Đầu tư và “chia sẻ chi phí” trong gdđh việt Nam Phạm Phụ Đầu tư cho gdđH trong bối cảnh toàn cầu hóa


- Có nên đi vay để đầu tư cho GDĐH?



tải về 326.63 Kb.
trang4/4
Chuyển đổi dữ liệu26.03.2018
Kích326.63 Kb.
#36651
1   2   3   4

08- Có nên đi vay để đầu tư cho GDĐH?


Nhóm thu nhập/đn

Thu nhập

b.quân/đn(USD)

RR (%)

xã hội

RR (%)

cá nhân

Cao (≥ 9.266 USD)

T.Bình (> 755-9625 USD)

Thấp (≤ 755 USD)


22.530

2.996


363

9,5

11,3


11,2

12,4

19,3


26,0
Theo GS Schultz, nhà kinh tế được giải Nobel, đồng thời cũng là một GS chuyên về “kinh tế học GD”, “đầu tư của một quốc gia là tối ưu khi hiệu quả đầu tư ở các lĩnh vực đầu tư khác nhau là bằng nhau”. Với lĩnh vực GDĐH, theo WB (2008), Suất thu lợi RR hiện còn khá cao đối với các nước có thu nhập đầu người trung bình và thấp (Bảng 6).

Bảng 6- Suất thu lợi RR của đầu tư trong GDĐH

Vậy vấn đề đặt ra là, tại sao chúng ta có thể đi vay quốc tế để đầu tư vào hạ tầng, vào các cơ sở công nghiệp rất khó đạt đến RR khoảng trên 10% mà lại không đi vay để đầu tư cho GDĐH nhằm có được một nguồn nhân lực trình độ cao có chất lượng cao. Mà, theo ông Lý Quang Diệu (khi thăm Việt Nam năm 2007), “nguồn nhân lực trình độ cao đang là “nút thắt cổ chai” trong sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam”.

Với nguồn vốn này, Nhà nước có thể xây dựng nhiều loại Quỹ cho SV vay vốn khác nhau. Tất nhiên, gần như tất cả các Quỹ này đều không có thể hoàn vốn 100% cho Nhà nước. Tỷ lệ hoàn vốn thấp nhất là ở các Quỹ có “tài trợ ẩn” cao phục vụ cho mục tiêu CBXH. Tỷ lệ hoàn vốn ở các Quỹ này của Trung Quốc chỉ là 55%, Hàn Quốc 64%, ở các nước phát triển thì cao hơn. “Tổn thất” ở đây chính là “chi phí tài trợ”, bao gồm: Tài trợ lãi suất, chi phí vận hành quỹ và cả một số tổn thất do có người hoãn nợ hoặc không trả nợ. “Chi phí tài trợ” có thể trích từ phần NSNN lâu nay cấp cho các trường ĐH. Xin lưu ý, NN cấp vốn cho các trường ĐH là để tài trợ cho SV trong khi chưa cấp trực tiếp cho SV được (ví dụ phiếu trợ cấp GD-Voucher) chứ không phải là trợ cấp cho trường ĐH.

Có thể biểu thị cách phân bổ NSNN khi đó như ở sơ đồ dưới đây.





Hình 10- Phân bổ ngân sách Nhà nước cho GDĐH

09- Vài lời kết

(1) Ngày 4/5/2007, khi thăm Đại học Quốc gia Tp. HCM, Thủ tướng Phan Văn Khải có nói: “Việt Nam cần có một cuộc cách mạng trong GDĐH”. Và ngày 29/9 vừa qua, khi đón mừng GS Ngô Bảo Châu ở Mỹ Đình, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã có nói: “Cải cách GD là khâu đột phá” trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam 2011-2020.

Vậy thì cuộc cách mạng hay cuộc cải cách trong GDĐH của Việt Nam có thể bắt đầu từ đâu? WB đã theo dõi các cuộc cải cách GDĐH trên thế giới và cho rằng, trong gần 20 năm qua, thế giới như có chung một “chương trình nghị sự” (Agenda) mà phần cơ bản khá giống nhau, khá “nhất quán”, tập trung vào hai mảng là Tài chính và Quản trị, cho dù có khác nhau về hệ thống chính trị-kinh tế, về trình độ phát triển, đang ở giai đoạn phát triển lành mạnh hay đang trị trệ, hệ thống GDĐH đang còn là “tinh hoa” hay đã bước sang giai đoạn “phổ cập”, GDĐH chủ yếu là công lập hay tư thục v.v… Với một số nước, như Mexico chẳng hạn, còn lựa chọn hẳn phương thức, khởi sự cải cách GDĐH bằng chính cải cách Tài chính.

Thực tiễn cải cách GDĐH cũng cho thấy, cải cách về Quản trị luôn kèm theo là việc dịch chuyển về quyền lực và quyền lợi nên luôn gặp những cản trở của nhiều “nhóm lợi ích có liên quan”, như cải cách về Tự chủ ĐH ở Thái Lan, Indonesia v.v… Vậy, phải chăng Việt Nam cũng nên khởi sự cải cách GDĐH bằng chính cải cách tài chính?

(2) Tất nhiên, để cải cách tài chính, bài toán thiết kế chính sách cũng hết sức phức tạp và cũng phải được thiết kế một cách hết sức công phu. Ví dụ, ở Anh sau nhiều năm nghiên cứu, đến tháng 01/2003 người ta mới công bố được “sách trắng” (White paper), đến tháng 01/2004 mới được Quốc hội phê duyệt dưới dạng một Dự luật và được tiếp tục hiệu chỉnh để có thể áp dụng từ năm học 2006–2007. Đây cũng là đề tài mà các đảng phái chính trị ở Anh đưa ra phương án để tranh cử khi nhiệm kỳ 1 của Thủ tướng Tony Blair sắp kết thúc. “Viện Công khố” của họ tiến hành phân tích các phương án đó để giúp cho công chúng tranh luận. Hiệp hội SV ĐH Cambridge (CUSU) cũng có phương án đề xuất riêng của mình. Một nội dung rất được chú ý là: khi áp dụng chính sách mới thì tỷ lệ SV trong thanh niên ở độ tuổi thuộc các tầng lớp dân cư khác nhau được tiếp cận GDĐH sẽ thay đổi như thế nào. Chính vì vậy, WB đã cảnh báo “Cải cách vội vã là bóp chết cải cách”.

(3) Cần có một Đề án tổng thể về cải cách Tài chính GDĐH, bao gồm cả vấn đề hiệu quả, CBXH và tham nhũng trong GDĐH. Có như vậy mới tìm được sự đồng thuận trong xã hội. Hơn nữa, cũng không nên tách riêng vấn đề học phí vì như một GS ở Anh đã nói: Ở đây không có khái niệm “lời giải đúng” và cũng là vấn đề dễ gây ra “tai họa về mặt chính trị” 



TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Almanac Issue (2006-07). The Cloronicle of Higher Education, Volume LIII, 2006

  2. Anthony P. Carnerale (2008). College for all? Change January/ February 2008

  3. Arthur Levine (2009). Privitization in Higher Education

  4. Bộ GD&ĐT (2008). Chiến lược Giáo dục Việt Nam 2009 – 2020 (Dự thảo 14)

  5. Bộ GD&ĐT (2008). “Đổi mới hoạt động và cơ chế tài chính của GD&ĐT Việt Nam giai đoạn 2008 – 2020, Bộ GD&ĐT, 2008

  6. Bộ GD&ĐT (2010). Báo cáo về việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào tạo đối với GDĐH, tài liệu Đoàn giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hà nội 2010

  7. Bruce Johnstone (2008). 8 đặc điểm của GDĐH Hoa Kỳ, Hoàng Ngọc Vinh dịch (2008)

  8. Chive R. Belfield (2001). Political Preferences and the Privitization of Education Evidence from the UK, Columbia University, Occational Paper No. 18, 2001

  9. Cohen, E. & Henry, C. (2000). Dịch vụ công cộng và Khu vực quốc doanh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001

  10. Devesh Kapur (2007). Indian Higher Education Reform: From half – backed socialism to half-backed capitalism; Indian Policy Forum 2007

  11. Đinh Lê Yên, GS. TS. Phạm Phụ, người đam mê lao vào “vòng xoáy” thời đại, GD thời đại 2009

  12. Edgar Morin (1999). Seven Complex lessons in Education for the future. Education on the Move, UNESCO, 1999

  13. Elizabeth M. King and Susana Cordeiro Guerra (2000). Education Reforms in East Asia. Policy, Process and Impact

  14. Francis Loh (2001). Khủng hoảng trong các trường ĐH công lập ở Malaysia? Phạm Thị Ly dịch, 2010

  15. Ginkel, V. H. (2002). Academic freedom and social responsibility – the role of university organizations, HE policy 15

  16. Henry M. Levin (2000). The Public –Private Nexus in Education, Columbia University, Occasional Paper No.1, 2000

  17. Hội đồng quốc gia giáo dục. (2006). Quyền tự chủ của các trường đại học hướng tới đỉnh cao chất lượng – Bộ giáo dục Singapore, Hà Nội 4/2006

  18. Huang, Futao (2005). Incorporation and University Governance – A comparative perspective from China and Japan. Research Institute for Higher Education, Hiroshima University, Japan

  19. Jamil Salmi (2009). Những thách thức trong việc xây dựng trường Đại học đẳng cấp thế giới. WB, 2009

  20. John Fielden (2008). Global Trends in University Governance Education. No. 9, WB, 2008

  21. Lâm Quang Thiệp, Dr. Bruce Johnstone, Philip G. Altbach (2006). GDĐH Hoa Kỳ, NXB Giáo dục, 2006

  22. Lâm Quang Thiệp (2009). Mô tải và phân tích hiện trạng (Bản nháp) Hệ thống GDĐH Việt Nam, Dự án GDĐH 2, Hà nội, 2009

  23. Lê Phước Minh (2010). Chính sách quản lý xuất nhập khẩu GDĐH, kinh nghiệm quốc tế và sự lựa chọn của VN, NXB Thế giới, 2010

  24. Marek Kwiek et all (2003). The State, the Market, and Higher Education Challenges for the New Centuary; The University, Globalization, Central Europe, Frankfurt & New York: Peter Lang, 2003

  25. Michael, O. S. and Kretovics, A. M. (2005). Financing Higher Education in a Global Market. Algora Publishing, New York

  26. Moe M. T (chủ biên) (2005). Sơ lược về các trường học Hoa Kỳ, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

  27. MOET (2006). Những quan sát về GDĐH trong các ngành công nghệ thông tin, kỹ thuật điện – điện tử - viễn thông và vật lý tại một số trường ĐH Việt Nam, Việt Nam Education Foundation.

  28. Mun C. Tsang (1996). Financial Reform of Basic Education in China. Economics of Education Review. Vol 15, No.4, 1996

  29. Neal Koblitz (2009). Ý kiến khác của một người Mỹ về vấn đề Cải cách GD bậc cao ở Việt Nam, Bộ GD&ĐT, CV Số 43602

  30. Nghị định (Dự thảo) (2009). Quy định về hợp tác, đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực GD, 2009

  31. Nguyễn Kim Hồng (2009). Tỵ nạn giáo dục, ĐH Sư phạm Tp. HCM, 2009

  32. Nguyễn Minh Thuyết (2010). Học phí và chất lượng, Thanh niên, 2010

  33. Nguyễn Tấn Dũng (2010). Phát biểu tại lễ chào mừng GS. Ngô Bảo Châu được trao giải thưởng Fields, VN Net, 2010

  34. Nguyễn Thiện Nhân (2010). Không nên bi quan về GDĐH, Sài gòn Giải phóng, 2010

  35. Nguyễn Thiện Nhân (2007). Nhiệm vụ và giải pháp phát triển GD&ĐT năm 2007 và kế hoạch đến năm 2010, Báo cáo gởi Thủ tướng của Bộ GD&ĐT, 2007

  36. Nhiều tác giả (2007). Những vấn đề GD hiện nay. Quan điểm và Giải pháp, NXB Tri thức, 2007

  37. NQ 05/2005/NQ-CP (2005). Về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động GD, Y tế, Văn hóa và Thể dục Thể thao. Vietlaw.gov.vn, 2010

  38. NQ 14/2005/NQ-CP (2005). Về đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020, Bộ GD&ĐT, 2010

  39. N.V. Varghese (2009). Higher Education Reforms. Institutional Restructuring in Asia, UNESCO, 2009

  40. Paul Glenwe & Michael Kremer (2005). Schools, Teachers and Education Outcomes in Developing Countries, Handbook on the Economics of Education, 2005

  41. Paul Neoney, (2009). Con đường dài trước mặt các trường ĐH Trung Quốc, Phạm Thị Lý dịch, 2009

  42. Phạm Duy Hiển (2008). Khoa học và ĐH Việt Nam qua những công bố quốc tế gần đây, Tia sáng, Bộ KH&CN, 2008

  43. Phạm Phụ (2005). Khuôn mặt mới của GDĐH Việt Nam, NXB ĐHQG TpHCM

  44. Phạm Phụ (2005). Đề án khu đô thị ĐH quốc tế Đà lạt, ICIC, 2008

  45. Phạm Phụ (2008). Những chủ đề cần cải cách và 9 kiến nghị về “xã hội hoá nguồn lực” trong GD. Giáo dục & Thời đại, Số đặc biệt Tháng 3/2008

  46. Phạm Phụ (2010). Đầu tư vào GDĐH, Doanh nhân, Số cuối tuần, 2010

  47. Philip G. Altbach & Toru Umakoshi, 2004 - Asian Universities. The Johns Hopkins University Press, USA

  48. Philip G. Altbach (2008). Đào tạo tiến sĩ: Thực tế hiện nay và những xu hướng tương lai, Phạm Thị Lý dịch, 2008

  49. Rakesh Khurana (2007). MBAs Gone Wild, Princeton University Press, 2007

  50. Richard Levin (2008). Sự trỗi dậy của các trường ĐH Châu Á, Phạm Thị Ly dịch, 2010

  51. Rui Yang (2010). Xếp hạng ĐH ở Trung Quốc: Bối cảnh, thực tiễn và những mối quan ngại, Phạm Thị Ly dịch, 2010

  52. Roger, A. L. (2007). Charity, Philanthropy, Public Service, or Enterprise: What Are the Big Questions of Nonprofit Management Today?. Public Administration Review, May 2007/ June 2007

  53. Simon Marginson, 2010. The Rise of the Global University. 5 New Tentions, The Chronicle of Higher Education, May 30, 2010

  54. Steve O. Michael and Mark A. Kretovics, 2005. Financing Higher Education in a Global Market. Algora Publishing, New York

  55. Su-Yan Pan (2009). Vấn đề tự chủ ĐH, Nhà nước và những thay đổi xã hội, Quan điểm của Phương tây và của Trung Quốc, Phạm Thị Ly dịch, 2010

  56. Thanh Hà (2009). ĐH mọc như nấm, Tuổi trẻ, 2009

  57. Thanh Hà (2010). Sinh viên nở rồi, giảng viên ngợp, Tuổi trẻ, 2010

  58. The Economist, (2005). Kinh doanh chất xám. Khảo sát GD đại học

  59. Thomas, L. (2004). Effective Board Governance. First Nations Education Steering Committee. West Vancouver, BC

  60. Thông báo 242/TB/TW (2009). Thông báo kết luận của BTC về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW2 (Khóa VIII), phương hướng phát triển GD&ĐT đến năm 2020

  61. Tim Mazzarol et all, 2003. The third wave: Future trends in international education, The international Journal of Educational Management

  62. UNDP Việt Nam (2002). Support to Formulation and Implementation of Vietnam’s National Agenda 21, August 21, Project VIE/01/021

  63. UNDP (2007). An sinh xã hội ở Việt Nam. Luỹ tiến đến mức nào?, UNDP Hà Nội

  64. Văn phòng Hội đồng giáo dục, Bộ Giáo Dục Thailand (2009). Chiến lược và lộ trình Cải cách GDĐH Thái Lan, Hoàng Ngọc Vinh dịch

  65. Vietnam Higher Education and Skills for Growth, (2007) Draf, HDD East Asia and Pacific Region, The WB

  66. VNU (2010). Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý GDĐH và CĐ Việt Nam. Tài liệu tham khảo Hội thảo, 2010

  67. Vụ công tác lập pháp, Bộ GD&ĐT (2005). Những nội dung mới của Luật GD năm 2005, NXB Tư pháp, Hà nội, 2005

  68. William.R.B. (2007). College Goes Glabal, Foreign Affairs

  69. Yeager, J. L. et al. (2001). Finance in Higher Education. ASHE, Reader Series, Pearson Custom Publishing, Boston, USA



(1) Tuy nhiên, qua khảo sát Qua khảo sát thực tế cho thấy, ở nhiều cơ sở ĐH, như ở Cao đẳng cộng đồng Hà Nội, thậm chí ở cả các ĐH vùng như Cần Thơ, Đà Nẵng,…, mức chi thường xuyên cho 1 SV chỉ khoảng 3,5 – 4,0 Tr.Đ/năm. Nếu cho rằng chi phí này chỉ chiếm khoảng 75% của CPĐV thì CPĐV ở các cơ sở này cũng chỉ ở mức 5,5 – 6,0 Tr.Đ/SV, tương đương với khoảng 300 – 350 USD/SV. Nghĩa là, CPĐV trong thực tế còn có thể thấp hơn nhiều các con số nói trên. Vậy có tham nhũng hay không trong GDĐH? Và, cả việc sử dụng nguồn vốn đã có hiệu quả hay chưa? Nhưng đây lại là những câu chuyện khác.

(2) Còn với các ĐH ngoài công lập với mức học phí hiện nay, nói chung từ khoảng 5-10 Tr.Đ/năm, mức CPĐV chỉ có thể biến thiên trong khoảng 200 – 400 USD.

(3) Ở Trung Quốc, sau phong trào du học đầu thế kỷ trước, họ có được ĐH Thanh Hoa và Học giả Tiền Học Sâm. Ở Hàn Quốc sau đợt du học những năm 1970, 1980 là sự bùng nổ của công nghệ đóng tàu. Ở Đài Loan sau đợt du học những năm 1980, 1990 là sự bùng nổ của công nghệ bán dẫn, vv…

(4) Ở Malaysia, đến năm 1987 họ đã có đến 35.000 SV đi du học. Họ cho đó là tổn thất ngoại tệ và mất chất xám không hợp lý. Sau đó, họ đã có chiến lược chuyển từ nước “nhập khẩu” GDĐH sang nước “xuất khẩu”. Rất nhanh chóng, hàng loạt cơ sở ĐH tư thục, ĐH liên doanh được thành lập, tốc độ tăng SV lên đến 20%/năm và kéo dài hàng chục năm. Đến nay đã có trên 70.000 SV nước ngoài đến Malaysia học tập, trong đó có nhiều SV Việt Nam, chủ yếu học ở các “Cao đẳng – ĐH nghề nghiệp” (University Colleges) như Sunway, Taylor, Limkokwing…, họ đang tiếp thị đến từng trường THPT ở Việt Nam và nhận cả học sinh lớp 11 đủ mọi trình độ sang đó để học dự bị ĐH (!). Nhờ đó, GDĐH Malaysia đã đem lại được một lượng ngoại tệ khá lớn cho đất nước họ.

(5) Thể hiện qua xu thế “Tư nhân hóa GD” theo nghĩa “không phải là Nhà nước”, hay nói theo Việt Nam là “Xã hội hóa” trong GDĐH.

(6) Ngoài ra, một điểm khác thường nữa của dịch vụ GD là người mua có thể đưa “những nguyên liệu đầu vào” của chính mình vào quá trình sản xuất ra dịch vụ đó” (Customer – Input Technology). Đây là việc những sinh viên học giỏi và có tư cách tốt có thể mang lại hiệu quả rất tốt cho những người đồng lớp (peer effects), góp phần nâng cao chất lượng và tên tuổi của nhà trường, nghĩa là chính họ đã tham gia vào công nghệ sản xuất ra dịch vụ GD. Do vậy nhà trường phải “trả tiền” cho “nguyên liệu đầu vào” đó của người sinh viên, qua hình thức miễn thu học phí hay thậm chí là học bổng.

(7) Tuy nhiên, do là “HH công cộng” về mặt xã hội, do “tác động ngoại biên” dương, do vấn đề “thông tin bất đối xứng”, chỉ là “thị trường của niềm tin” và cả tính chất “Customer-Input Technology” như đã nói ở Ghi chú (4) v.v…, người ta chỉ xem thị trường dịch vụ GDĐH chỉ là “gần như thị trường” (Quasi-market) chứ không thể là một thị trường thông thường như các loại HH dịch vụ khác.


(7) Singapore cũng bắt đầu có chính sách xây dựng Endowment. Ở ĐH Nayang Singapore, nếu ĐH tìm được nguồn cho tặng 1 USD thì Nhà nước tặng thêm cho nhà trường 2 USD để tạo thành nguồn cho tặng Endowment.


(9) Khi thảo luận về học phí, đã có ý kiến so sánh Việt Nam với Cuba về chuyện miễn học phí ĐH. Nhưng còn chưa lưu ý tỷ lệ này giữa Việt Nam và Cuba rất khác nhau.

(10) Họ không nói “Phải căn cứ trên mặt bằng thu nhập của dân chúng” như ở Việt Nam

(11) Lý do còn là, “cấu trúc dân số” trong GDĐH đã thay đổi cơ bản. Ở Mỹ, số SV kiểu truyền thống nay chỉ chiếm dưới 20%, SV trên 05 tuổi, học bán thời gian … đã chiếm trên 50%, họ rất chú ý đến “thực dụng” về nội dung đào tạo.

(12) Tổng đóng góp của cộng đồng ở ĐH Bắc Kinh năm 1998 đã đạt đến con số 34% trong tổng nguồn tài chính của nhà trường.

(13) Hàn Quốc áp dụng mô hình J – model với tỷ lệ SV ở ĐH tư thục lên đến 75% nhưng mức học phí ở ĐH công vẫn chiếm khoảng 54% CPĐV. Học phí có liên quan đến NSNN, đến thuế. Vì vậy, khi thảo luận học phí, họ thường có câu hỏi: “Tăng học phí hay tăng thuế”? Còn Việt Nam: “Học phí phải dựa trên mặt bằng thu nhập của dân chúng” (!). Phải chăng đây là một “trở ngại”?

(14) Một “university” theo nghĩa gốc cần phải có tối thiểu 3 “Colleges” cấp cử nhân: (a) Toán và khoa học, (b)Khoa học xã hội, (c) Nhân văn và ngôn ngữ; tối thiểu 2 “professional schools” như là kỹ thuật, y khoa, luật, quản trị kinh doanh v.v…và nghiên cứu khoa học là một nhiệm vụ cơ bản của nhà trường.

(15) Một cách tương tự, với SV học các ngành như khí tượng thủy văn, Dự báo động đất chẳng hạn…, cũng nên áp dụng chính sách học phí thấp trong “chia sẻ chi phí”.

(16) Ở nhiều nước, quy mô của quỹ loại này thường chỉ bằng khoảng 1/10 - 1/5 NSNN dành cho GDĐH.

(17) Xem bài : “Ngân hàng CSXH Thanh Hóa không cho SV nghèo vay vốn” trên VNnet, ngày 28/3/2010

(18) Hàn Quốc có đến 6 Chương trình cho SV vay vốn

Каталог: DuThao -> Lists -> DT TAILIEU -> Attachments
Attachments -> Luật giao thông đường thủy nội địa sau 8 năm thực hiện
Attachments -> Công ước số 138 Công ước về Tuổi tối thiểu được đi làm việc, 1973
Attachments -> Các đơn vị đặc nhiệm một số quốc gia
Attachments -> KẾt hôn có YẾu tố NƯỚc ngoàI: LÚng túng “ĐUỔI” theo thông tư
Attachments -> Bộ luật Dân sự Việt Nam hiện đại Đỗ Giang Nam
Attachments -> Công ước số 182 Công ước Nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, 1999
Attachments -> Số 279: Sở hữu đất đai
Attachments -> Tìm hiểu về quân đội vũ trang cách mạng Cu-ba
Attachments -> Lực lượng đặc nhiệm sas (Special Air Service) của Quân đội Hoàng gia Anh
Attachments -> MỘt số GÓP Ý cho dự thảo luật phòNG, chống rửa tiềN

tải về 326.63 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương