University of social sciences & humanities hochiminh city (hcmc ussh) cao tu thanh, the scholar of chinese cultural history and vietnamese sino-nom



tải về 222.75 Kb.
trang2/4
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích222.75 Kb.
#29749
1   2   3   4

Hướng nghiên cứu chính:

Lịch sử văn hóa Việt Nam, đặc biệt trên địa bàn phía nam vĩ tuyến 17 và lịch sử văn hoá Trung Quốc.



Báo tp chí đã và đang cng tác:

Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, Tạp chí Văn học, Tạp chí Hán Nôm, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Xưa và Nay, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Tạp chí Tia sáng, các báo như Sài Gòn giải phóng, Tuổi trẻ, Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn tiếp thị, Công thương (hiện là Doanh nhân Sài Gòn), Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, Đại đoàn kết...

Những thành tựu về xuất bản:

Đã xuất bản khoảng 40 quyển sách dịch từ sách Trung Quốc, trong đó ngoài một số tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, Lương Vũ Sinh, Cổ Long, tiểu thuyết thiếu nhi như Gi Lý Gi Mai của Tần Văn Quân, sách kinh tế như Du lch hc, sách y học như T quý tiến b bách thut ... có 18 quyển nghiên cứu lịch sử xã hội thuộc Tủ sách Trung Quốc cổ đại sinh hoạt tùng thư của Thương vụ ấn thư quán Quốc tế hữu hạn công ty và Tủ sách Trung Quốc xã hội dân tục sử tùng thư, Thượng Hải Văn nghệ xuất bản xã như Trung Quc c đi đích gia giáo, Trung Quc c đi đích võ thut d khí công, Trung Quc c đi đích n sĩ, Lưu manh s, K n s, Du hý s, Tin trang s, Ưu linh s, Lưu dân s.... Về văn học cổ Trung Quốc có dịch Quan trưng hin hình ký của Lý Bảo Gia, Liêu Trai chí d của Bồ Tùng Linh (trọn bộ), về lịch sử tư tưởng Trung Quốc có dịch Tiên Tn danh hc s Trung Quc trung c tư tưng s trưng biên của Hồ Thích, về lịch sử Trung Quốc đang dịch bộ Tế thuyết lch s Trung Quc (9 quyển) của nhóm Lê Đông Phương, đã xuất bản 4 quyển...



Nghiên cứu dịch thuật văn hoá văn học Việt Nam

  1. Nguyn Đình Chiu vi văn hóa Vit Nam/ Cao Tự Thanh, Huỳnh Ngọc Trảng.- Long An: Sở văn hoá và thông tin Long An, 1983.- 95tr.; 19cm.

  2. Tác phm Nguyn Thông/ Cao Tự Thanh, Đoàn Lê Giang trích dịch và giới thiệu.- Long An: Sở văn hoá và thông tin Long An, 1984.- 326tr. : chân dung; 19cm.

  3. Sưu tp v Nguyn Thái Bình/ Huỳnh Ngọc Trảng, Cao Tự Thanh.- In lần thứ hai.- Long An: Sở Văn hóa thông tin Long An, 1984.- 289tr.: ảnh; 21cm.

  4. Nguyn Hu Huân nhà yêu nưc kiên cưng, nhà thơ bt khut/ Phạm Thiều, Cao Tự Thanh, Lê Minh Đức.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1986.- 179tr; 19cm

  5. Bia ch Hán trong hi quán ngưi Hoa ti thành ph H Chí Minh/ Li Jana, Nguyễn Cẩm Thúy chủ biên, Cao Tự Thanh, Võ Văn Sổ, Võ Thị Tâm.- H.: Khoa học xã hội, 1999.- 529tr.: Sơ đồ tranh ảnh; 24cm.

  6. Nho giáo Gia Đnh/ Cao Tự Thanh.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1996.- 254tr.; 19cm

  7. Có thể kể thêm: Cn Đưc Đt và Ngưi (chủ biên, 1988), Quc triu Hương khoa lc (hiệu đính và giới thiệu, 1993), Đi Nam Lit truyn Tin biên (dịch và giới thiệu, 1995), Thơ Trn Thin Chánh (1995), Nghiên bút mưi năm (1999), Giáo sư Phm Thiu (2004) Dâu b mưi năm (2004), Vit Nam bách gia thi (2005), Mt trăm câu hi đáp v lch s Gia Đnh trưc 1802 (2007)…

Với từng công trình, ông đều có những đóng góp tích cực về mặt khoa học, và để lại những dấu ấn đặc biệt đối với độc giả như công trình Nho giáo Gia ĐnhVit Nam bách gia thi…

Về văn hoá văn học Trung Quốc

  1. Gia giáo Trung Quc c/ Diêm ái Dân; Cao tự Thanh dịch.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ, 2001.- 199tr.; 21cm.

  2. n sĩ Trung Hoa/ Hàn Triệu Kỳ ; Cao Tự Thanh dịch.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ, 2001.- 183tr.; 21cm.

  3. Lch s ăn mày/ Khúc Ngạn Bân ; Cao Tự Thanh dịch.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ, 2001.- 335tr.; 21cm.

  4. Lch s tuyn chn ngưi đp/ Lưu Cự Tài; Cao Tự Thanh dịch.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ, 2001.- 438tr.; 21cm.

  5. Lch s lưu manh/ Lục Đức Dương ; Cao Tự Thanh dịch.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ, 2001.- 319tr.; 19cm.

  6. Lch s k n/ Từ Quân, Dương Hải ; Cao Tự Thanh dịch.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ, 2001.- 335tr.; 21cm.

  7. Lch s tin trang/ Trần Minh Quang; Cao Tự Thanh dịch.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ, 2001.- 447tr.; 21cm.

  8. Lch s c bc/ Qua Xuân Nguyên; Cao Tự Thanh dịch.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ, 2001.- 303tr.; 21cm.

  9. Anh hùng x điêu/ Kim Dung; Cao Tự Thanh dịch.- H.: Văn học, 2001.- 293tr.; 19cm

  10. Lc Đnh Ký/ Kim Dung; Cao Tự Thanh dịch.- H.: Văn học, 2002.- 315 tr.; 19cm.

  11. Gii mã tiu thuyết Kim Dung/ Vương Hải Hồng, Trương Hiểu Yến; Cao Tự Thanh dịch.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ, 2002.- 302tr.; 19cm.

  12. Đi Đường du hip ký: Tiểu thuyết võ hiệp/ Lương Vũ Sinh; Cao Tự Thanh dịch.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 2003.- 360tr; 19cm

  13. Lch s nô tỳ/ Chử Cống Sinh; Cao Tự Thanh dịch.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2004.- 324tr; 19cm

  14. Lch s con hát/ Đàm Phàm; Cao Tự Thanh dịch.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2004.- 324tr; 19cm

  15. Lch s logic hc thi Tiên Tn/ Hồ Thích, Cao Tự Thanh dịch.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2004.- 268tr; 19cm

  16. Tăng nhân Trung Hoa/ Lý Phú Hoa; Cao Tự Thanh dịch.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2004.- 216tr; 19cm

  17. Võ thut và khí công Trung Quc thi c/ Nhiệm Hải; Cao Tự Thanh dịch.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, 2004.- 196tr; 19cm

  18. Liêu trai chí d/ Bồ Tùng Linh, Cao Cự Thanh dịch.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Văn hóa Sài Gòn, 2005.- 622tr; 24cm

  19. T bt ng/Viên Mai; Cao Tự Thanh dịch.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Văn hóa Sài Gòn, 2009.- 540tr; 16x24cm

Đến với công tác nghiên cứu Hán Nôm

Năm 1971, ông tốt nghiệp phổ thông, năm sau, 1972, thi đỗ vào khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, học ngành Hán Nôm khóa đầu tiên bậc đại học hệ chính quy của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Lớp Hán Nôm mà ông theo học chỉ có 13 người, trong thời gian đất nước còn chiến tranh, có khi được bố trí học ở ngôi đình làng thôn Sát Thượng huyện Yên Phong. Đến tháng 6. 1975 ông xin thôi học về Nam, cuối 1976 ra Hà Nội học tiếp, đến cuối 1977 ông mới tốt nghiệp.

Một người bạn ông sau này kể lại cái không khí của những buổi học Hán Nôm trong thời gian tạm chiến ở Hà Nội mà ông theo học. Lớp học Hán Nôm của ông phải học trong một ngôi đình thôn Sát Thượng, huyện Yên Phong dưới ánh sáng lờ mờ, một cái bảng đen, vài chiếc chiếu và những đống rơm làm ghế để ngồi, mà thầy trò vẫn miệt mài dạy học. Thầy giáo là những nhà Hán học uyên bác như các cụ Phan Võ, Cao Xuân Huy, Nguyễn Đình Thảng… đều nhiệt tâm truyền thụ kiến thức, sở học cho 13 học trò của mình. Trong cái không gian eo hẹp, thiếu thốn điều kiện vật chất tối thiểu của một lớp học hiện đại thông thường, họ vẫn vượt lên để trở thành những nhà nghiên cứu, những người thầy Hán Nôm bằng tất cả sự đam mê và ý chí. Trong số đó có ông, người đặc biệt nhất trong cái lớp học Hán Nôm, giờ đây là nhà nghiên cứu Hán Nôm Cao Tự Thanh rất có uy tín trong giới nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam.

Sau khi tốt nghiệp Đại học, ông trở về Nam làm việc. Từ 1978 làm việc ở Phân ban Hán Nôm Thư viện Khoa học xã hội thuộc Viện Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, qua 1979 được điều về Tổ Nghiên cứu Văn học Cổ cận đại Ban Văn học thuộc Viện, đến 1987 chuyển về làm việc ở Sở Văn hóa và Thông tin tỉnh Long An, làm Trợ lý Khoa học xã hội cho Ban Giám đốc Sở. Đến năm 1988 được bổ nhiệm làm Quyền Giám đốc Bảo tàng tỉnh Long An, nhưng đến tháng 3. 1990, xin nghỉ việc nhà nước. Từ đó, ông bắt đầu đi vào con đường nghiên cứu Hán Nôm và dịch thuật độc lập để mưu sinh. Sống bằng nghề viết, bản thân ông phải tự học hỏi, tự mài mò nghiên cứu. Có khi ông thích gì viết nấy không theo yêu cầu của ai, nhưng cũng có khi ông làm vì yêu cầu của những đơn vị hoạt động văn hoá. Số lượng bài viết và công trình nghiên cứu, dịch thuật của ông cứ thế tăng dần, tăng dần… Tôi được xem danh mục những bài viết của ông, giật mình vì con số lên đến hơn 500 bài, còn số sách dịch và công trình nghiên cứu của ông cũng hơn 100 quyển. Ông đến với công tác nghiên cứu dịch thuật Hán Nôm một cách tình cờ nhưng lại gắn bó với nó như một nghiệp dĩ. Bỏ làm việc nhà nước khi ông đương chức quyền Giám đốc Bảo tàng tỉnh Long An có khi là định mệnh để ông đến với công việc nghiên cứu và dịch thuật Hán Nôm.



Và những công trình nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam

Sau khi tốt nghiệp ngành Hán Nôm khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội với luận văn tìm hiểu về đề tài Tao đàn Chiêu Anh các Hà Tiên, liên quan tới dòng di dân người Hoa đổ xuống Đông Nam Á thế kỷ XVII, ông bắt đầu đi sâu tìm hiểu lịch sử văn hoá Việt Nam trên địa bàn phía nam Việt Nam, với các đề tài có liên quan đến hoạt động giao lưu kinh tế - văn hoá giữa Hoa Nam và Việt Nam thế kỷ XVII-XX như văn học Hán Nôm ở Nam Bộ, văn học Đàng Trong, Nho giáo ở Gia Định…Một loạt các công trình nghiên cứu về văn hoá Việt Nam được công bố như đã thấy ở danh mục trên.



Dịch thuật cũng là một nghề

Bạn sẽ không khỏi kinh ngạc vì sức làm việc của ông khi đến tham quan ngôi nhà nơi ông ở và làm việc. Căn phòng ông ở hiện nay khá rộng, sát tường là mấy giá sách xếp đầy các loại sách Trung văn mà toàn loại quý hiếm. Ấy là chưa nói đến số sách phải chịu cảnh đóng thùng vì thiếu giá. Trên chiếc bàn đôi, hai chiếc máy tính chạy liên tục đến tháo cả vỏ như khỏi bức vì nóng.

Nhiều độc giả biết đến ông không phải bắt đầu từ những công trình nghiên cứu (vì loại này kén độc giả, chỉ những người trong giới nghiên cứu chuyên ngành), mà bắt đầu từ những dịch phẩm Hán văn, đặc biệt là loạt tác phẩm tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, Lương Vũ Sinh, Cổ Long, Vương Độ Lư… được ông chuyển dịch như Anh hùng x điêu, Lc đnh ký, Huyết anh vũ, Ngo h tàng long…. Nhưng với ông, dịch thuật chỉ là nghề tay trái để kiếm cơm của ông. Đó là cách ông bình thường hoá công tác dịch thuật rất công phu nhưng thường ngày của mình.

Dịch giả của nhiều bộ tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng và hàng loạt sách nghiên cứu lịch sử văn hoá Trung Quốc

Khởi đầu từ khi trình luận văn tốt nghiệp đại học “Tìm hiu Tao đàn Chiêu Anh Các Hà Tiên”, có liên quan tới dòng di dân người Hoa đổ xuống Đông Nam Á thế kỷ XVII. Sau đó đi vào nghiên cứu văn học Hán Nôm ở Nam Bộ, văn học Đàng Trong, Nho giáo ở Gia Định..., đều là các đề tài có liên quan tới hoạt động giao lưu kinh tế - văn hóa giữa Hoa Nam với Việt Nam thế kỷ XVII – XX nên ông phải tìm hiểu về Trung Quốc. Và đấy cũng là bước đường ông đến với việc nghiên cứu Trung Quốc. Ngay từ đầu, ông đã có hướng tiếp cận khác với những người nghiên cứu Trung Quốc khác: tiếp cận, nghiên cứu Trung Quốc ở phương diện lịch sử, văn hoá xã hội chứ không thuần về văn học.

Theo ông, nghiên cứu Trung Quốc nên bắt đầu từ việc nghiên cứu lịch sử chính trị, văn hoá xã hội. Vì vậy, trước đó, ông cho ra đời những dịch phẩm lịch sử tư tưởng Trung Quốc như Tiên Tn danh hc s Trung Quc trung c tư tưng s trưng biên của Hồ Thích; bộ sách Tế thuyết lch s Trung Quc (9 quyển) của nhóm Lê Đông Phương, cũng được ông dịch và đã xuất bản được 4 quyển... và một loạt các sách nghiên cứu lịch sử văn hoá xã hội Trung Quốc như Trung Quc c đi đích gia giáo, Trung Quc c đi đích võ thut d khí công, Trung Quc c đi đích n sĩ, Lưu manh s, K n s, Du hý s, Tin trang s, Ưu linh s, Lưu dân s.... (thuộc Tủ sách Trung Quốc cổ đại sinh hoạt tùng thư của Thương vụ ấn thư quán Quốc tế hữu hạn công ty và Trung Quốc xã hội dân tục sử tùng thư, Thượng Hải Văn nghệ xuất bản xã) đã mang lại những hiệu ứng xã hội rất tốt trong nghiên cứu văn hoá sử Trung Quốc. Ông cho rằng, nhờ dịch loạt sách đó, ông có nhiều phát hiện thú vị để nghiên cứu về lịch sử văn hoá xã hội Việt Nam.

Nhưng không vì thế mà ông bỏ qua mảng đề tài văn học Trung Quốc. Ông là dịch giả của Quan trưng hin hình ký của Lý Bảo Gia, tuyển dịch biên soạn Giai thoi thơ Đường, dịch trọn bộ Liêu Trai chí d của Bồ Tùng Linh với sự khảo cứu và dịch thuật công phu nghiêm túc.



Được biết ông là người đầu tiên khảo cứu văn bản, dịch trọn bộ Liêu Trai chí dị, xin ông cho biết những khó khăn trong công việc dịch thuật tác phẩm này?

“Trước hết, phải nhắc lại vấn đề văn bản. Ngoài chi tiết 431 hay 432 truyện như các bản khác đã nói, dường như chưa dịch giả Việt Nam nào phiên dịch Liêu Trai chí d thp di, càng chưa có nhà nghiên cứu nào đặt vấn đề tìm hiểu tác phẩm về mặt văn bản học. Tình hình này thể hiện khá tập trung qua bản dịch Liêu Trai chí d (tập 1, Nxb. Văn học, 1989), một bản dịch bộc lộ nhiều điểm yếu trí mạng của giới nghiên cứu và dịch thuật Việt Nam trong việc tìm hiểu văn bản Liêu Trai chí d lúc bấy giờ.

Hay bản dịch nói trên đã lược bỏ nhiều đoạn “Dị Sử thị nói” trong nguyên bản, trong khi như đã trình bày trên kia, những đoạn “Dị Sử thị nói” ấy chính thể hiện mục đích sáng tác của Bồ Tùng Linh và vì thế cũng bộc lộ ý nghĩa đích thực của tác phẩm. Cần nói thêm rằng lối dịch tùy tiện bớt xén nguyên văn này đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong hoạt động dịch thuật hiện nay, một cung cách góp phần làm cho việc tiếp xúc văn học với thế giới của chúng ta tuy rầm rộ trên bề mặt nhưng chưa đạt được bề sâu văn hóa cần thiết và do đó cũng hàm chứa một nguy cơ tiềm ẩn cho cả hoạt động dịch thuật lẫn sinh hoạt học thuật ở Việt Nam. Cho nên trong bản dịch này chúng tôi giới thiệu toàn văn các truyện trong Liêu Trai chí dLiêu Trai chí d thp di, với mong mỏi được góp phần cung cấp cho người đọc một ý niệm về cái “bản lai chân diện mục” của tác phẩm. Phần Liêu Trai chí d trong bản dịch này chủ yếu theo bản Hương Cảng, có đối chiếu với bản Đài Bắc để điều chỉnh một số chi tiết cho hợp lý. Phần Thp di thì văn bản chúng tôi sử dụng bị thiếu một truyện trong truyện Qu trp t tc (Hai mươi bốn truyện ma), nhưng trong điều kiện tư liệu hiện tại chúng tôi chưa thể bổ sung, đây là một thiếu sót mà chúng tôi muốn cáo lỗi trước với người đọc.

Thứ hai, và quan trọng nhất, là việc phiên dịch Liêu Trai chí d thật rất không dễ dàng. Là một tập hợp các tác phẩm tiểu thuyết – truyện ngắn tự sự, Liêu Trai chí d nói chung ít dùng điển cố song cũng chứa đựng nhiều yếu tố thi pháp văn học Trung Hoa cổ điển như lối dùng chữ súc tích, đặt câu ngắn gọn, hành văn đăng đối, kết cấu chặt chẽ. Trong một số trường hợp, tác giả còn đưa vào tác phẩm những bài văn biền ngẫu khá dài, chẳng hạn bài sớ của nhân vật Long đồ học sĩ họ Bao trong truyện Tc hoàng lương (quyển V), đoạn “Dị Sử thị nói” cuối truyện Đ phù (quyển VI), bài “Tục Diệu âm kinh” chép phụ cuối truyện Mã Gii Ph (quyển X), lời án từ của nhân vật Ngô Nam Đại trong truyện Yên Chi (quyển XIV), hay bài hịch đánh Phong thị (thần gió) trong truyện Hoa thn (quyển XVI)... Xuất phát từ quan niệm những chi tiết hình thức – yếu tố nghệ thuật ấy là một bộ phận hữu cơ góp phần thể hiện nội dung và làm nên giá trị của tác phẩm, chúng tôi đã cố gắng truyền đạt chúng trong bản dịch Liêu Trai chí d này.”



Một quan điểm dịch thuật và nghiên cứu nghiêm túc

Có thể thấy, ông là người nghiêm túc trong cuộc sống và nghiêm túc hơn trong công tác nghiên cứu. Điều đó được thể hiện qua những công trình nghiên cứu đã được công bố của ông. Dường như những công trình ông chạm tay đến đều hiếm khi thấy ai có thể làm hơn được nữa. Từ công tác tư liệu văn bản cho đến công tác khảo cứu, dịch thuật, tất cả đều được ông chăm sóc tỉ mỉ, khó mà tìm ra được những tì vết trong những công trình học thuật của ông. Làm được những điều ấy, hẳn nhiên ông đã xác định cho mình một quan điểm trong công tác nghiên cứu.

Theo ông, khi nghiên cứu một vấn đề nào đó, chúng ta phải tìm hiểu thật cặn kẽ, thấu đáo và giải quyết vấn đề cho rốt ráo tận cùng. Cầu toàn trong công tác nghiên cứu là điều không dễ dàng gì nếu không muốn nói là khó có thể thực hiện được, nhưng từ đó cho thấy tinh thần làm việc có trách nhiệm và nghiêm túc trong khoa học là điều cần có của một người làm công tác nghiên cứu khoa học. Ông còn bảo với tôi rằng, “điều đáng sợ nhất cần phải tránh của người làm công tác nghiên cứu khoa học là dối trá và không có tâm. Nghiên cứu khoa học cũng cần có đạo đức, có tâm”. Nếu không có đạo đức, không có tâm trong học thuật, thì những kết quả và thành tựu nghiên cứu khoa học của kẻ đó chỉ là những thứ dối trá, là một kiểu của sự cướp công.

Ông có phải là người kiêu ngạo?

Ấn tượng và cảm nhận chung của những người quen biết và nghe tiếng nhà nghiên cứu Cao Tự Thanh khi họ được hỏi, đều gặp nhau ở một điểm: ông là nhà nghiên cứu có uy tín và tính khí “rất tự cao”. Vì thế có người đùa rằng, tên của ông là Thanh Tự Cao mới đúng. Nhưng đó chỉ là một sự cảm nhận bề nổi từ con người của ông. Thật ra, khi mọi người tiếp xúc ông, mới nhận thấy rằng ông không những là người nhiệt tâm với khoa học mà còn là người nhiệt tình đối với bạn bè và những bạn trẻ yêu quý ngành Hán Nôm. Ông là người cẩn thận và có tâm trong công tác nghiên cứu, dịch thuật; ghét sự cẩu thả, nhất là sự cẩu thả và vô tâm trong học thuật. Tôi được nghe điều tâm sự ấy từ ông trong những buổi được ngồi trò chuyện với ông: “Hãy khiêm nhường và nằm sát đất, như thế sẽ sống được trong đời”. Lời tâm sự của ông cũng gần giống với lời dặn bảo của thầy tôi.

Khi hỏi đến tên hiệu Cao Tự Thanh của ông, ông bảo Cao là họ, còn Tự Thanh là lấy ý hai câu thơ cuối bài Vnh sơn tuyn (Vịnh suối) của Trừ Quang Hy đời Đường: “Điềm đạm vô nhân kiến, Niên niên trường tự thanh” (Lặng lẽ không ai thấy, Năm dài riêng tự trong). Hai câu thơ ấy, lần đầu ông nghe thầy ông là cụ Nguyễn Đình Thảng đọc lên, thấy thích quá nên ông dùng làm hiệu luôn. Quả thật, bao năm ông vẫn sống thanh trong và lặng lẽ như dòng suối. Một mình nghiên cứu, một mình viết lách và sống. Vậy thì, ông không hề là người tự cao, mà điềm đạm, khiêm tốn đến nỗi người ta tưởng ông tự cao và khinh bạc cả người đời.

Theo ông, tình hình nghiên cứu về Trung Quốc ở Việt Nam và viễn cảnh của nó thế nào?

“Theo tôi, tình hình nghiên cứu về Trung Quốc ở Việt Nam còn tản mạn, rời rạc và không có định hướng học thuật cũng như xã hội rõ ràng. Nói chung học giới Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn để khắc phục những khiếm khuyết nói trên. Thật ra điều này phần nào cũng có lý do lịch sử, vì từ đầu thế kỷ XX thì giới trí thức Việt Nam nói chung bị hút về phương Tây mạnh hơn, còn từ 1954 rồi 1975 thì các nhà nghiên cứu Việt Nam không tiếp xúc được với các tư liệu cần thiết về Trung Quốc một cách có hệ thống cũng như không nắm bắt được tình hình phát triển của ngành Trung Quốc học một cách kịp thời. Tôi nghĩ nếu đẩy mạnh việc nghiên cứu lịch sử chính trị và lịch sử xã hội Trung Quốc, các nhà Trung Quốc học thế giới sẽ dễ tìm được tiếng nói chung về quan điểm và lý thuyết nghiên cứu Trung Quốc hơn.”


Người phỏng vấn: ThS.Lê Quang Trường

TƯ LIỆU PHỎNG VẤN

NHÀ NGHIÊN CỨU HÁN NÔM CAO TỰ THANH

Chúng tôi đến nhà ông trong không khí se lạnh của những ngày cuối năm 2008 nhưng vẫn ấm nồng bởi tấm lòng của chủ nhân. Căn nhà nơi ông trú ngụ nằm ẩn mình trong con hẻm nhỏ ở vùng ngoại ô thành phố, nhưng những công trình nghiên cứu, dịch thuật của ông được nhiều người biết đến với tất cả sự nể phục. Ông là nhà nghiên cứu Hán Nôm và là dịch giả Hán văn có uy tín trong giới nghiên cứu, dịch thuật Việt Nam. Ông là người có cá tính mạnh mẽ, quái dị đến khinh bạc nhưng lại là người sống hết mình vì nghiên cứu khoa học…

Đến với công tác nghiên cứu Hán Nôm

Năm 1971, ông tốt nghiệp phổ thông, năm sau, 1972, thi đỗ vào khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội, học ngành Hán Nôm khóa đầu tiên bậc đại học hệ chính quy của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Lớp Hán Nôm mà ông theo học chỉ có 13 người, trong thời gian đất nước còn chiến tranh, có khi được bố trí học ở ngôi đình làng thôn Sát Thượng huyện Yên Phong. Đến tháng 6. 1975 ông xin thôi học về Nam, cuối 1976 ra Hà Nội học tiếp, đến cuối 1977 ông mới tốt nghiệp.

Một người bạn ông sau này kể lại cái không khí của những buổi học Hán Nôm trong thời gian tạm chiến ở Hà Nội mà ông theo học. Lớp học Hán Nôm của ông phải học trong một ngôi đình thôn Sát Thượng, huyện Yên Phong dưới ánh sáng lờ mờ, một cái bảng đen, vài chiếc chiếu và những đống rơm làm ghế để ngồi, mà thầy trò vẫn miệt mài dạy học. Thầy giáo là những nhà Hán học uyên bác như cụ Phan Võ, cụ Cao Xuân Huy, cụ Nguyễn Đình Thảng… đều nhiệt tâm truyền thụ kiến thức, sở học cho 13 học trò của mình. Trong cái không gian eo hẹp, thiếu thốn điều kiện vật chất tối thiểu của một lớp học hiện đại thông thường, họ vẫn vượt lên để trở thành những nhà nghiên cứu, những người thầy Hán Nôm bằng tất cả sự đam mê và ý chí. Trong số đó có ông, người đặc biệt nhất trong cái lớp học Hán Nôm, giờ đây là nhà nghiên cứu Hán Nôm Cao Tự Thanh rất có uy tín trong giới nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam.

Sau khi tốt nghiệp Đại học, ông trở về Nam làm việc. Từ 1978 làm việc ở Phân ban Hán Nôm Thư viện Khoa học xã hội thuộc Viện Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, qua 1979 được điều về Tổ Nghiên cứu Văn học Cổ cận đại Ban Văn học thuộc Viện, đến 1987 chuyển về làm việc ở Sở Văn hóa và Thông tin tỉnh Long An, làm Trợ lý Khoa học xã hội cho Ban Giám đốc Sở. Đến năm 1988 được bổ nhiệm làm Quyền Giám đốc Bảo tàng tỉnh Long An, nhưng đến tháng 3. 1990, xin nghỉ việc nhà nước. Từ đó, ông bắt đầu đi vào con đường nghiên cứu Hán Nôm và dịch thuật độc lập để mưu sinh. Sống bằng nghề viết, bản thân ông phải tự học hỏi, tự mài mò nghiên cứu. Có khi ông thích gì viết nấy không theo yêu cầu của ai, nhưng cũng có khi ông làm vì yêu cầu của những đơn vị hoạt động văn hoá. Số lượng bài viết và công trình nghiên cứu, dịch thuật của ông cứ thế tăng dần, tăng dần… Tôi được xem danh mục những bài viết của ông, giật mình vì con số lên đến hơn 500 bài, còn số sách dịch và công trình nghiên cứu của ông cũng hơn 100 quyển. Ông đến với công tác nghiên cứu dịch thuật Hán Nôm một cách tình cờ nhưng lại gắn bó với nó như một nghiệp dĩ. Bỏ làm việc nhà nước khi ông đương chức quyền Giám đốc Bảo tàng tỉnh Long An có khi là định mệnh để ông đến với công việc nghiên cứu và dịch thuật Hán Nôm.




tải về 222.75 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương