ISSN 1859 - 4603 -
Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 8, số 2 (2018),81-88
87
时 声 缓 若 疏 风,
时 音 急 如 骤 雨 滂
沱。
Khi dịch làm mới, Nguyễn Du đã mang đặc sắc văn
hóa dân gian Việt Nam biểu đạt lên hình ảnh nhân vật
Thúy Kiều và Kim Trọng, khiến nhân vật trong “Kim
Vân Kiều Truyện” trong mắt độc giả dân chúng Việt
Nam trở nên vừa sinh động vừa gần gũi. Ví dụ khi miêu
tả nỗi sầu tương tư sau cuộc gặp gỡ giữa Kim Trọng và
Thúy Kiều, đã dùng 2 câu thơ (câu 247-248) “
Sầu đong
càng lắc càng đầy, Ba thu dồn lại một ngày dài ghê!”.
Nửa vế câu thơ trên, Nguyễn Du dùng một kiến thức
thường thấy đặc sắc trong văn hóa đời sống nhân dân
Việt Nam, ý là “nếu dùng cái sàng mà sàng nỗi sầu thì
càng sàng nỗi sầu càng như hạt gạo hướng ra bốn bề”,
loại hình tư duy ẩn dụ này làm dân chúng Việt rất dễ
dàng để hiểu, tiếp nhận. Dưới ngòi bút Nguyễn Du,
ngôn ngữ dân tộc Việt Nam khéo léo, mĩ miều, vô cùng
giản dị, thanh khiết, chính xác mà truyền thần, mộc mạc mà
đa mầu đa sắc, đạt đến cảnh giới cao nhất
[15, tr.220-221].
Thực ra về dưới của câu thơ được dịch từ một câu thơ
trong
Kinh Thi của Trung Quốc “một ngày không gặp
như cách ba thu” (Nhất nhật bất kiến như tam thu hề).
Kiểu kết hợp và sắp đặt này được tác giả dùng rất nhiều,
khiến “
Kim Vân Kièu Truyện” với câu chuyện tình ái
thu hút người đọc. Có thể nói sự nho nhã của văn học cổ
điển Trung Hoa đã kết hợp hoàn hảo với sự mộc mạc
giản dị của ngôn ngữ dân gian Việt Nam.
Qua sự giải cấu đối với “
Kim Vân Kiều Truyện”,
Nguyễn Du đã thành công trong việc cấy ghép văn hóa
cổ điển Trung Hoa, đưa vào văn học dân gian Việt Nam,
câu chuyện tình giữa Thúy Kiều và Kim Trọng vì thế
cũng lưu truyền trong dân gian một cách rộng rãi. Trong
dân gian Việt Nam hai chữ “Thúy Kiều” được ví là
người con gái tài sắc vẹn toàn; “Thúc Sinh” thì bị coi là
nhu nhược; ghen như Hoạn Thư; Sở Khanh thì được ví
như kẻ vô lại hám sắc; Tú Bà thì có danh là bà chủ lầu
xanh; “Từ Hải” và “Giác Duyên” và một số nhân vật thì
được thần thoại hóa như một thần nhân, người dân tôn
họ thành Từ Hải Đại Vương và Giác Duyên Tiên Cô thờ
cúng trong chùa. Người Việt không chỉ nhớ rõ nội dung
mà còn có thể đọc được, thậm chí trẻ nhỏ và người mù
chữ cũng biết vài ba câu, những người mẹ trẻ thì lấy nó
làm “câu hát ru”, những cụ già thì thường kể lại những
câu chuyện trong “
Truyện Kiều” cho tụi nhỏ
trong
những đêm đầy sao. Mọi người thường dễ dàng sử dụng
những câu thơ này để biểu đạt lời thương lời nhớ của
mình trong mọi thời điểm mọi hoàn cảnh
[16, tr.288].
Tiểu thuyết thời Minh Thanh và thơ thời Đường, từ
thời Tống, khúc thời Nguyên được cho là bốn viên ngọc
sáng nhất trong kho tàng văn học cổ điển Trung Quốc.
Tiểu thuyết thời Minh - Thanh không chỉ đưa thơ, từ,
nhạc hòa làm một mà còn dùng hình ảnh câu chuyện
nhân tình thế thái khắc họa giáo hóa đạo đức, bao hàm
tinh hoa văn hóa truyền thống Trung Hoa lớn nhất.
Trong quá trình truyền bá văn học cổ điển Trung Quốc
ra bên ngoài, việc dịch thuật khó tránh làm thiếu sót
trong biểu đạt sự tao nhã về thanh luật và cái đẹp trong
kết cấu hành văn của Đường thi, Tống từ. Nhưng tiểu
thuyết thời Minh Thanh khi truyền bá sang Việt Nam lại
đúng vào thời điểm văn tự Hán Nôm đang trong thời kì
phồn thịnh, rất nhiều thi hào nhân sĩ Việt
Nam tinh
thông tiếng Hán và văn hóa truyền thống
Trung Hoa
cũng thích tiếp thu đề tài văn hóa của tiểu thuyết thời
Minh Thanh, mượn nhân vật, hình ảnh, sáng tạo tình tiết
câu chuyện,… tạo ra thời kì giao thoa văn hóa đặc biệt
giữa hai nước, đồng thời làm phong phú văn học cổ điển
Việt Nam.
Lấy kết cấu và sự lưu truyền của tiểu thuyết “
Kim
Vân Kiều Truyện “ thời Minh - Thanh ở Việt Nam làm
ví dụ, một mặt các ấn phẩm của “
Kim Vân Kiều Truyện”
ở Việt Nam không thường gặp, nói lên sự khác biệt giữa
“
Kim Vân Kiều Truyện” và “
Truyện Kiều”, lại càng ít có
độc giả có thể đọc và so sánh bản gốc và bản chữ Nôm
hay bản chữ la tinh. Mặt khác, nhận thức truyền thống
trong đánh giá giá trị văn học cao thấp đối với “nguyên
bản” và “bản dịch” khiến giới học giả hai nước Việt,
Trung nảy sinh tranh luận không ngừng về mối liên
quan giữa “
Kim Vân Kiều Truyện” và “
Truyện Kiều”.
Nhưng nếu nhìn nhận vấn đề từ góc độ chủ nghĩa giải
cấu phiên dịch quan, so sánh hai tác phẩm, “Truyện
Kiều” thực sự là một tác phẩm văn học dịch thuật vô
cùng thành công. Qua đó, tình tiết câu chuyện, hình
tượng nhân vật, hiện tượng xã hội và giá trị đạo đức của
Yang Jian
88
tiểu thuyết thời Minh Thanh được biết đến rộng rãi ở
Việt Nam. Đồng thời, trên cơ sở cấy ghép và dung hợp
văn học kinh điển Trung Quốc, Nguyễn Du đã khéo léo
xử lí “sự khác biệt”, làm nổi bật chỗ khác biệt và đặc
sắc giữa ngôn ngữ dân tộc Việt Nam và ngôn ngữ Trung
Hoa. Thông qua giải cấu, tái cấu trúc và sáng tạo đối với
tiểu thuyết thời
Minh - Thanh, Nguyễn Du đã khiến
nguyên bản “
Kim Vân Kiều Truyện” được tái sinh lần
nữa trong giới văn học thế giới. Sự thành công của
“Truyện Kiều” đã gây tiếng vang ra thế giới và lưu
truyền rộng rãi. Điều này không chỉ hoàn thành việc “tái
sinh” “nguyên bản” mà qua đó lưu lại dấu ấn đặc biệt
của tiểu thuyết thời Minh Thanh trong quá trình truyền
bá và nâng cao tầm ảnh hưởng đến văn học Việt Nam.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: