UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ SÁU quốc hội khoá XII


Cử tri các tỉnh Hòa Bình, Ninh Thuận, Bình Dương, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị



tải về 3.4 Mb.
trang38/43
Chuyển đổi dữ liệu07.07.2016
Kích3.4 Mb.
#1536
1   ...   35   36   37   38   39   40   41   42   43

8. Cử tri các tỉnh Hòa Bình, Ninh Thuận, Bình Dương, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị:

Đề nghị Nhà nước cần có biện pháp xử lý kiên quyết đối với Công ty, cơ sở vi phạm quy định về in ấn và phát hành những bộ sách, truyện có nội dung, hình ảnh phản cảm, thiếu lành mạnh, không mang tính giáo dục, nhằm ngăn chặn ảnh hưởng xấu đến các đối tượng thanh, thiếu niên hiện nay.

Trả lời: (tại Công văn số 2842/BTTTT-VP ngày 09/9/2009)

Việc in ấn và phát hành những bộ sách, truyện có nội dung, hình ảnh phản cảm, thiếu lành mạnh, không mang tính giáo dục trong thời gian qua đã được một số cơ quan chức năng của Bộ phát hiện và xử lý kịp thời. Để nhanh chóng khắc phục tình trạng này, ngày 22/9/2008, Bộ đã có công văn số 3016/BTTTT-XB về việc chấn chỉnh hoạt động của các nhà xuất bản, cơ sở in, đơn vị phát hành truyện tranh, đảm bảo thực hiện đúng các quy định của pháp luật về xuất bản.

Song song với việc ban hành văn bản chấn chỉnh hoạt động trên, Bộ đã có các biện pháp chỉ đạo cụ thể như sau:

a. Các cơ sở in, công ty phát hành phải chủ động phát hiện những xuất bản phẩm có nội dung ảnh hưởng không tốt đối với thanh thiếu niên và thông báo với cơ quan QLNN, nhà xuất bản để có biện pháp xử lý kịp thời.

b. Đối với các công ty phát hành sách trong cả nước không bán những tên sách bị đình chỉ phát hành, không có hóa đơn, không có chứng từ thể hiện nguồn gốc hợp pháp.

c. Đối với cơ sở in khi nhận in xuất bản phẩm phải có quyết định xuất bản, hợp đồng của nhà xuất bản và in đúng bản thảo đã được nhà xuất bản ký duyệt theo quy định của Luật Xuất bản

d. Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông hướng dẫn Thanh tra Sở Thông tin và Truyền thông các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành kiểm tra các cơ sở in, đơn vị phát hành, thị trường xuất bản phẩm trong cả nước để phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm các quy định pháp luật về xuất bản. Tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị cảnh cáo hoặc phạt tiền, đình chỉ in xuất bản phẩm đang in, xuất bản phẩm đang phát hành, tước giấy phép hoạt động in, thu hồi, tịch thu, cấm lưu hành, tiêu huỷ xuất bản phẩm vi phạm./.
BỘ TƯ PHÁP
1. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị:

Đề nghị Bộ có văn bản hướng dẫn thống nhất về mẫu sổ, mẫu biểu các giấy tờ về cấp phiếu lý lịch tư pháp; quy định cụ thể về việc cấp phiếu lý lịch tư pháp cho người nước ngoài cư trú tại Việt Nam. Nghiên cứu tăng mức kinh phí cho hoạt động của Đoàn Luật sư; tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ luật sư các tỉnh miền núi”,



Trả lời: (Tại Công văn số 3185/BTP-VP ngày 08/9/2009)

Thứ nhất, về hướng dẫn mẫu sổ, mẫu biểu các giấy tờ về cấp Phiếu lý lịch tư pháp:

Theo quy định của Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA ngày 08/02/1999 của Bộ Tư pháp và Bộ Công an quy định việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp, các mẫu giấy tờ về cấp Phiếu lý lịch tư pháp bao gồm: Mẫu Phiếu lý lịch tư pháp (mẫu số 01/TP-LLTP); Mẫu đơn yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp (mẫu số 02/TP-LLTP); Mẫu Phiếu xác minh lý lịch tư pháp (mẫu số 03/TP-LLTP). Hiện nay, các mẫu giấy tờ về cấp Phiếu lý lịch tư pháp trên đang được sử dụng thống nhất trong phạm vi cả nước, phục vụ yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Để triển khai thực hiện Luật Lý lịch tư pháp được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 17/6/2009 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2010, trong đó có quy định tại Điều 9: Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lý nhà nước về lý lịch tư pháp, “ban hành và quản lý thống nhất các biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về lý lịch tư pháp”, Bộ Tư pháp đã có dự kiến Kế hoạch thực hiện Luật, trong đó sẽ ban hành Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành và quản lý thống nhất biểu mẫu, giấy tờ, sổ sách về lý lịch tư pháp.

Thứ hai, về quy định cụ thể việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho người nước ngoài cư trú tại Việt Nam:

Cũng theo quy định tại Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA, công dân Việt Nam và người nước ngoài có quyền yêu cầu Sở Tư pháp cấp Phiếu lý lịch tư pháp; Thông tư liên tịch số 07 cũng quy định cụ thể về hồ sơ và thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp đối với người nước ngoài, trong đó người nước ngoài có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Phiếu lý lịch tư pháp xác nhận người đó có hoặc không có tiền án trong thời gian cư trú tại Việt Nam (xem điểm 3 mục I của Thông tư liên tịch số 07/1999/TTLT-BTP-BCA).



Thứ ba, về kiến nghị nghiên cứu tăng mức kinh phí cho hoạt động của Đoàn luật sư các tỉnh miền núi:

Để nâng cao năng lực cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư cũng như đội ngũ luật sư, trong thời gian qua, Bộ Tư pháp đã xây dựng và thực hiện nhiều Đề án để từng bước nâng cao năng lực của đội ngũ luật sư Việt Nam, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế (xây dựng và trình Chính phủ quyết định chiến lược và chính sách phát triển nghề luật sư; thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư). Đối với các tỉnh đặc biệt khó khăn, trong đó có các tỉnh miền núi, Luật Luật sư năm 2006 và Nghị định số 28/2007/NĐ-CP ngày 26/2/2007 của Chính phủ quy định tại Điều 24 như sau: “Hàng năm Bộ Tư pháp có trách nhiệm lập dự toán ngân sách hỗ trợ cho hoạt động của Đoàn luật sư các tỉnh đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước”.

Trong thời gian qua, để hỗ trợ cho các Đoàn luật sư có số lượng luật sư ít (dưới 10 luật sư), Bộ Tư pháp đã phối hợp với Dự án DANIDA của Đại sứ quán Đan Mạch về “hỗ trợ cải cách tư pháp và pháp luật tại Việt Nam” hỗ trợ ban đầu trang thiết bị cho một số Đoàn luật sư gồm: bàn ghế, máy tính, máy fax, điện thoại, tủ sách pháp luật. Ngoài ra, các Đoàn Luật sư hầu hết đều tự trang trải kinh phí hoạt động thông qua đóng góp của các Văn phòng Luật sư thành viên, các luật sư và sự hỗ trợ của địa phương, các tổ chức kinh tế…

Trong thời gian tới, để có thông tin lập dự toán ngân sách hỗ trợ cho hoạt động của các Đoàn luật sư các tỉnh đặc biệt khó khăn trên cả nước, Bộ Tư pháp sẽ tiến hành khảo sát các tỉnh, thành phố và đề nghị các địa phương khó khăn có dự toán cụ thể để Bộ Tư pháp tổng hợp báo cáo Chính phủ; đề xuất kinh phí hỗ trợ cho Đoàn luật sư của địa phương đó theo đúng quy định.



Thứ tư, về kiến nghị liên quan đến việc tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ luật sư các tỉnh miền núi:

- Về đào tạo luật sư, ngày 21/01/2008, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Chương trình khung đào tạo nghề luật sư, áp dụng trong phạm vi toàn quốc (kèm theo Quyết định số 90/QĐ-BTP). Ngoài ra, Học viện Tư pháp (trực thuộc Bộ Tư pháp) cũng đã thực hiện chính sách KV0 dành cho những người thuộc các tỉnh miền núi, khó khăn, có nguyện vọng, cam kết trở thành luật sư của địa phương, trong đó học viên sẽ được miễn học phí đào tạo và được hỗ trợ một phần về chỗ ở và giáo trình.

- Về bồi dưỡng cho luật sư, theo quy định của Luật Luật sư năm 2006, Đoàn luật sư có trách nhiệm bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho luật sư, Bộ Tư pháp thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư. Hàng năm, Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng cho luật sư, cụ thể hàng năm tổ chức 02 lớp bồi dưỡng về kiến thức và kỹ năng cho đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế; 03 lớp bồi dưỡng kỹ năng tư vấn pháp luật và kỹ năng tranh tụng cho luật sư. Năm 2009, Bộ Tư pháp đã tổ chức 03 lớp đào tạo kỹ năng quản lý cho Ban Chủ nhiệm các Đoàn luật sư vào tháng 4/2009.

Trong thời gian qua, sau 03 tháng thành lập, Liên đoàn luật sư Việt Nam đã phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức 02 lớp đào tạo kỹ năng mềm cho luật sư, 03 lớp bồi dưỡng kỹ năng tư vấn pháp luật và kỹ năng tranh tụng cho luật sư vào tháng 6/2009 và dự kiến tổ chức 02 lớp về đào tạo kỹ năng quản lý cho các Trưởng Văn phòng Luật sư, Giám đốc Công ty Luật trong quý III/2009.



2. Cử tri tỉnh Lạng Sơn kiến nghị:

Nghiên cứu có quy định giao cho các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện công chứng tất cả các hợp đồng, giao dịch, đảm bảo việc công chứng đúng các quy định của pháp luật, từng bước xã hội hóa hoạt động công chứng”.



Trả lời: (Tại Công văn số 3185/BTP-VP ngày 08/9/2009)

Điều 2 Luật Công chứng năm 2006 quy định:công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.

Như vậy, Luật công chứng đã quy định thẩm quyền chứng nhận của công chứng viên rất rộng, đó là:

- Chứng nhận hợp đồng, giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải công chứng;

- Chứng nhận hợp đồng, giao dịch cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.

Trong quá trình triển khai thực hiện Luật Công chứng, cùng với chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng; thực hiện Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04/01/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng, Bộ Tư pháp đã chỉ đạo các địa phương xây dựng và ban hành Đề án phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở địa phương, ban hành Thông tư số 03/2008/TT-BTP ngày 25/8/2009 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP, trong đó hướng dẫn việc từng bước chuyển giao các hợp đồng, giao dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng. Thông tư 03 hướng dẫn tại điểm 8 như sau: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần thực hiện các biện pháp phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở địa phương; căn cứ vào tình hình phát triển của tổ chức hành nghề công chứng để quyết định giao các hợp đồng, giao dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện; trong trường hợp trên địa bàn huyện chưa có tổ chức hành nghề công chứng thì người tham gia hợp đồng, giao dịch được lựa chọn công chứng của tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn khác hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của pháp luật”. Hiện nay, nhiều tỉnh đã ra quyết định chuyển giao giao việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch sang các tổ chức hành nghề công chứng tại những địa bàn có tổ chức hành nghề công chứng1.

Tuy nhiên, việc chuyển giao các hợp đồng, giao dịch từ chứng thực sang công chứng còn gặp nhiều khó khăn, do phạm vi giữa công chứng và chứng thực mới được phân định theo quy định của Luật Công chứng nên nhiều địa phương còn e ngại, chưa chuyển giao các hợp đồng về nhà đất từ chứng thực sang công chứng; nhiều địa phương (nhất là các huyện, xã) chưa có tổ chức hành nghề công chứng nên chưa thể chuyển giao được; còn có sự hiểu không thống nhất giữa thuật ngữ “công chứng” và “công chứng nhà nước” được quy định trong Luật Đất đai năm 2003; sự phát triển mạng lưới tổ chức công chứng còn bất cập, chưa có quy hoạch từ đầu nên thiếu sự phát triển đồng bộ ở các địa bàn, không tạo ra sự thuận tiện cho người dân khi công chứng... do đó, trước mắt, vẫn cần thực hiện chứng thực ở những tỉnh chưa có điều kiện thuận lợi để chuyển giao.

Tại nhiều cuộc gặp mặt và làm việc với Lãnh đạo Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong năm 2008, 2009, Bộ Tư pháp đã nhiều lần đề nghị các địa phương tích cực thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng. Ngày 18/6/2009, Bộ Tư pháp cũng đã có Công văn số 1939/BTP-BTTP giải thích thuật ngữ “công chứng” và hướng dẫn việc từng bướng chuyển giao hợp đồng, giao dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng theo tinh thần điểm 8 Thông tư số 03/2008/TT-BTP.

Hiện nay, Bộ Tư pháp đang xây dựng Đề án Quy hoạch tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trong đó sẽ đưa ra những nguyên tắc, định hướng lớn về xây dựng mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng đủ sức đảm đương việc chứng nhận toàn bộ các hợp đồng, giao dịch của người dân.

3. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị:

Đề nghị Bộ giao cho Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố chủ động đặt in mẫu hộ tịch (theo quy định của Bộ) ở địa phương. Vì vừa qua Bộ giao cho nhà máy in của Bộ độc quyền in mẫu hộ tịch là chưa phù hợp, các biểu mẫu thường đến địa phương chậm và thiếu gây khó khăn cho quá trình tác nghiệp của ngành”.



Trả lời: (Tại Công văn số 3185/BTP-VP ngày 08/9/2009)

Thứ nhất, về ý kiến cho rằng Bộ Tư pháp giao cho nhà máy in của Bộ độc quyền in biểu mẫu hộ tịch:

Theo Quyết định số 01/2006/QĐ-BTP ngày 29/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch, việc phân cấp in biểu mẫu hộ tịch như sau:

- Bộ Tư pháp trực tiếp in và phát hành 16 loại biểu mẫu hộ tịch có hoa văn (bao gồm bản chính và bản sao) dùng cho 3 loại việc đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn, đăng ký khai tử;

- Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương in và phát hành 08 loại sổ và 41 loại biểu mẫu hộ tịch còn lại.

Việc phân cấp in biểu mẫu hộ tịch này căn cứ trên tầm quan trọng và yêu cầu thống nhất của biểu mẫu trên phạm vi toàn quốc mà có quy định loại nào do Bộ Tư pháp in, loại nào do Sở Tư pháp in. Đối với sổ, biểu mẫu hộ tịch phân cấp cho Sở Tư pháp in, Bộ Tư pháp gửi một bộ mẫu sổ, biểu mẫu hộ tịch để các Sở Tư pháp in và phát hành theo đúng hình thức và nội dung quy định (những mẫu sổ, biểu mẫu hộ tịch này cũng được đăng trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp để người dân, tổ chức có thể in và sử dụng). Mặt khác, Bộ Tư pháp không có nhà máy in riêng, việc tổ chức in, phát hành sổ, biểu mẫu hộ tịch được Bộ trưởng Bộ Tư pháp giao cho Nhà Xuất bản Tư pháp thực hiện đấu thầu theo quy định pháp luật hiện hành (Quyết định số 194/2005/QĐ-BTP ngày 04/4/2005 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp).

Như vậy, Bộ Tư pháp đã thực hiện phân cấp cho các địa phương in, phát hành nhiều biểu mẫu hộ tịch và tất cả các loại sổ hộ tịch mà không có tình trạng Bộ độc quyền in biểu mẫu hộ tịch theo ý kiến của cử tri.



Thứ hai, về ý kiến cho rằng Bộ Tư pháp cung cấp biểu mẫu hộ tịch cho địa phương chậm và thiếu:

Trong thời gian qua, việc in và phát hành biểu mẫu hộ tịch do Bộ Tư pháp thực hiện còn chậm và bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu địa phương ở những thời điểm nhất định vì những nguyên nhân chủ yếu sau: trên cơ sở dự báo của các địa phương về nhu cầu sử dụng biểu mẫu hộ tịch, Nhà xuất bản Tư pháp (trực thuộc Bộ Tư pháp) xây dựng Kế hoạch in biểu mẫu hộ tịch và tiến hành đấu thầu in theo quy định pháp luật. Do việc dự báo nhu cầu sử dụng biểu mẫu hộ tịch của một số địa phương không kịp thời, không nắm sát nhu cầu thực tế của địa phương hoặc có địa phương đăng ký nhu cầu biểu mẫu hộ tịch quá lớn so với yêu cầu thực tế của địa phương mình nên việc in ấn, điều hòa và cân đối số lượng phát hành biểu mẫu thường gặp khó khăn. Mặt khác, quy trình tổ chức đấu thầu in theo quy định pháp luật cần qua nhiều thủ tục (gửi thư mời thầu, đăng báo, nhận hồ sơ thầu, mở thầu, đánh giá kết quả, lựa chọn nhà thầu...) nên việc tổ chức in các biểu mẫu hộ tịch đôi khi bị chậm. Những nguyên nhân trên dẫn đến tình trạng thiếu biểu mẫu hộ tịch cục bộ ở một số địa phương trong năm 2008 và đầu năm 2009, nhất là đầu Quý I năm 2009, gây bức xúc cho cơ quan đăng ký hộ tịch và người dân.

Để phân công trách nhiệm của từng đơn vị có liên quan của Bộ Tư pháp và các Sở Tư pháp trong quá trình in, phát hành biểu mẫu hộ tịch, ngày 31/12/2008 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 2598/QĐ-BTP về Quy chế thực hiện việc in, phát hành biểu mẫu, sổ hộ tịch; đồng thời từ cuối Quý I năm 2009, Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã chỉ đạo Nhà Xuất bản Tư pháp nhanh chóng khắc phục tình trạng thiếu biểu mẫu hộ tịch nói trên. Từ tháng 5/2009 đến nay, tình trạng thiếu biểu mẫu hộ tịch cục bộ đã được giải quyết về cơ bản; các yêu cầu của địa phương về biểu mẫu hộ tịch đã được đáp ứng đầy đủ và kịp thời.

Thứ ba, về đề nghị Bộ Tư pháp giao cho Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố chủ động đặt in mẫu hộ tịch:

Để tạo chủ động cho các cơ quan đăng ký hộ tịch trong việc in, phát hành và sử dụng biểu mẫu hộ tịch, Bộ Tư pháp đang hoàn chỉnh Đề án in, phát hành sổ, biểu mẫu hộ tịch, trong đó tính đến việc phân cấp mạnh hơn nữa cho các địa phương tự in, phát hành phần lớn các loại biểu mẫu hộ tịch có hoa văn, kể cả bản sao Giấy khai sinh là loại biểu mẫu được sử dụng nhiều nhất; đối với các loại biểu mẫu hộ tịch không có hoa văn và các loại Tờ khai đăng ký hộ tịch sẽ được đăng tải trên Trang thủ tục hành chính, Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp để cơ quan đăng ký hộ tịch và người dân có thể tự truy cập để in và sử dụng. Bộ Tư pháp chỉ tập trung in sổ hộ tịch và một số bản chính giấy tờ hộ tịch quan trọng. Dự thảo Đề án đã được Bộ Tư pháp gửi lấy ý kiến tất cả các Sở Tư pháp. Bộ Tư pháp xin tiếp thu kiến nghị trên của cử trị và khẩn trương hoàn thành, ban hành Đề án này trong năm 2009.



4. Cử tri tỉnh Tây Ninh kiến nghị:

Liên quan đến vấn đề hộ tịch đề nghị Bộ xem xét lại quy định lấy nơi sinh của người cha làm nguyên quán cho những đứa trẻ mới sinh là không hợp lý, bởi vì có người nơi sinh đẻ không là nguyên quán nên khi con của họ lấy theo nơi sinh của cha làm nguyên quán là không phù hợp”.



Trả lời: (Tại Công văn số 3185/BTP-VP ngày 08/9/2009)

Giấy khai sinh phát hành trước đây có kèm theo hướng dẫn về việc ghi quê quán của trẻ "Ghi theo nơi sinh trưởng của cha đẻ; nếu không rõ cha đẻ là ai, thì theo nơi sinh trưởng của mẹ đẻ; trong trường hợp không xác định được cha, mẹ đẻ thì để trống". Nơi sinh trưởng ở đây được hiểu là nơi một người sinh ra lớn lên và trưởng thành (không chỉ là nơi sinh đẻ).

Hiện nay, khái niệm nguyên quán không được sử dụng khi đăng ký khai sinh kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 170/2007/NĐ-CP ngày 19/11/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 05/1999/NĐ-CP ngày 03/02/1999 của Chính phủ về Chứng minh nhân dân, trong đó quy định việc khai quê quán khi đăng ký. Việc khai quê quán cho con được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm e Khoản 1 Mục II Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch như sau: "Khi đăng ký khai sinh, họ và quê quán của con được xác định theo họ và quê quán của người cha hoặc họ và quê quán của người mẹ theo tập quán hoặc theo thỏa thuận của cha, mẹ. Trong trường hợp đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú, nếu không có quyết định công nhận việc nhận cha cho con, thì họ và quê quán của con được xác định theo họ và quê quán của người mẹ".

5. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị:

Đề nghị Bộ phối hợp với các Bộ, ngành liên quan ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định số 67/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 của Chính phủ, gồm các nội dung:



- Phí giám định tư pháp;

- Chế độ phụ cấp, bồi dưỡng cho người giám định tư pháp;

- Quy chuẩn chuyên viên ở các lĩnh vực giám định với tình hình thực tế hiện nay;

- Quy định việc cấp thẻ cho người giám định tư pháp theo việc nhằm tạo điều kiện pháp lý cho họ thực hiện nhiệm vụ được thuận lợi (hiện nay chỉ quy định công bố danh sách trên phương tiện thông tin đại chúng là chưa có cơ sở pháp lý dẫn đến khó khăn cho việc mời người giám định tư pháp theo vụ việc)”.

Trả lời: (Tại Công văn số 3185/BTP-VP ngày 08/9/2009)

Trong thời gian qua, việc hướng dẫn và triển khai thực hiện Pháp lệnh Giám định tư pháp và Nghị định số 67/2005/NĐ-CP ngày 19/5/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Giám định tư pháp là hết sức cần thiết, tuy nhiên, do Bộ Tư pháp chưa chủ động thực hiện vai trò đầu mối quản lý chung lĩnh vực này; mặt khác, việc hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Giám định tư pháp và Nghị định số 67/2005/NĐ-CP do nhiều Bộ, ngành phối hợp thực hiện không tích cực nên còn nhiều hạn chế chưa được khắc phục mà cử tri đã kiến nghị. Cụ thể như sau:



Thứ nhất, về hướng dẫn phí giám định tư pháp: thời gian qua, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng xây dựng Đề án về phí giám giám định pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự và đã có Công văn gửi Bộ Tài chính đề nghị ban hành văn bản về phí giám định tư pháp trong lĩnh vực pháp y. Tuy nhiên, cho đến nay Bộ Tài chính vẫn chưa ban hành văn bản này. Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục làm việc với Bộ Tài chính về vấn đề này.

Thứ hai, về hướng dẫn chế độ bồi dưỡng, phụ cấp giám định tư pháp:

+ Đối với chế độ bồi dưỡng: ngày 7/5/2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 74/2009/QĐ-TTg về chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2009. Hiện nay, Bộ Tư pháp đang phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ khẩn trương soạn thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện Quyết định 74/2009/QĐ-TTg.

+ Đối với chế độ phụ cấp trách nhiệm công việc giám định: trên cơ sở ý kiến thống nhất với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp đang hoàn thiện Thông tư hướng dẫn về chế độ phụ cấp trách nhiệm công việc giám định đối với giám định viên pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự theo quy định tại Điều 6 của Nghị định số 67/2005/NĐ-CP; dự kiến, Thông tư này sẽ được ban hành trong năm 2009.

Thứ ba, về quy chuẩn chuyên môn giám định tư pháp: theo quy định tại Điều 44 của Pháp lệnh Giám định tư pháp, thì Bộ Y tế, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ xây dựng các quy chuẩn chuyên môn về giám định tư pháp. Tuy nhiên, đến nay việc xây dựng và ban hành các quy chuẩn chuyên môn vẫn chưa được thực hiện. Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp sẽ làm việc với các Bộ, ngành có liên quan về vấn đề này.

Thứ tư, về kiến nghị quy định việc cấp thẻ cho người giám định tư pháp theo vụ việc: Theo quy định của Pháp lệnh Giám định tư pháp, Thẻ giám định viên tư pháp chỉ được cấp cho người được bổ nhiệm giám định viên tư pháp. Đối với người giám định tư pháp theo vụ việc thì Bộ Tư pháp lập và công bố danh sách theo đề nghị của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc TW.

Thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII (2007-2011) và năm 2008, Bộ Tư pháp đang phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng dự án Luật Giám định tư pháp và đề nghị Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; vấn đề cấp thẻ và việc tham gia thực hiện giám định tư pháp của người giám định tư pháp theo vụ việc sẽ được nghiên cứu trong quá trình xây dựng Luật này.



6. Cử tri tỉnh Sơn La kiến nghị:

Đề nghị Chính phủ có văn bản hướng dẫn thực hiện khoản 1, 2 Điều 2 Nghị định 91/2006/NĐ-CP ngày 06/9/2006 của Chính phủ về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, theo hướng bổ sung các loại văn bản thông thường được xây dựng bằng hình thức văn bản áp dụng pháp luật, để khắc phục việc ban hành sai thẩm quyền, nội dung không phù hợp, hạn chế nhầm lần giữa xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân”.



Trả lời: (Tại Công văn số 3185/BTP-VP ngày 08/9/2009)

Khoản 1 Điều 2 của Nghị định số 91/2006/NĐ-CP ngày 06/9/2006 của Chính phủ về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân đã giải thích khái niệm văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, trong đó đưa ra 4 tiêu chí để xác định văn bản nào là văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.

Khoản 2 Điều 2 của Nghị định số 91/2006/NĐ-CP quy định về những văn bản không phải là văn bản quy phạm pháp luật, trong đó liệt kê 9 loại văn bản của Hội đồng nhân dân, 6 loại văn bản của Ủy ban nhân dân; 9 loại văn bản của Chủ tịch Ủy ban nhân dân và Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân. Ngoài ra, khoản này còn có quy định “quét” về “những văn bản tương tự khác để giải quyết những vụ việc cụ thể đối với những đối tượng cụ thể” nhằm bao quát tất cả những loại văn bản khác không phải là văn bản quy phạm pháp luật mà Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân có thể ban hành.

Mặt khác, nếu liệt kê hết tất cả các loại văn bản áp dụng pháp luật do Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Thủ trưởng các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân ban hành thì sẽ rất nhiều và có thể làm hạn chế sự chủ động trong việc ban hành các văn bản bản áp dụng pháp luật khác không được liệt kê trong Luật. Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 cũng quy định rõ những loại văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân có thẩm quyền ban hành trong những trường hợp luật định; phân định rõ giữa ban hành văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật có cùng tên (như Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Quyết định của Ủy ban nhân dân).

Trong quá trình triển khai thực hiện Luật này cho thấy, Ủy ban nhân dân các cấp ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật vẫn chưa thống nhất (nhất là các Quyết định), các cơ quan tư pháp địa phương cũng chưa làm tốt vai trò tham mưu cho Ủy ban nhân dân các cấp ban hành văn bản đúng thẩm quyền.

Vì vậy, Bộ Tư pháp ghi nhận kiến nghị của cử tri và sẽ nghiên cứu, đề xuất bổ sung quy định về các loại văn bản áp dụng pháp luật khi sửa đổi, bổ sung Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân hoặc hợp nhất 02 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.



Каталог: UserControls -> ckfinder -> userfiles -> files
files -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> Phụ lục số 1 danh mục các văn bản hưỚng dẫn thi hành pháp luật về giao thôNG
files -> PHỤ LỤC 1 KẾt quả XỬ LÝ ĐƠN, thư CỦa uỷ ban tư pháp từ sau kỳ HỌp thứ SÁU ĐẾn truớc kỳ HỌp thứ BẢy quốc hội khóa XII
files -> Phần I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
files -> II. Các kiến nghị về chính sách đối với giáo viên
files -> BÁo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào tạo trong giáo dục đại học
files -> ĐỀ ÁN ĐỔi mới cơ chế TÀi chính giáo dục giai đOẠN 2009-2014

tải về 3.4 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   35   36   37   38   39   40   41   42   43




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương