08- Có nên đi vay để đầu tư cho GDĐH?
Nhóm thu nhập/đn
|
Thu nhập
b.quân/đn(USD)
|
RR (%)
xã hội
|
RR (%)
cá nhân
|
Cao (≥ 9.266 USD)
T.Bình (> 755-9625 USD)
Thấp (≤ 755 USD)
|
22.530
2.996
363
|
9,5
11,3
11,2
|
12,4
19,3
26,0
| Theo GS Schultz, nhà kinh tế được giải Nobel, đồng thời cũng là một GS chuyên về “kinh tế học GD”, “đầu tư của một quốc gia là tối ưu khi hiệu quả đầu tư ở các lĩnh vực đầu tư khác nhau là bằng nhau”. Với lĩnh vực GDĐH, theo WB (2008), Suất thu lợi RR hiện còn khá cao đối với các nước có thu nhập đầu người trung bình và thấp (Bảng 6).
Bảng 6- Suất thu lợi RR của đầu tư trong GDĐH
Vậy vấn đề đặt ra là, tại sao chúng ta có thể đi vay quốc tế để đầu tư vào hạ tầng, vào các cơ sở công nghiệp rất khó đạt đến RR khoảng trên 10% mà lại không đi vay để đầu tư cho GDĐH nhằm có được một nguồn nhân lực trình độ cao có chất lượng cao. Mà, theo ông Lý Quang Diệu (khi thăm Việt Nam năm 2007), “nguồn nhân lực trình độ cao đang là “nút thắt cổ chai” trong sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam”.
Với nguồn vốn này, Nhà nước có thể xây dựng nhiều loại Quỹ cho SV vay vốn khác nhau. Tất nhiên, gần như tất cả các Quỹ này đều không có thể hoàn vốn 100% cho Nhà nước. Tỷ lệ hoàn vốn thấp nhất là ở các Quỹ có “tài trợ ẩn” cao phục vụ cho mục tiêu CBXH. Tỷ lệ hoàn vốn ở các Quỹ này của Trung Quốc chỉ là 55%, Hàn Quốc 64%, ở các nước phát triển thì cao hơn. “Tổn thất” ở đây chính là “chi phí tài trợ”, bao gồm: Tài trợ lãi suất, chi phí vận hành quỹ và cả một số tổn thất do có người hoãn nợ hoặc không trả nợ. “Chi phí tài trợ” có thể trích từ phần NSNN lâu nay cấp cho các trường ĐH. Xin lưu ý, NN cấp vốn cho các trường ĐH là để tài trợ cho SV trong khi chưa cấp trực tiếp cho SV được (ví dụ phiếu trợ cấp GD-Voucher) chứ không phải là trợ cấp cho trường ĐH.
Có thể biểu thị cách phân bổ NSNN khi đó như ở sơ đồ dưới đây.
Hình 10- Phân bổ ngân sách Nhà nước cho GDĐH
09- Vài lời kết
(1) Ngày 4/5/2007, khi thăm Đại học Quốc gia Tp. HCM, Thủ tướng Phan Văn Khải có nói: “Việt Nam cần có một cuộc cách mạng trong GDĐH”. Và ngày 29/9 vừa qua, khi đón mừng GS Ngô Bảo Châu ở Mỹ Đình, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã có nói: “Cải cách GD là khâu đột phá” trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam 2011-2020.
Vậy thì cuộc cách mạng hay cuộc cải cách trong GDĐH của Việt Nam có thể bắt đầu từ đâu? WB đã theo dõi các cuộc cải cách GDĐH trên thế giới và cho rằng, trong gần 20 năm qua, thế giới như có chung một “chương trình nghị sự” (Agenda) mà phần cơ bản khá giống nhau, khá “nhất quán”, tập trung vào hai mảng là Tài chính và Quản trị, cho dù có khác nhau về hệ thống chính trị-kinh tế, về trình độ phát triển, đang ở giai đoạn phát triển lành mạnh hay đang trị trệ, hệ thống GDĐH đang còn là “tinh hoa” hay đã bước sang giai đoạn “phổ cập”, GDĐH chủ yếu là công lập hay tư thục v.v… Với một số nước, như Mexico chẳng hạn, còn lựa chọn hẳn phương thức, khởi sự cải cách GDĐH bằng chính cải cách Tài chính.
Thực tiễn cải cách GDĐH cũng cho thấy, cải cách về Quản trị luôn kèm theo là việc dịch chuyển về quyền lực và quyền lợi nên luôn gặp những cản trở của nhiều “nhóm lợi ích có liên quan”, như cải cách về Tự chủ ĐH ở Thái Lan, Indonesia v.v… Vậy, phải chăng Việt Nam cũng nên khởi sự cải cách GDĐH bằng chính cải cách tài chính?
(2) Tất nhiên, để cải cách tài chính, bài toán thiết kế chính sách cũng hết sức phức tạp và cũng phải được thiết kế một cách hết sức công phu. Ví dụ, ở Anh sau nhiều năm nghiên cứu, đến tháng 01/2003 người ta mới công bố được “sách trắng” (White paper), đến tháng 01/2004 mới được Quốc hội phê duyệt dưới dạng một Dự luật và được tiếp tục hiệu chỉnh để có thể áp dụng từ năm học 2006–2007. Đây cũng là đề tài mà các đảng phái chính trị ở Anh đưa ra phương án để tranh cử khi nhiệm kỳ 1 của Thủ tướng Tony Blair sắp kết thúc. “Viện Công khố” của họ tiến hành phân tích các phương án đó để giúp cho công chúng tranh luận. Hiệp hội SV ĐH Cambridge (CUSU) cũng có phương án đề xuất riêng của mình. Một nội dung rất được chú ý là: khi áp dụng chính sách mới thì tỷ lệ SV trong thanh niên ở độ tuổi thuộc các tầng lớp dân cư khác nhau được tiếp cận GDĐH sẽ thay đổi như thế nào. Chính vì vậy, WB đã cảnh báo “Cải cách vội vã là bóp chết cải cách”.
(3) Cần có một Đề án tổng thể về cải cách Tài chính GDĐH, bao gồm cả vấn đề hiệu quả, CBXH và tham nhũng trong GDĐH. Có như vậy mới tìm được sự đồng thuận trong xã hội. Hơn nữa, cũng không nên tách riêng vấn đề học phí vì như một GS ở Anh đã nói: Ở đây không có khái niệm “lời giải đúng” và cũng là vấn đề dễ gây ra “tai họa về mặt chính trị”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Almanac Issue (2006-07). The Cloronicle of Higher Education, Volume LIII, 2006
Anthony P. Carnerale (2008). College for all? Change January/ February 2008
Arthur Levine (2009). Privitization in Higher Education
Bộ GD&ĐT (2008). Chiến lược Giáo dục Việt Nam 2009 – 2020 (Dự thảo 14)
Bộ GD&ĐT (2008). “Đổi mới hoạt động và cơ chế tài chính của GD&ĐT Việt Nam giai đoạn 2008 – 2020, Bộ GD&ĐT, 2008
Bộ GD&ĐT (2010). Báo cáo về việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào tạo đối với GDĐH, tài liệu Đoàn giám sát của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hà nội 2010
Bruce Johnstone (2008). 8 đặc điểm của GDĐH Hoa Kỳ, Hoàng Ngọc Vinh dịch (2008)
Chive R. Belfield (2001). Political Preferences and the Privitization of Education Evidence from the UK, Columbia University, Occational Paper No. 18, 2001
Cohen, E. & Henry, C. (2000). Dịch vụ công cộng và Khu vực quốc doanh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001
Devesh Kapur (2007). Indian Higher Education Reform: From half – backed socialism to half-backed capitalism; Indian Policy Forum 2007
Đinh Lê Yên, GS. TS. Phạm Phụ, người đam mê lao vào “vòng xoáy” thời đại, GD thời đại 2009
Edgar Morin (1999). Seven Complex lessons in Education for the future. Education on the Move, UNESCO, 1999
Elizabeth M. King and Susana Cordeiro Guerra (2000). Education Reforms in East Asia. Policy, Process and Impact
Francis Loh (2001). Khủng hoảng trong các trường ĐH công lập ở Malaysia? Phạm Thị Ly dịch, 2010
Ginkel, V. H. (2002). Academic freedom and social responsibility – the role of university organizations, HE policy 15
Henry M. Levin (2000). The Public –Private Nexus in Education, Columbia University, Occasional Paper No.1, 2000
Hội đồng quốc gia giáo dục. (2006). Quyền tự chủ của các trường đại học hướng tới đỉnh cao chất lượng – Bộ giáo dục Singapore, Hà Nội 4/2006
Huang, Futao (2005). Incorporation and University Governance – A comparative perspective from China and Japan. Research Institute for Higher Education, Hiroshima University, Japan
Jamil Salmi (2009). Những thách thức trong việc xây dựng trường Đại học đẳng cấp thế giới. WB, 2009
John Fielden (2008). Global Trends in University Governance Education. No. 9, WB, 2008
Lâm Quang Thiệp, Dr. Bruce Johnstone, Philip G. Altbach (2006). GDĐH Hoa Kỳ, NXB Giáo dục, 2006
Lâm Quang Thiệp (2009). Mô tải và phân tích hiện trạng (Bản nháp) Hệ thống GDĐH Việt Nam, Dự án GDĐH 2, Hà nội, 2009
Lê Phước Minh (2010). Chính sách quản lý xuất nhập khẩu GDĐH, kinh nghiệm quốc tế và sự lựa chọn của VN, NXB Thế giới, 2010
Marek Kwiek et all (2003). The State, the Market, and Higher Education Challenges for the New Centuary; The University, Globalization, Central Europe, Frankfurt & New York: Peter Lang, 2003
Michael, O. S. and Kretovics, A. M. (2005). Financing Higher Education in a Global Market. Algora Publishing, New York
Moe M. T (chủ biên) (2005). Sơ lược về các trường học Hoa Kỳ, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
MOET (2006). Những quan sát về GDĐH trong các ngành công nghệ thông tin, kỹ thuật điện – điện tử - viễn thông và vật lý tại một số trường ĐH Việt Nam, Việt Nam Education Foundation.
Mun C. Tsang (1996). Financial Reform of Basic Education in China. Economics of Education Review. Vol 15, No.4, 1996
Neal Koblitz (2009). Ý kiến khác của một người Mỹ về vấn đề Cải cách GD bậc cao ở Việt Nam, Bộ GD&ĐT, CV Số 43602
Nghị định (Dự thảo) (2009). Quy định về hợp tác, đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực GD, 2009
Nguyễn Kim Hồng (2009). Tỵ nạn giáo dục, ĐH Sư phạm Tp. HCM, 2009
Nguyễn Minh Thuyết (2010). Học phí và chất lượng, Thanh niên, 2010
Nguyễn Tấn Dũng (2010). Phát biểu tại lễ chào mừng GS. Ngô Bảo Châu được trao giải thưởng Fields, VN Net, 2010
Nguyễn Thiện Nhân (2010). Không nên bi quan về GDĐH, Sài gòn Giải phóng, 2010
Nguyễn Thiện Nhân (2007). Nhiệm vụ và giải pháp phát triển GD&ĐT năm 2007 và kế hoạch đến năm 2010, Báo cáo gởi Thủ tướng của Bộ GD&ĐT, 2007
Nhiều tác giả (2007). Những vấn đề GD hiện nay. Quan điểm và Giải pháp, NXB Tri thức, 2007
NQ 05/2005/NQ-CP (2005). Về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động GD, Y tế, Văn hóa và Thể dục Thể thao. Vietlaw.gov.vn, 2010
NQ 14/2005/NQ-CP (2005). Về đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020, Bộ GD&ĐT, 2010
N.V. Varghese (2009). Higher Education Reforms. Institutional Restructuring in Asia, UNESCO, 2009
Paul Glenwe & Michael Kremer (2005). Schools, Teachers and Education Outcomes in Developing Countries, Handbook on the Economics of Education, 2005
Paul Neoney, (2009). Con đường dài trước mặt các trường ĐH Trung Quốc, Phạm Thị Lý dịch, 2009
Phạm Duy Hiển (2008). Khoa học và ĐH Việt Nam qua những công bố quốc tế gần đây, Tia sáng, Bộ KH&CN, 2008
Phạm Phụ (2005). Khuôn mặt mới của GDĐH Việt Nam, NXB ĐHQG TpHCM
Phạm Phụ (2005). Đề án khu đô thị ĐH quốc tế Đà lạt, ICIC, 2008
Phạm Phụ (2008). Những chủ đề cần cải cách và 9 kiến nghị về “xã hội hoá nguồn lực” trong GD. Giáo dục & Thời đại, Số đặc biệt Tháng 3/2008
Phạm Phụ (2010). Đầu tư vào GDĐH, Doanh nhân, Số cuối tuần, 2010
Philip G. Altbach & Toru Umakoshi, 2004 - Asian Universities. The Johns Hopkins University Press, USA
Philip G. Altbach (2008). Đào tạo tiến sĩ: Thực tế hiện nay và những xu hướng tương lai, Phạm Thị Lý dịch, 2008
Rakesh Khurana (2007). MBAs Gone Wild, Princeton University Press, 2007
Richard Levin (2008). Sự trỗi dậy của các trường ĐH Châu Á, Phạm Thị Ly dịch, 2010
Rui Yang (2010). Xếp hạng ĐH ở Trung Quốc: Bối cảnh, thực tiễn và những mối quan ngại, Phạm Thị Ly dịch, 2010
Roger, A. L. (2007). Charity, Philanthropy, Public Service, or Enterprise: What Are the Big Questions of Nonprofit Management Today?. Public Administration Review, May 2007/ June 2007
Simon Marginson, 2010. The Rise of the Global University. 5 New Tentions, The Chronicle of Higher Education, May 30, 2010
Steve O. Michael and Mark A. Kretovics, 2005. Financing Higher Education in a Global Market. Algora Publishing, New York
Su-Yan Pan (2009). Vấn đề tự chủ ĐH, Nhà nước và những thay đổi xã hội, Quan điểm của Phương tây và của Trung Quốc, Phạm Thị Ly dịch, 2010
Thanh Hà (2009). ĐH mọc như nấm, Tuổi trẻ, 2009
Thanh Hà (2010). Sinh viên nở rồi, giảng viên ngợp, Tuổi trẻ, 2010
The Economist, (2005). Kinh doanh chất xám. Khảo sát GD đại học
Thomas, L. (2004). Effective Board Governance. First Nations Education Steering Committee. West Vancouver, BC
Thông báo 242/TB/TW (2009). Thông báo kết luận của BTC về tiếp tục thực hiện Nghị quyết TW2 (Khóa VIII), phương hướng phát triển GD&ĐT đến năm 2020
Tim Mazzarol et all, 2003. The third wave: Future trends in international education, The international Journal of Educational Management
UNDP Việt Nam (2002). Support to Formulation and Implementation of Vietnam’s National Agenda 21, August 21, Project VIE/01/021
UNDP (2007). An sinh xã hội ở Việt Nam. Luỹ tiến đến mức nào?, UNDP Hà Nội
Văn phòng Hội đồng giáo dục, Bộ Giáo Dục Thailand (2009). Chiến lược và lộ trình Cải cách GDĐH Thái Lan, Hoàng Ngọc Vinh dịch
Vietnam Higher Education and Skills for Growth, (2007) Draf, HDD East Asia and Pacific Region, The WB
VNU (2010). Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý GDĐH và CĐ Việt Nam. Tài liệu tham khảo Hội thảo, 2010
Vụ công tác lập pháp, Bộ GD&ĐT (2005). Những nội dung mới của Luật GD năm 2005, NXB Tư pháp, Hà nội, 2005
William.R.B. (2007). College Goes Glabal, Foreign Affairs
Yeager, J. L. et al. (2001). Finance in Higher Education. ASHE, Reader Series, Pearson Custom Publishing, Boston, USA
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |