UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ SÁU quốc hội khoá XII


Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị



tải về 3.4 Mb.
trang14/43
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích3.4 Mb.
#1536
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   43

14. Cử tri thành phố Đà Nẵng kiến nghị:

"Đề nghị Chính phủ có chế độ, chính sách để thu hút và giữ chân những người có trình độ cao vào làm việc trong các cơ quan Nhà nước. Thực tế hiện nay, mỗi địa phương có chính sách hỗ trợ thu hút khác nhau".

Trả lời: (tại Công văn số 2789/BNV–VP ngày 28/8/2009 của Bộ Nội vụ)

Việc thu hút và giữ những người có trình độ cao vào làm việc trong các cơ quan nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, hiện nay tuỳ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương khác nhau, từng ngành nghề, lĩnh vực chuyên môn khác nhau mà các ngành, các cấp, các địa phương có những chính sách thu hút khác nhau, phù hợp với ngành, lĩnh vực, địa phương mình.

Triển khai thực hiện Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Kết luận của Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X và Luật Cán bộ, công chức, Bộ Nội vụ và Ban Tổ chức Trung ương đang được giao nghiên cứu, xây dựng chính sách thu hút, sử dụng, đãi ngộ đối với người có tài năng để thực hiện thống nhất trong cả nước. Tuy nhiên, các chính sách cụ thể để thu hút, sử dụng, đãi ngộ người có tài năng cũng phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ, công chức trong từng giai đoạn cụ thể.

15. Cử tri tỉnh Sơn La, Quảng Trị kiến nghị: Đề nghị xem xét, điều chỉnh một số văn bản dưới Luật còn chồng chéo, chưa phù hợp với Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân trong việc quyết định số lượng và mức phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã, phường, thị trấn gây khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện. Cụ thể giữa khoản 5, điều 17 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân với điểm d, đ, khoản 3, điều 2 Nghị định số 121 ngày 21/10/2003; khoản 2, mục V Thông tư liên tịch số 34 ngày 14/5/2004”.

Trả lời: (tại công văn số 2789/BNV – VP ngày 28/8/2009)

I) Khoản 5, điều 17 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (năm 2003), quy định:

“Quyết định chính sách thu hút và một số chế độ khuyến khích đối với cán bộ, công chức trên địa bàn phù hợp với khả năng của ngân sách địa phương; quyết định số lượng và mức phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn trên cơ sở hướng dẫn của Chính phủ”

II) Khoản 3, khoản 4, điều 2 Nghị định số 121/2003/NĐ- CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn quy định:

“3.Cán bộ không chuyên trách cấp xã bao gồm:

a) Trưởng ban tổ chức đảng, Chủ nhiệm Uỷ ban kiểm tra đảng, Trưởng ban Tuyên giáo và 01 cán bộ Văn phòng Đảng uỷ;

b) Phó Trưởng Công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);

c) Phó Chỉ huy trưởng quân sự;

d) Cán bộ kế hoạch- giao thông- thuỷ lợi- nông, lâm, ngư, diêm nghiệp;

đ) Cán bộ lao động – thương binh và xã hội;

e) Cán bộ dân số – gia đình và trẻ em;

g) Thủ quỹ - văn thư- lưu trữ;

h) Cán bộ phụ trách đài truyền thanh;

i) Cán bộ quản lý nhà văn hoá;

k) Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc; Phó các đoàn thể cấp xã: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội cựu chiến binh;

l) Chủ tịch Hội Người cao tuổi; Chủ tịch Hội chữ thập đỏ Việt Nam.

4. Cán bộ không chuyên trách ở thôn và tổ dân phố gồm: Bí thư chi bộ thôn; trưởng thôn; công an viên ở thôn và Bí thư chi bộ, tổ trưởng dân phố ở phường, thị trấn”.

III) Khoản 2, mục V, Thông tư liên tịch số 34/2004/TTLT- BNV- BTC- BLĐTB&XH ngày 14/5/2004 của liên Bộ: Nội vụ, Tài chính, Lao động, thương binh và xã hội hướng dẫn thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐ- CP của Chính phủ, quy định:

“2. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ điều 7 Nghị định số 121/2003/NĐ- CP quy định số lượng và mức phụ cấp hàng tháng cho số cán bộ không chuyên trách nói trên, đảm bảo các yêu cầu sau đây:

2.1. Có nhu cầu cần thiết về công việc thì mới bố trí cán bộ làm việc;

2.2. Mức phụ cấp phải căn cứ vào khối lượng, tính chất công việc và khả năng ngân sách của địa phương để chi trả cho phù hợp.”

Như vậy, việc quy định như trên tại Nghị định số 121/2003/NĐ- CP và Thông tư liên tịch số 34/2004/TTLT- BNV- BTC- BLĐTB&XH không chồng chéo với Luật Tổ chức HĐND và UBND hiện hành như cử tri các tỉnh Sơn La, Quảng Trị kiến nghị.



16. Cử tri tỉnh Kiên Giang kiến nghị: "Hiện tượng chảy máu chất xám tại các ngành và các đơn vị hành chính, sự nghiệp đang diễn ra ngày càng tăng. Đề nghị Chính phủ nghiên cứu, xem xét có giải pháp hữu hiệu để hạn chế và có chế độ thu hút nguồn nhân lực có năng lực và trình độ tại các địa phương".

Trả lời: (tại Công văn số 2789/BNV–VP ngày 28/8/2009)

Hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hiện tượng "chảy máu chất xám" đang diễn ra tại các ngành và các đơn vị hành chính, sự nghiệp của Nhà nước. Mặc dù, các Bộ, ngành, địa phương tuỳ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ, công chức trong từng giai đoạn đã có một số chính sách đãi ngộ (như cấp đất làm nhà ở, phụ cấp, trợ cấp...) nhằm thu hút đội ngũ trí thức có trình độ cao vào làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Nhà nước. Tuy nhiên, chính sách đãi ngộ chưa đủ mạnh để thu hút những người có trình độ cao vào các cơ quan hành chính và các tổ chức sự nghiệp của Nhà nước, dẫn đến tình trạng "chảy máu chất xám" trong các cơ quan, tổ chức của Nhà nước vẫn diễn ra.

Vừa qua, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật Cán bộ, công chức; trong đó có quy định cụ thể về việc Nhà nước có chính sách để phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với người có tài năng (Điều 6 Luật Cán bộ, công chức). Triển khai thực hiện Luật Cán bộ, công chức, Bộ Nội vụ đang phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng các chính sách thu hút, sử dụng, đãi ngộ đối với người có tài năng để thực hiện thống nhất trong cả nước trong thời gian tới.

17. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị:

"Đảng và nhà nước rất quan tâm đến các đối tượng có công với cách mạng, nhưng nên thể hiện bằng cách miễn giảm học phí hoặc trợ cấp hàng tháng cho con em họ trong thời gian học ở các trường đại học, trung học chuyên nghiệp hoặc đào tạo nghề chứ không nên ưu tiên cộng điểm trong thi tuyển, xét tuyển, nhất là trong tuyển dụng cán bộ, công chức, làm suy giảm hệ thống công chức nhà nước".

Trả lời: (tại Công văn số 2789/BNV–VP ngày 28/8/2009 của Bộ Nội vụ)

Bộ Nội vụ xin tiếp thu, nghiên cứu để đưa vào nội dung các Nghị định hướng dẫn thực hiện Luật Cán bộ, công chức năm 2008 cho phù hợp.



18. Cử tri tỉnh Bắc Kạn kiến nghị:

"Đề nghị Chính phủ xem xét bảo đảm thống nhất giữa chính sách đào tạo theo chế độ cử tuyển và quy định về thi tuyển công chức vì chế độ đào tạo cử tuyển yêu cầu các địa phương cử học sinh đi học phải bố trí việc làm cho học sinh sau khi ra trường, điều này không thống nhất với quy định về thi tuyển và xét tuyển công chức".

Trả lời: (tại Công văn số 2789/BNV–VP ngày 28/8/2009)

Theo quy định của Nghị định số 134/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 về chế độ cử tuyển vào các cơ sở giáo dục trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân thì cử tuyển là việc tuyển sinh không qua thi tuyển vào đại học, cao đẳng, trung cấp để đào tạo cán bộ, công chức, viên chức cho các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và các dân tộc thiểu số chưa có hoặc có rất ít cán bộ đạt trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp. Do vậy, việc quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức tiếp nhận và phân công công tác cho người được cử đi học theo chế độ cử tuyển sau khi tốt nghiệp là phù hợp. Quy định này khác với quy định về thi tuyển và xét tuyển công chức.



19. Cử tri tỉnh Sóc Trăng, Lạng Sơn, Ninh Thuận kiến nghị:

"Đề nghị cần đổi mới mạnh mẽ hơn nữa công tác cán bộ từ khâu quy hoạch, đào tạo, sử dụng, đánh giá và đề bạt cán bộ, áp dụng hình thức thi tuyển công chức ở các cấp chính quyền, thi tuyển trong bổ nhiệm cán bộ, thường xuyên quan tâm giáo dục và kiểm tra phẩm chất đạo đức cán bộ. Xử lý nghiêm các trường hợp chạy chức, chạy quyền. Cần xây dựng tiêu chí cụ thể về trách nhiệm của cán bộ, công chức khi thi hành công vụ, tránh tình trạng đùn đẩy, né tránh công việc do sợ trách nhiệm. Việc thi tuyển công chức còn nhiều bất cập, hình thức, việc tổ chức thi tuyển không kịp thời, cần đổi mới phương pháp thi tuyển công chức sao cho phù hợp với các địa phương".

Trả lời: (tại công văn số 2789/BNV – VP ngày 28/8/2009)

Tại Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X kết luận về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược luận về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020 (Kết luận số 37-KL/TW ngày 02/02/2009 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X) đã đề ra một số nhiệm vụ và giải pháp cần thực hiện trong thời gian tới như: đổi mới công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ; hoàn thiện chế độ bầu cử; cải tiến cách thức tuyển chọn, lấy phiếu tín nhiệm, bổ nhiệm cán bộ để chọn đúng người, bố trí đúng việc...

Triển khai thực hiện Kết luận của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X và quy định của Luật Cán bộ, công chức đã được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 4, hiện nay, Bộ Nội vụ đang chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng một số văn bản, đề án như: các văn bản quy định chi tiết Luật Cán bộ, công chức để thi hành từ ngày 01/01/2010; đề án thí điểm tổ chức việc thi tuyển đối với một số chức vụ lãnh đạo, quản lý trong một số cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương... Theo đó, các nội dung đổi mới về quản lý cán bộ, công chức sẽ được triển khai thực hiện như quản lý công chức theo nguyên tắc kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế; xác định vị trí việc làm là cơ sở để thực hiện việc tuyển dụng, bổ nhiệm, nâng ngạch, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá và đãi ngộ đối với công chức; ưu đãi đối với người có tài năng...

20. Cử tri tỉnh Hải Dương kiến nghị:

"Đẩy mạnh công tác luân chuyển cán bộ ở những vị trí có nguy cơ tham nhũng, tiêu cực cao. Quy trình tuyển chọn cán bộ cần công khai, dân chủ hơn nữa".

Trả lời: (tại Công văn số 2789/BNV–VP ngày 28/8/2009)

Thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức. Trong đó có quy định 21 lĩnh vực, ngành nghề phải định kỳ chuyển đổi và giao các Bộ, ngành quy định cụ thể danh mục các vị trí công tác phải định kỳ chuyển đổi ở từng lĩnh vực, ngành, nghề.

Khi thực hiện việc định kỳ chuyển đổi vị trí công tác, các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải đảm bảo các nguyên tắc theo quy định của khoản 1 Điều 4 Nghị định số 158/2007/NĐ-CP, như:

- Việc thực hiện định kỳ chuyển đổi vị trí công tác là quy định bắt buộc, thường xuyên, áp dụng đối với tất cả các cán bộ, công chức, viên chức được bố trí vào các vị trí công tác thuộc các lĩnh vực, ngành, nghề quy định tại Điều 8 Nghị định số 158/2007/NĐ-CP.

- Phải khách quan, công tâm, khoa học và hợp lý, phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ; chống biểu hiện bè phái, chủ nghĩa cá nhân; không gây mất đoàn kết và không làm xáo trộn sự ổn định trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;

- Phải đúng nguyên tắc hoán vị, không ảnh hưởng đến tăng, giảm biên chế của các cơ quan, tổ chức, đơn vị;

- Phải được tiến hành theo kế hoạch, được công bố công khai trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị và gắn với trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị.

Do vậy, khi thực hiện chuyển đổi vị trí công tác phải căn cứ vào yêu cầu thực tế, bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị (đối với cả đơn vị có cán bộ, công chức điều chuyển đi và đơn vị có cán bộ, công chức điều chuyển đến), không nhất thiết phải thực hiện điều chuyển đồng loạt, toàn đơn vị. Điều quan trọng là đạt được mục tiêu của việc phòng ngừa, chống tham nhũng.



21. Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị:

"Việc điều động, luân chuyển cán bộ là một việc làm dễ bị lợi dụng và dễ nảy sinh tiêu cực trong công tác quản lý cán bộ. Đề nghị cần nghiên cứu kỹ để tránh tình trạng bao che cho cán bộ khi họ vi phạm pháp luật ở nơi này thì điều đi làm việc ở nơi khác, thậm chí không bố trí công tác được ở địa phương lại bố trí lên công tác ở Trung ương.

Đề nghị luân chuyển cán bộ cần có quy định thời gian cụ thể, nhất là đối với cán bộ công chức cấp xã. Công chức cấp xã phải ổn định ít nhất là 4 năm mới luân chuyển đi. Mặt khác cần xem xét có cơ chế luân chuyển định kỳ cán bộ chủ chốt cấp xã, từ xã này sang xã khác làm việc để tránh trường hợp cục bộ, vì dòng tộc".

Trả lời: (tại Công văn số 2789/BNV–VP ngày 28/8/2009)

Theo các quy định hiện hành của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là các quy định tại Luật cán bộ, công chức vừa được Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ tư thông qua, việc điều động, luân chuyển đối với cán bộ, công chức đều phải căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, quy hoạch, kế hoạch sử dụng công chức và phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công chức đó (Điều 26, Điều 50 và Điều 52 Luật cán bộ, công chức).

Đối với cán bộ, công chức cấp xã, việc điều động, luân chuyển cán bộ, công chức từ cấp huyện trở lên về xã, phường, thị trấn cũng như từ xã, phường, thị trấn lên cấp quận, huyện được thực hiện như quy định đối với việc điều động, luân chuyển cán bộ, công chức, nghĩa là cũng phải căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, quy hoạch, phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đặc biệt là tiêu chuẩn cán bộ, công chức.

Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ tiếp tục hoàn thiện các quy định cụ thể về vấn đề này để đảm bảo tránh nảy sinh tiêu cực trong công tác quản lý cán bộ, công chức; tránh tình trạng bao che cho cán bộ, công chức khi họ vi phạm pháp luật ở nơi này thì điều đi làm việc ở nơi khác. Việc đề nghị quy định thời gian cụ thể, cơ chế luân chuyển định kỳ cán bộ chủ chốt cấp xã, từ xã này sang xã khác làm việc để tránh trường hợp cục bộ, vì dòng tộc Bộ Nội vụ sẽ nghiên cứu khi xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn.Tuy nhiên, để làm tốt công tác luân chuyển cần đề cao trách nhiệm của người đứng đầu, đảm bảo nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát của cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện thực hiện công tác luân chuyển cán bộ, công chức nói riêng và công tác cán bộ nói chung.



22. Cử tri thành phố Hồ Chí Minh, Bình Định, Sóc Trăng, Ninh Thuận, Kiên Giang, Nghệ An, Long An, Gia Lai, Lâm Đồng, Khánh Hòa, Thái Bình kiến nghị:

Cử tri đánh giá công tác cải cách hành chính trong thời gian qua có nhiều tiến bộ, nhưng vẫn chưa đáp ứng được sự mong đợi của nhân dân. Thủ tục giấy tờ, đặc biệt trong lĩnh vực nhà đất hộ tịch còn rất nhiêu khê, việc xét duyệt các dự án đầu tư liên quan đến các công trình di sản văn hoá, giải quyết chính sách đối với người có công, sự liên thông giữa các cơ quan Nhà nước trong giải quyết thủ tục hành chính chưa đạt hiệu quả cao, vẫn còn tình trạng mỗi nơi áp dụng một biểu mẫu khác nhau, không thống nhất và thường xuyên thay đổi, việc trả hồ sơ không đúng thời hạn quy định còn khá nhiều khiến người dân phải đi lại nhiều lần.... Đề nghị thực hiện tổng kết việc thực hiện cải cách hành chính, tích cực đẩy mạnh cải cách hành chính, rà soát các quy định hiện hành để đơn giản hoá thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân. Đồng thời, cử tri tiếp tục đề nghị đổi mới mạnh mẽ hơn nữa công tác cán bộ, từ khâu quy hoạch, đào tạo đến sử dụng, đánh giá và đề bạt cán bộ, chú trọng chất lượng nguồn nhân lực, sử dụng người tài, kiểm tra chất lượng, phẩm chất đạo đức cán bộ khi thi hành công vụ, xử lý nghiêm những người gây nhũng nhiễu đối với nhân dân”.



Trả lời: (tại Công văn số 2789/BNV–VP ngày 28/8/2009)

1. Về đề nghị thực hiện tổng kết việc thực hiện cải cách hành chính

Trong quá trình triển khai cải cách hành chính, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ luôn chú trọng công tác tổng kết, đánh giá để rút ra bài học kinh nghiệm, từ đó có những điều chỉnh, ban hành quyết sách phù hợp với điều kiện thực tế. Ví dụ qua một thời gian triển khai thực hiện cơ chế một cửa theo Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ đã tiến hành sơ kết đánh giá những điểm tích cực và điều chỉnh những mặt chưa phù hợp. Trên cơ sở đó, ngày 22/6/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương thay thế Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/ 2003. Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg đã quy định nhiều nội dung mới nhằm tiếp tục thay đổi phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước các cấp ở địa phương, giảm phiền hà, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng trên tinh thần cải cách hành chính đem lại lợi ích cho người dân và doanh nghiệp. Hoặc việc tổng kết 4 năm thí điểm thực hiện khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính theo Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg ngày 17/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ cho thấy những ưu điểm tích cực trên nhiều mặt như đã giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các cơ quan trong việc tổ chức sắp xếp bộ máy, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, nâng cao hiệu suất lao động, hiệu quả công việc… từ đó Chính phủ đã ban hành Nghị định số 130/2005/NĐ-CP để thay thế Quyết định số 192/2001/QĐ-TTg và mở rộng thực hiện cơ chế này.

Thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010, giai đoạn I (2001-2005) đã được tổng kết và trong năm 2010 sắp tới sẽ tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình Tổng thể và đề ra những ưu tiên, trọng tâm của cải cách hành chính giai đoạn tới. Hiện tại, Chính phủ đang chuẩn bị Kế hoạch, Đề cương để các Bộ, ngành Trung ương và các địa phương tiến hành tổng kết.

2. Về rà soát, đơn giản hoá thủ tục hành chính

Công tác rà soát, đơn giản hoá thủ tục hành chính được đẩy mạnh triển khai thực hiện trong thời gian vừa qua. Nhiều thủ tục hành chính như xác định thành phần dân tộc, xác nhận hộ nghèo, chứng thực bản sao giấy tờ, cấp chứng minh thư nhân dân, cấp hộ chiếu phổ thông cho công dân, đăng ký quản lý hộ khẩu, đăng ký phương tiện giao thông, thực hiện một cửa liên thông trong lĩnh vực đăng ký kinh doanh, cấp mã số thuế, khắc dấu; phê duyệt dự án đầu tư; thủ tục trong ngành hải quan, thuế…được các Bộ, ngành và địa phương rà soát, sửa đổi, bổ sung và loại bỏ những thủ tục không cần thiết, tạo thuận lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp.

Nhằm thực hiện công khai, minh bạch hoá thủ tục hành chính, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định phê duyệt Đề án đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước (Đề án 30), thực hiện có hiệu quả Đề án 30 sẽ đảm bảo thống nhất và đơn giản hoá thủ tục hành chính, đồng thời thông qua rà soát, nhiều thủ tục được sửa đổi đồng bộ, không chồng chéo, đảm bảo công bố công khai các thủ tục (các loại giấy tờ, biểu mẫu) và quy trình giải quyết công việc, thời gian giải quyết, phí và lệ phí theo quy định để mọi người dân biết và thực hiện thuận lợi.

Thực hiện bước 1 của Đề án 30, tính đến ngày 18/8/2009, số lượng thủ tục hành chính đã được thống kê thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ, ngành, địa phương là trên 5.500 thủ tục hành chính, với 7.641 văn bản quy định và 82.786 biểu mẫu thống kê thủ tục hành chính. 100% Bộ, ngành đã ban hành quyết định và tổ chức công bố bộ thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành mình. 60/63 địa phương đã ban hành quyết định công bố bộ thủ tục hành chính chung áp dụng tại cấp huyện và cấp xã. Hiện chỉ còn 3 tỉnh chưa ban hành quyết định công bố là Cao Bằng, Đồng Tháp, Hậu Giang. Một số địa phương đã ban hành quyết định công bố bộ thủ tục hành chính của các sở, ngành là Hải Phòng, Bắc Giang, Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái, Bạc Liêu, Hưng Yên, Phú Thọ, Đắk Lắk, Lào Cai, Bình Phước, Quảng Nam, Đà Nẵng, Bình Thuận…

Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trong thực hiện bước 2 của Đề án 30, các bộ, ngành và địa phương phải thực hiện đơn giản hoá tối thiểu 30% các quy định về thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý. Việc đơn giản hoá thủ tục hành chính bao gồm việc loại bỏ các quy định không cần thiết, không hợp lý, không hợp pháp; hoàn thiện, nâng cao chất lượng các quy định về thủ tục hành chính; pháp lý hoá những thủ tục hành chính cần thiết, hợp lý nhưng chưa hợp pháp; phân cấp thực hiện và thay thế.

3. Về đề nghị đổi mới công tác cán bộ

Trong thời gian qua, với những chủ trương, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, công tác xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức không ngừng được đổi mới và đã được tập trung đẩy mạnh triển khai thực hiện. Nghị quyết Trung ương 5 Khóa X của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước đã chỉ ra những yếu kém, hạn chế về công tác cán bộ, đồng thời cũng đã xác định giải pháp quan trọng đối với công tác cán bộ, tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức. Để triển khai Nghị quyết Trung ương, một loạt các biện pháp và các văn bản pháp luật đã được triển khai như: xác định rõ chức danh, tiêu chuẩn, cho đến nay đã có trên 200 chức danh, tiêu chuẩn cán bộ, công chức; xác định lại cơ cấu cán bộ, công chức trong từng cơ quan hành chính nhà nước để làm căn cứ định biên, tuyển dụng và bố trí sử dụng cán bộ, công chức. Trong thời gian qua, công tác tuyển dụng cán bộ, công chức cũng có nhiều đổi mới theo hướng công khai, minh bạch hơn, các Nghị định của Chính phủ như Nghị định 08/2007/NĐ-CP, Nghị định 09/2007/NĐ-CP ngày 15/01/2007 về công tác tuyển dụng cán bộ, công chức tiếp tục cho thấy rõ điều này, tuyển dụng căn cứ vào nhu cầu, cơ cấu và tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức của từng cơ quan, đơn vị. Thông qua việc thi tuyển, sát hạch, kiểm tra đã tuyển dụng cán bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực vào làm việc trong bộ máy. Tiếp tục làm tốt công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ, công chức từ cơ sở, thực hiện việc giới thiệu, lấy phiếu tín nhiệm cán bộ đưa vào quy hoạch và công bố công khai quy hoạch cán bộ. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ và xác định rõ chức danh, tiêu chuẩn, cơ cấu cán bộ, công chức để xác định biên chế của từng cơ quan, đơn vị. Việc đánh giá, phân loại cán bộ, công chức đã có bước chuyển nhằm xác định rõ kết quả thực thi công việc, những người đủ và không đủ năng lực, trình độ, qua đó thực hiện việc bố trí phù hợp để sử dụng. Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ về quy định danh mục các vị trí và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức được thực hiện trong thời gian qua. Công tác luân chuyển, bố trí, phân công nhiệm vụ cho cán bộ, công chức đã bảo đảm sự ổn định để chuyên môn hoá, đồng thời có sự điều chuyển cần thiết để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và phòng ngừa tiêu cực. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đã chú trọng vào đổi mới phương thức và nội dung các chương trình đào tạo, sát với thực tế, hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá trình thực thi công vụ, nhất là kỹ năng hành chính. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng hành chính bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động của cơ quan hành chính, nhất là trong giải quyết các yêu cầu của dân, doanh nghiệp.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 Khóa X, Luật Cán bộ, Công chức được Quốc hội Khoá XII thông qua tại kỳ họp thứ 4 tiếp tục có sự phân biệt rõ hơn đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị nước ta, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức với những quy định cụ thể hơn. Trên cơ sở đó, Luật Cán bộ, công chức đã xác định những yêu cầu, tiêu chuẩn về trình độ, năng lực, phẩm chất, cơ chế quản lý và chế độ, chính sách đãi ngộ thích hợp. Trong thời gian tới, với việc tổ chức thực hiện Luật Cán bộ, công chức, xây dựng và ban hành các Nghị định, Thông tư hướng dẫn Luật trên cơ sở đổi mới đồng bộ các khâu của công tác cán bộ, xây dựng và thực hiện chế độ công vụ thống nhất, dân chủ, công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm tra, giám sát, xây dựng cơ chế, chính sách nhằm phát huy năng lực của đội ngũ công chức hành chính Nhà nước, thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực của quốc gia một cách cụ thể sẽ từng bước tạo ra đội ngũ công chức vừa phải làm việc trên các lĩnh vực theo các nguyên tắc của thị trường, vừa phải biết quyết định các vấn đề trên cơ sở hệ thống quyền lực mà nhân dân giao cho. Đồng thời, với việc thực hiện có hiệu quả những quy định này, sẽ góp phần đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, quy hoạch, đào tạo, sử dụng, đánh giá và đề bạt, chú trọng chất lượng nguồn nhân lực, sử dụng người tài, kiểm tra chất lượng, phẩm chất đạo đức cán bộ, công chức khi thi hành công vụ, xử lý nghiêm những người gây nhũng nhiễu đối với nhân dân.



Каталог: UserControls -> ckfinder -> userfiles -> files
files -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> Phụ lục số 1 danh mục các văn bản hưỚng dẫn thi hành pháp luật về giao thôNG
files -> PHỤ LỤC 1 KẾt quả XỬ LÝ ĐƠN, thư CỦa uỷ ban tư pháp từ sau kỳ HỌp thứ SÁU ĐẾn truớc kỳ HỌp thứ BẢy quốc hội khóa XII
files -> Phần I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
files -> II. Các kiến nghị về chính sách đối với giáo viên
files -> BÁo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào tạo trong giáo dục đại học
files -> ĐỀ ÁN ĐỔi mới cơ chế TÀi chính giáo dục giai đOẠN 2009-2014

tải về 3.4 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   10   11   12   13   14   15   16   17   ...   43




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương