Thịnh có quyền khởi kiện Quyết định này tại Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật.

Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, Chánh Thanh tra tỉnh, Chủ tịch UBND huyện Tuyên Hóa, Chủ tịch UBND xã Văn Hóa, các tổ chức và cá nhân có liên quan và ông Lê Đức Thịnh chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.


Nơi nhận:

- Như Điều 3;

- Thường trực Tỉnh ủy;

- Thường trực HĐND tỉnh;

- Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh;

- Chủ tịch, các PCT UBND tỉnh;

- Ban Nội chính Tỉnh ủy;

- Sở Tư pháp;

- LĐ VPUBND tỉnh;

- Website (để đăng tải);



- Lưu VT, TCD, NC.

KT. CHỦ TỊCH

PHÓ CHỦ TỊCH
Đã ký


Nguyễn Xuân Quang







Каталог: 3cms -> scripts -> fckeditor -> web -> upload -> File -> Vanbanmoi -> 2013 -> Tiepcongdan
File -> Đơn xin cấp giấy phép dạy thêm
File -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam tỉnh quảng bình độc lập Tự do Hạnh phúc
File -> QuyếT ĐỊnh phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội huyện Quảng Trạch đến năm 2020
Tiepcongdan -> QuyếT ĐỊnh về việc giải quyết khiếu nại về tranh chấp đất đai giữa
File -> QuyếT ĐỊnh về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Quảng Bình
File -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
File -> UỶ ban nhân dân tỉnh cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
File -> Ủy ban nhân dân tỉnh quảng bình số: 20/2010/QĐ-ubnd cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
File -> Mẫu 1/TT: Trang bìa (Ban hành tại Thông tư 22/2009/tt-byt). HỒ SƠ ĐĂng ký thuốC

tải về 41.98 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương