Yang Jian
86
khiến độc giả càng hiểu rõ hơn nét đặc sắc giữa ngôn
ngữ văn học của hai nước Việt - Trung. Điều này làm
cho vị trí của “
Truyện Kiều” và bản gốc “
Kim Vân Kiều
Truyện” ngang hàng hơn.
Nhà dịch thuật nổi tiếng Eugene A.Nida cho rằng,
người dịch chỉ thông thạo hai loại ngôn ngữ là không
đủ, muốn thành nhà dịch thuật chuyên nghiệp, còn phải
am hiểu hai nền văn hóa, như thế mới có thể đạt đến
“Ý
tại ngôn ngoại” [12, tr.129
]
. Theo ghi chép của “
Đại
Nam nhất thống chí ”, có nói về Nguyễn Du như sau:
“Du bác học giỏi văn, sở trường là thơ, hồi sử, có “Bắc
hành thi tập”, lại am tường quốc âm, có “
Truyện
Kiều”,... cũng chính vì Nguyễn Du nhà dịch giả vĩ đại
thông thạo cả văn hóa và ngôn ngữ hai nước Việt -
Trung, khiến văn hóa kinh điển và ngôn ngữ dân gian có
sự đan xen hòa trộn, đạt đến độ sang hèn cùng hưởng,
kiến tạo nên kì tích trong lịch sử giao lưu văn học hai
dân tộc.
Nguyễn Du trong quá trình sáng tác không chỉ thẩm
thấu nhiều dưỡng chất từ nền văn học dân gian Việt
Nam mà còn vận dụng và kết hợp rất nhiều tinh hoa văn
học cổ điển
Trung Hoa, đưa điển cố, thi ca, thành ngữ
Trung Quốc kết hợp với ca dao, tục ngữ mang hơi thở
bản sắc Việt Nam, đạt đến sự kết hợp hoàn hảo giữa sự
tao nhã, cao sang và bình dân. “
Truyện Kiều” có 30 chỗ
dịch thẳng từ thơ cổ Trung Quốc, 27 chỗ mượn từ ngữ,
ý câu từ thơ cổ Trung Quốc, 46 chỗ mượn dụng ngôn
“kinh thư”, 50 chỗ vận dụng điển cố Trung Quốc
(Vương Tiểu Khiên, 2001:120) ví dụ, “kết cỏ ngậm
vành”(结 草 衔 环 ), “thành hạ chi
minh”(城下之盟)… Nhưng Nguyễn Du lại cải biên
một chút điển cố văn học Trung Quốc, phân loại, lựa
chọn dịch thành từng từ Hán Việt “mang điển cố” như
“lá thắm”(红 叶 题 诗 ), “chim xanh”(青鸟 传 书
), “tinh vệ”(精卫 填 海 ), “kim ốc”(金 屋 藏 娇 )
[13, tr.163]. Thậm chí trong bản gốc “
Kim Vân Kiều
Truyện” cũng không nhắc đến những chi tiết của của
các điển cố khác, nhưng Nguyễn Du vẫn chủ động vận
dụng nhiều điển cố văn học Trung Quốc trong quá trình
dịch, và nó đã góp phần nâng cao tính sáng tạo và giá trị
thẩm mĩ, ví dụ:
Chia sẻ với bạn bè của bạn: