Tu luật thánh biểN ĐỨc ngày 1 tháng 1



tải về 230.08 Kb.
trang3/3
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích230.08 Kb.
#13908
1   2   3

Ngày 21 tháng 1

 63 Hằng ngày hãy lấy việc làm mà chu toàn huấn lệnh Chúa. 64 Yêu thích khiết tịnh. 65 Đừng ghét ai. 66 Không ghen tương, 67 không phân bì. 68 Đừng ưa tranh tụng. 69 Tránh tự kiêu. 70 Kính trọng người già, 71 yêu thương người trẻ. 72 Vì lòng mến Chúa Kitô, hãy cầu nguyện cho kẻ thù nghịch. 73 Làm hoà với người bất thuận trước khi mặt trời lặn. 74 Và chớ bao giờ thất vọng về lòng thương xót Chúa.



75 Đó là những dụng cụ trong nghệ thuật thiêng liêng. 76 Nếu ngày đêm chúng ta không ngừng đem ra sử dụng, và đến ngày chung thẩm chúng ta hoàn lại cho Chúa, thì Chúa sẽ ban cho chúng ta phần thưởng chính Người đã hứa: 77 “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người”. 78 Còn xưởng thợ nơi chúng ta cần mẫn sử dụng các dụng cụ ấy, chính là nội vi đan viện và lời khấn bền đỗ trong cộng đoàn .

 

1.Có thể có nhiều động lực thúc đẩy chúng ta trong suốt cuộc đời đan tu, nhưng chỉ có một động lực duy nhất có khả năng giúp chúng ta “cầu nguyện cho kẻ thù” như thánh Biển Đức nói ở c.72, đó là “lòng yêu mến Chúa Kitô”. Quả thực, có một làn ranh, qua làn ranh đó thì thiện chí cao nhất, nhẫn nại kiên cường nhất, lòng thương cảm tha thiết nhất cũng vẫn không đủ. Bên kia làn ranh đó chỉ có tình yêu mới đáng kể mà thôi.



2. Đạt tới được tình yêu này đôi khi giống như là đi vào hỏa ngục vậy. Vì đó là con đương từ bỏ thực sự mà những lý lẽ dù hay tới đâu, những tình cảm dù cao thượng chừng nào cũng không đứng vững được. Cái đầu và con tim không còn tác dụng gì, mà chỉ là trống rỗng, có cũng như không. Sau cùng thì chúng ta sẽ mỏi mòn kiệt quệ và chịu đựng hết nổi. Nhưng cũng nhờ vậy mà chúng ta nhận ra được thực tế. Tất cả đều sụp đổ.

3. Tất cả chăng? Không hẳn vậy, vì khi Thiên Chúa cho chúng ta cảm nghiệm được sự sụp đổ nơi mình, thì không phải là để khiến chúng ta hóa thành tro bụi. Cái đổ vỡ ấy thực ra chỉ là cái vỏ bọc ngoài, có nguy cơ khiến chúng ta náu ẩn yên hàn trong đó mà không còn muốn đi xa hơn nữa. Origênê nói rằng mối nguy lớn nhất rình rập cuộc sống thiêng liêng của ta đó là sự thỏa mãn, sự đầy đủ. Đó là cảm giác mình đã đạt ý nguyện, đã có được địa vị vững chắc, có chỗ đứng yên ổn dưới ánh mặt trời.

4. Rủi thay, hoặc phúc thay cho chúng ta, Thiên Chúa không bằng lòng với điều đó. Ngài biết chúng ta lớn hơn lòng chúng ta. Vì thế ngài đẩy chúng ta vào cảnh rối loạn để nếu chúng ta chấp nhận bị rơi vào, chúng ta có thể cảm nghiệm được thế nào là sống vì yêu mến Chúa Kitô. Trong tình trạng trái ngược ấy tất cả đều có thể, ngay cả cầu nguyện cho kẻ thù.

Chương 5


ĐỨC VÂNG PHỤC

 

Ngày 22 tháng 1



1 Vâng phục không chậm trễ là bước đầu của đức khiêm tốn. 2 Đó là nhân đức của những người không quý chuộng gì hơn Chúa Kitô. 3 Vì nghĩa vụ thánh mà họ đã khấn hứa, hay vì sợ hoả ngục hoặc mong ước sự sống muôn đời, 4 nên lệnh trên vừa ban ra, họ coi như từ Thiên Chúa, và thi hành tức khắc không chút do dự . 5 Chính vì thế mà Chúa đã phán: “Tai vừa nghe, chúng đã vâng lời Ta”. 6 Với những người giảng dạy Chúa còn phán : “Ai nghe các con là nghe Thầy”. 7 Những người như thế họ bỏ ngay công việc cá nhân và từ khước ý riêng, 8 lập tức những gì đang cầm trong tay và công việc còn đang dở họ cũng bỏ để nhanh chân thi hành lệnh trên, 9 đến nỗi lệnh thầy truyền và việc môn đệ thi hành đều hoàn tất mau lẹ như cả hai cùng xong một trật, vì cả thầy lẫn môn đệ cùng có lòng kinh sợ Chúa.

10 Đó là những kẻ đang hăm hở tiến vào sự sống muôn đời. 11 Vì thế họ dành lấy con đường hẹp mà Chúa đã nói : “Đường dẫn đến sự sống là đường hẹp”. 12 Bởi lẽ họ không còn sống theo ý mình, hay chiều theo dục vọng và sở thích riêng, nhưng bước đi theo phán quyết và mệnh lệnh người khác. Sống trong đan viện, họ chỉ mong tùng phục viện phụ. 13 Những người như thế, chắc chắn đã theo đúng lời Chúa dạy: “Tôi không đến để làm theo ý Tôi, nhưng là theo ý Đấng đã sai Tôi”.

               

1. Cấu trúc của đoạn văn này rất hay. Thánh Biển Đức bắt đầu bằng cách nêu lên một châm ngôn, ở c.1: “bậc thứ nhất đức khiêm nhường là vâng lời không chậm trễ”. Rồi trong các câu 2 và 3 ngài đưa ra lý do. Sau cùng, từ c.4 đến c.9, thánh Biển Đức mô tả thế nào là vâng lời không chậm trễ, và sau cùng, từ c.10 đến c.13, ngài nhắc lại những lý do của việc vâng lời này.

2. Điều đáng ngạc nhiên là thánh Biển Đức chỉ giữ lại một trong những lý do ngài đã nêu ra. Thực vậy, nếu từ ban đầu ngài nói: “Không quí gì hơn Chúa Kitô” (c.2), thì điều đó là do “nghĩa vụ thánh đã khấn hứa”, do “sợ hỏa ngục” hay vì “vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu” (c.3). Ở cuối đoạn này ngài chỉ còn giữ lại “lòng khao khát ước muốn sống đời đời” khiến ta “noi gương Chúa” (c.10 và c.13). “Sự sợ hỏa ngục” hay những nghĩa vụ do lời khấn đan tu đã tác động ta một lúc nào đó thì nay không còn nữa.

3. Như vậy, việc vâng lời bắt nguồn từ khát vọng sâu xa muốn được vào Nước Thiên Chúa, một khát vọng đã đưa tất cả vào trật tự. Điều giúp ta vâng lời, điều khiến ta dễ dàng vâng lời và muốn vâng lời đó là thang giá trị đã thay đổi, lòng chúng ta đã thay đổi cách sâu xa nhất. Nếu không, chúng ta sẽ luôn luôn tìm được lý do để làm điều mình muốn và để khỏi phải vâng lời.

4. Vậy là vâng lời trở thành vâng lời thực sự. Không phải là suy phục ý muốn của con người, nhưng là noi gương Chúa Kitô, là đi theo Chúa Kitô. Trong đời sống đan tu, ta không vâng lời vì sợ hay vì tư lợi hoặc để được yên thân, nhưng để trở nên như Chúa Kitô, để được biến đổi nên giống ngài.





Ngày 23 tháng 1

14 Nhưng đức vâng phục này chỉ được Chúa vui nhận và vừa lòng mọi người, khi lệnh truyền được thi hành một cách điềm tĩnh, không chậm trễ, không lãnh đạm, hoặc cằn nhằn phản đối. 15 Vì vâng lời bề trên là vâng lời Thiên Chúa. Bởi chính Người đã phán : “Ai nghe các con là nghe Thầy”. 16 Vậy môn đệ phải vâng lời với lất cả hảo tâm, “vì ai vui vẻ dâng hiến thì được Thiên Chúa yêu thương”. 17 Còn nếu môn đệ vâng lời miễn cưỡng và phàn nàn, không những ngoài miệng mà cả trong lòng, 18 thì dù có làm đúng lệnh truyền vẫn không thể đẹp lòng Chúa, vì Người thấu suốt tận đáy lòng kẻ kêu trách. 19 Vâng lời như thế không được ơn ích gì, lại liều mình chuốc lấy hình phạt dành cho hạng người kêu trách, nếu không sửa mình và đền tội.

 

1. Với thánh Biển Đức, vâng lời thôi chưa đủ, nhưng còn phải vâng lời cách vui vẻ. Đó là một đòi hỏi vượt quá sức chúng ta. Thực vậy, vui thế nào được khi điều người ta bảo làm chúng ta lại không thích? Làm sao cho người khác vui vẻ mà vâng lời?



2. Trước hết phải vượt qua được hai cái bẫy của việc vâng lời. Cái bẫy thứ nhất là vâng lời vì không thể làm cách khác được, vì từ chối thì không an tâm. Vâng lời như thế phần nào có tính cách hình thức để cho được yên thân, nhưng chẳng giúp ta nên tốt lành hơn. Ngược lại, cái bẫy thứ hai là vâng lời cách miễn cưỡng. Có những người hóa bệnh vì phải vâng lời, và luôn làm trái với lệnh truyền, hay ít là tỏ ra cực chẳng đã thì phải vâng khi không thực hiện lệnh truyền đến nơi đến chốn.

3. Chúng ta đều đã có kinh nghiệm về một trong những kiểu vâng lời bệnh hoạn này. Đó là một kinh nghiệm cần phải có trước khi khám phá thế nào là vâng lời vui vẻ như thánh Biển Đức nói, nghĩa là vâng lời mà không phải vì sợ bề trên buồn hay vì muốn làm vui lòng bề trên. Những làm sao để có thể vui vẻ mà vâng lời được?

4. Thánh Biển Đức trả lời cho ta bằng những trích dẫn rất ngắn từ Tân ước: Lc 10,16: “Ai nghe các con là nghe Thầy”, và 2 Cr 9,7: “Thiên Chúa yêu thích người nào vui vẻ mà cho”. Với thánh Biển Đức thì, một cách nào đó, vui vẻ mà cho bao giờ cũng là một việc tạ ơn vì điều mình đã lãnh nhận, như lãnh nhận lời Chúa Kitô (ai nghe các con là nghe Thầy), lãnh nhận được tình yêu của Thiên Chúa (Thiên Chúa yêu thích người nào vui vẻ mà cho). Chỉ ai biết lãnh nhận lời đó như lời Chúa Kitô sẽ  được tràn đầy tình yêu Thiên Chúa và sẽ có thể vui vẻ mà cho. Với thánh Biển Đức, vâng lời là lắng nghe Chúa Kitô suốt cả cuộc đời.

Chương 6


SỰ NÍN LẶNG

 

Ngày 24 tháng 1

 1 Chúng ta hãy thi hành theo lời ngôn sứ : “Tôi đã nói mình phải giữ gìn trong nếp sống, để khi ăn nói khỏi lỗi lầm, nên miệng tôi quyết ngậm tăm, tôi câm lặng làm thinh chẳng hé môi, im lặng cả những điều hay điều tốt”. 2 Qua đó, vị ngôn sứ tỏ cho ta thấy, vì quí trọng sự nín lặng, mà đôi khi phải làm thinh cả những lời lành; phương chi đối với những chuyện hư từ, càng phải tránh để khỏi bị phạt vì tội.

3 Vì sự nín lặng quan trọng như thế, nên ngay cả những môn đệ trọn lành, cũng ít khi được phép nói những lời lành thánh và xây dựng, 4 vì có lời chép : “Nói nhiều không tránh khỏi tội”. 5 Và nơi khác : “Sống chết cả đầu lưỡi”. 6 Thực ra, nói năng dạy dỗ là việc của thầy, còn môn đệ thì im lặng mà nghe.

7 Bởi đó, nếu phải thưa trình bề trên việc gì, hãy trình bày với tất cả lòng khiêm tốn, kính cẩn và tùng phục. 8 Còn những chuyện bông dùa, những lời phù phiếm khôi hài, bất cứ ở đâu và lúc nào, cha đều lên án và cha không hề cho phép môn đệ mở miệng nói những lời như thế.

 

1. Với thánh Biển Đức, đây chưa phải là yêu thích nín lặng, nhưng là giữ miệng không nói. Ngài nhấn mạnh điều đó khi trích dẫn ba câu Thánh Kinh: Tv 38,2-3; Tv 10,19; Tv18,21. Ngài nêu rõ tương quan giữa lời nói và sự nín lặng bằng hai nhóm từ ở c.3: “sự quan trọng của nín lặng” và “được phép nói”. Và ở c.7, ngài không đặt lời nói đối nghịch với sự nín lặng nhưng với lòng khiêm tốn: “Nếu phải thưa trình bề trên việc gì, hãy trình bày với tất cả lòng khiêm tốn và kính cẩn tùng phục”.



2. Tôi muốn trở lại với sự đối nghịch cơ bản mà thánh Biển Đức diễn tả bằng những từ “sự quan trọng của nín lặng” và “được phép nói”. Từ “sự quan trọng” trong tiếng la tinh diễn tả sức nặng, đó là cái trọng tâm, cái mà hữu thể hướng chiều về. Còn từ “được phép” nêu lên ý tưởng về nhượng bộ.

3. Cơ bản thì tôi nghĩ rằng nín lặng, đúng ra là việc không nói trước, diễn tả thái độ của người môn đệ lắng nghe lời nội tâm. Đây là nói về chất lượng của chú ý, của sự thức tỉnh nơi trí năng nội tâm rộng mở để nghe mọi lời “từ miệng Thiên Chúa phán ra”.

4. Chính vì thế thánh Biển Đức không đặt lời nói đối nghịch với thinh lặng, nhưng với lòng khiêm tốn. Ta từ chối nghe, vì ta tưởng mình nắm được chân lý rồi, đó là kiêu ngạo; trong khi mà chân lý là một Đấng khác, là chính Chúa Kitô. Điều thánh Biển Đức không thể chấp nhận đó là từ chối nghe Lời.

Chương 7


ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG

 

Ngày 25 tháng 1

 l Thưa anh em, Thánh Kinh kêu gọi chúng ta : “ Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. 2 Nói thế, Thánh Kinh tỏ cho chúng ta thấy mọi cách đưa mình lên đều là một thứ kiêu ngạo. 3 Đó là điều ngôn sứ tuyên bố tự đề phòng, khi nói : “Lòng con không dám tự cao, mắt con không dám tự hào, Chúa ơi. Đường cao vọng chẳng đời nào bước. Việc diệu kỳ vượt sức chẳng cầu”. 4 Nếu con không tự khiêm, lại muốn tự cao tự đại, thì sẽ ra sao? Như đứa trẻ bị dứt ra khỏi dòng sữa mẹ, Thiên Chúa cũng sẽ xử với hồn con như thế.

                        

1. Cao và thấp là những chiều căn bản của khoa địa lý thiêng liêng, như ở trong và ở ngoài, đàng trước, đàng sau, hay bề sâu và bề mặt. Hành trình thiêng liêng cũng giống như một hải trình trong đó con tầu phải tìm ra đường khi nghiên cứu các hướng đi khác nhau. Bước tiến thiêng liêng diễn ra trong một loại không gian ba chiều, trong đó thời gian trở thành chiều thứ tư.

2. Nhưng khoa địa lý thiêng liêng có những qui luật riêng mà ta phải biết đến. Ở đầu chương 7 này, thánh Biển Đức nêu lên qui luật cơ bản: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”. Qui luật này có thể làm ta ngạc nhiên, vì đời sống đan tu được coi là một cuộc tìm kiếm Thiên Chúa, tìm Đấng Tuyệt đối, một khát mong nên hoàn thiện. Như vậy rõ ràng là chúng ta phải vươn lên rồi.

3. Và quả thực là đúng như vậy. Trong đời sống đan tu, chúng ta bảo rằng mình đi tìm Chúa, nhưng chúng ta lại thấy mình đứng trước những giới hạn nhỏ hẹp của mình. Chúng ta tuyên bố những điều lớn lao lắm, nhưng lại vấp phải một chi tiết nhỏ nhặt trong đời sống chung. Cứ mỗi khi chúng ta tìm cách vươn lên cao là lại gặp phải toàn những điều tầm thường nhỏ mọn.

4. Đúng như vậy, và thật là hay. Điều đó chẳng vô ích tí nào. Mà hoàn toàn ngược lại. Vì cốt yếu là phải khám phá ra rằng những khát vọng lớn lao để dẫn đưa chúng ta tới Chúa luôn luôn phải trải qua một cuộc tự hủy. Những khát vọng ấy phải được thanh tẩy khỏi tất cả những gì thúc đẩy ta đi tìm mình, tìm hư danh, tự phụ. Chúng cần phải được thanh tẩy trong lò luyện cuộc đời, để trở nên vô cùng tốt đẹp hơn cho chúng ta. Điều đó không tùy thuộc ở ta, nhưng là hồng ân của Thiên Chúa. Vậy ta hãy khát vọng lên lao, nhưng bằng cách đi qua vực thẳm.





Ngày 26 tháng 1

 5 Vì vậy, thưa anh em, nếu muốn đạt đỉnh cao của đức khiêm nhường trọn hảo và mau vươn tới cõi trời cao bằng cuộc sống khiêm nhường ở đời này, 6 chúng ta hãy lấy việc làm dựng thành cái thang mà leo lên, như chiếc thang đã hiện ra cho ông Giacóp trong giấc mộng. Trên thang đó ông thấy các thiên thần lên lên xuống xuống. 7 Theo cha, lên xuống như thế chắc chắn phải hiểu: tự cao là đi xuống, tự hạ là đi lên. 8  Chiếc thang được dựng lên đó chính là đời tạm này. Nhờ lòng khiêm nhường, nó sẽ được Chúa nâng lên tận trời cao. 9 Hai đọc thang, theo cha hiểu chính là xác và hồn ta. Trên đó tiếng gọi thần linh đã sắp sẵn nhiều bậc khiêm nhường và kỷ luật để chúng ta leo lên.

                          

1. Hình ảnh thánh Biển Đức dùng để nói về cây thang có vẻ hơi đặc biệt. Hai thành của cây thang là xác và hồn, và những thanh ngang nối kết hai thành lại là những bậc khiêm nhường. Điếu ấy có nghĩa là khiêm nhường liên hệ đến tâm hồn, nhưng cũng liên hệ đến thân xác nữa.

2. Khi còn là đan sĩ trẻ, tôi nhớ ngày nọ thầy quản lý công việc tới sở làm phô mai. Thấy một anh em đang sơn cây thang đã bị mọt nhiều, thầy bắt anh đi lấy cưa rồi cưa bỏ hết các thanh ngang của cây thang. Sau cùng, cây thang không còn nữa nhưng chỉ còn hai khúc gỗ vô dụng.

3. Để giúp ta leo lên thang, các thanh ngang phải cùng nhau giữ chắc hai thành dọc của cây thang. Với thánh Biển Đức, lòng khiêm tốn hệ tại ở việc tìm lại được sự liên kết sâu xa giữa hồn và xác. Chỉ người nào đã tìm lại được sự thống nhất sâu xa nơi mình mới có thể đi lên với Chúa.

4. Như vậy, khiêm nhường là nơi chốn thiêng liêng, ở đó bản thân người đan sĩ dần dần trở nên thống nhất. Khiêm tốn liên hệ đến tâm hồn, trái tim, nhưng cũng đến cả thân xác cùng với những xúc cảm, ước muốn và nhận thức của nó nữa. Người khiêm tốn là người sẽ có khả năng nghe được lòng mình nhưng cũng có khả năng tôn trọng thân xác mình.

5. Tôi nghĩ rằng một trong những mâu thuẫn lớn của đời sống thiêng liêng đó là thay vì làm cho chúng ta thành thiên thần, những tạo vật phi thể xác, đời sống ấy dẫn đưa chúng ta tới chỗ trở nên trọn vẹn là những con người.





Ngày 27 tháng 1

 10 Vậy bậc khiêm nhường thứ nhất là luôn đặt trước mắt lòng kính sợ Chúa, chẳng bao giờ dám quên, 11 và hằng nhớ mọi điều Chúa truyền, không ngừng tâm niệm rằng những kẻ khinh thị Chúa sẽ bị phạt vì tội trong hoả ngục làm sao, còn kẻ kính sợ Chúa sẽ được phúc trường sinh Chúa sắm cho thế nào. 12 Trong mọi giây phút lo giữ mình khỏi tội lỗi và các nết hư do tư tưởng, miệng lưỡi, tay chân và ý riêng, cả đến những thèm muốn xác thịt. 13 Mỗi người hãy nên nhớ rằng từ trời cao Chúa luôn nhìn xem mình, và dù ở đâu, lúc nào và làm gì, Chúa đều nhìn thấy hết, lại có các thiên thần không ngừng tường trình lên Chúa. 14 Để chứng minh điều đó, vị ngôn sứ cho chúng ta hay lúc nào Thiên Chúa cũng hiện diện trong tư tưởng chúng ta. Ngài nói: “Chúa dò thấu lòng dạ chúng ta”. 15 Lại rằng: “Chúa biết rõ tư tưởng con người”. 16 Ngôn sứ lại nói: “Con nghĩ tưởng gì, Ngài thông suốt từ xa”. 17 Và “Tư tưởng phàm nhân sẽ phơi bày trước mắt Chúa”. 18 Muốn giữ mình khỏi những tư tưởng xấu xa, đan sĩ chân tu luôn tâm niệm : “Chỉ khi nào  giữ mình khỏi điều gian ác tôi mới được trong sạch trước nhan Ngài”.

 

1. Các bậc khiêm nhường không phải là những giai đoạn chúng ta đi qua một lần là xong, như thể đi từ bậc thứ nhất tới bậc thứ hai. Thực ra, một cách nào đó, chúng ta chẳng bao giờ đi hết được bậc thứ nhất. Nhưng chính khi sống bậc thứ nhất mà chúng ta sẽ dần dần khám phá ra chiều kích thứ hai, thứ ba và thứ mười hai của bậc thứ nhất này. Như thế, các bậc khiêm nhường cũng giống như các mặt của một viên đá quí, mặt nọ phải cần đến mặt kia.



2. Chính vì thế, thánh Biển Đức đặt bậc khiêm nhường thứ nhất ở chỗ đầu tiên, như cửa đi vào. Và chúng ta sẽ thấy bậc này vô cùng phong phú, vì được chia ra để đọc và giải thích trong ba buổi. Đoạn văn của ngày hôm nay nêu lên cội rễ, nền tảng của đức khiêm nhường, đó là “sống trước sự hiện diện của Chúa”.

3. Như vậy, lòng khiêm nhường được xây dựng trên ý thức về một Đấng Khác đang ở trong cuộc sống của tôi, ngài nghĩ đến tôi, ngài nhìn xem tôi mọi lúc, ngài yêu thương tôi. Một Đấng Khác không vô tình lãnh đạm với những gì xẩy đến cho tôi, những gì tôi làm, nhưng ngài tin tưởng nơi tôi. Tôi không ở một mình.

4. Thánh Biển Đức diễn tả thực tại này bằng nhiều trưng dẫn Thánh Kinh để cho thấy rằng khiêm nhường là thành phần của mạc khải kitô giáo. Khiêm nhường khiến tôi kinh nhạc nhận ra rằng tôi không đơn độc, rằng đời tôi có gía trị, rằng một Đấng Khác đang chờ đợi nơi tôi một điều gì đó. Hay đúng hơn, ngài chờ đợi tôi trở thành một ai đó khi thoát ra khỏi cái vỏ sò bản ngã nhỏ hẹp của tôi. Vì chỉ cái nhìn của một Đấng Khác mới có thể giúp tôi một ngày nào đó đạt tới được ơn gọi làm người của tôi.



Ngày 28 tháng 1

 19 Còn về ý riêng, cha cấm không được chiều theo. Vì Thánh Kinh dạy rằng: “Ý riêng con, con hãy từ bỏ”. 20 Vả lại trong Kinh Lạy Cha chúng ta vẫn xin Thiên Chúa cho ý Ngài thực hiện nơi ta. 21 Vì thế Thánh Kinh dạy chúng ta đừng theo ý riêng là rất có lý, nếu chúng ta lưu tâm đến lời Thánh Kinh: “Có những con đường người ta coi là ngay thẳng, mà cuối đường lại đưa xuống đây hỏa ngục”. 22 Lại nhờ đó, chúng ta tránh khỏi điều đã viết về những người chểnh mảng rằng: “Chúng đã ra đồi bại ghê tởm trong ước muốn của chúng”. 23 Còn về những ham muốn xác thịt ta hãy xác tín rằng Chúa hằng ở trước mặt ta như lời vị ngôn sứ đã thưa cùng Chúa: “Mọi ước muốn của con đều bày ra trước mắt Ngài”.

                       

1. Trong đoạn này của bậc khiêm nhường thứ nhất, thánh Biển Đức bàn đặc biệt về điều mà truyền thống thiêng liêng gọi là ý riêng. Ngài thiết lập mối tương quan giữa ba yếu tố căn bản của tinh thần con người: ý chí (c.19), ước muốn (c.23) và óc phân định (c.21). Động lực của ý chí chính là ước muốn. Như vậy, vấn đề là mức độ phân định ước muốn.

2. Ai có thể cho rằng mình đủ khả năng phân định xem ước muốn của mình hướng mình về Chúa hay về sự dữ? Làm sao biết được ước muốn của ta hướng ta tới điều thiện hay điều ác? Mù tịt về bản thân mình, chúng ta không có khả năng thấy rõ được những chuyện đó. Chính vì vậy, noi theo truyền thống đan tu, thánh Biển Đức chọn sự từ bỏ chính mình như giai đoạn thứ nhất trong việc trở về với Thiên Chúa, bằng cách xa lánh ý riêng để đi vào đường vâng phục.

3.Vâng phục là tuyệt đối cần thiết, nếu chúng ta mong muốn một ngày kia nhìn thấy rõ được lòng mình. Những phản ứng, những kháng cự, những sợ hãi của chúng ta sẽ dậy chúng ta nhiều hơn gấp bội những lời biện bạch để được làm điều mình muốn. Khi nhận ra nơi lòng mình sự cứng cỏi như dấu chỉ cho thấy ta đang dính bén với ý riêng, thay vì tìm cách biện hộ cho mình hay tố cáo người khác, thì đó là lúc chúng ta dám nhìn vào điều đang xẩy ra, là lúc chúng ta trở nên sáng suốt hơn một chút về mình.

4. Theo nghĩa đó, vâng phục là một ơn đặc biệt, vì nó giúp ta mở mắt ra để nhìn thấy mình cách rõ ràng hơn mọi thứ phân tích nào khác. Mà biết mình là cơ sở của khiêm tốn, vì khiêm tốn là sự thật. Có lẽ tôi phải theo ý nghĩa này khi giải thích chương 2, khi thánh Biển Đức nhắc cho viện phụ rằng ngài phải trả lẽ về sự vâng phục của những ai đã được giao phó cho ngài. Đôi khi thật là dễ dàng nếu để anh em làm theo ý riêng của họ. Điều đó tránh được những xung đột, nhưng lại chẳng giúp ích gì cho ai.



Ngày 29 tháng 1

 24 Thế nên ta phải cảnh giác những ước muốn xấu xa, vì cái chết rình chờ bên cửa lạc thú. 25 Bởi vậy, Thánh Kinh dạy rằng: “Con đừng chạy theo nhục dục”. 26 Vậy nếu con mắt Chúa hằng theo dõi người lành kẻ dữ 27 và từ trên cao, Chúa hằng quan sát con cái loài người xem có ai hiểu biết và tìm kiếm Chúa, 28 nếu các thiên thần được ủy thác coi sóc chúng ta ngày đêm tường trình lên Chúa mọi công việc ta làm, 29 thì, thưa anh em, mọi giờ phút chúng ta phải cảnh giác, như ngôn sứ nói trong Thánh vịnh, kẻo có lúc nào Chúa bắt gặp chúng ta đang chiều theo sự dữ và trở thành vô dụng. 30 Giờ đây Chúa còn dung thứ vì Ngài nhân từ và chờ ta hoán cải nên tốt hơn, kẻo mai ngày Chúa sẽ bảo ta: “Ngươi sống như thế mà Ta đã làm thinh”.

                        

1. Đoạn này tóm kết bậc thứ nhất đức khiêm nhường. Bậc thứ nhất này có hai mặt được thánh Biển Đức quảng diễn như sau: Trước hết đặt trước mắt lòng kính sợ Chúa và đừng bao giờ quên (c.10-18). Thứ hai là tránh theo ý riêng (c.19-23), điều này đã nói ở chương 5 về đức vâng lời. Phần tóm kết này nhắc lại điểm thứ nhất trong khi liên kết với điểm thứ hai, vì có mối liên hệ giữa việc tưởng nhớ đến Chúa và việc từ bỏ ý riêng, từ bỏ những ước muốn lôi kéo lòng người.

2. Trong việc đó, thánh Biển Đức theo giáo thuyết của Cassianô về linh hồn con người. Cassianô so sánh linh hồn con người với một cái cối xay lúa không thể ngừng quay. Nếu không cho nó những tư tưởng tốt để nó xay, nó sẽ xay tất cả những gì thâm nhập vào nó, những ham muốn xác thịt, những tư tưởng về hư danh, về ý riêng.

3. Đó là bậc thứ nhất, là thách đố thứ nhất trên đường về với Chúa. Đây là lúc phải xay những thứ hạt tốt. Đó là lý do khiến  các linh phụ và sau là Cassianô nghĩ rằng phải cung cấp hạt tốt cho cái cối xay ấy, phải cho nó những thứ hạt tốt để nó xay.

4. Vì thế các ngài coi lectio divina là việc quan trọng theo hai hình thức: đọc Thánh Kinh, và đọc thuộc lòng các thánh vịnh, các lời kinh, như kinh Mân côi chẳng hạn, được dệt bằng những sự kiện trong Thánh Kinh. Điều này dần dần sẽ tạo nên trong ta một thói quen thầm thĩ đọc Lời Chúa, giúp cho tâm trí ta giữ được thinh lặng đích thực. Đó là một cuộc tái tạo mà ta được dự phần, và một ngày nào đấy, ơn Chúa sẽ soi chiếu và biến đổi, bằng cách thu hút chúng ta từ trong nơi sâu thẳm nhất của bản thân chúng ta và mặc khải cho chúng ta những mầu nhiệm dấu ẩn của Kinh Thánh.



Ngày 30 tháng 1

 3l Bậc khiêm nhường thứ hai là không yêu thích ý riêng, không tìm thỏa mãn ước muốn của mình, 32 nhưng mọi hành động hãy theo Lời Chúa: “Tôi không đến để làm theo ý Tôi mà là ý Ðấng đã sai Tôi”. 33 Thánh Kinh cũng nói rằng: “Lạc thú chuốc lấy hình phạt, phấn đấu tạo kết  triều Thiên”.

                          

1. Trong tiếng la tinh, từ “proprius” (riêng tư) có liên hệ gần với hai từ “prope” nghĩa là “ở bên”, “gần”, và từ “proprietas” nghĩa là “của riêng”. Như vậy, thành ngữ “ý riêng” bao hàm cả hai nghĩa này: cái gì gần ta nhất, cái làm cho ta thành một hữu thể đặc thù, cá biệt, và cái gì ta sở hữu, là của riêng ta.

2. Ta hiểu được tại sao tự do thường được liên kết với ý riêng. Khi ấy tự do sẽ là khả năng ở gần bên mình nhất, sống tính xác thực của bản thân mình, biểu lộ tính đặc thù, cá biệt của mình, khả năng có thể hưởng thụ lợi ích riêng, tài sản riêng.

3. Tuy nhiên, truyền thống thiêng liêng luôn luôn chiến đấu chống lại ý riêng, như thánh Biển Đức nói trong bậc khiêm nhường thứ hai này. Như vậy, phải chăng đời sống thiêng liêng là một hình thức áp chế đã lạc hậu, một kiểu nô lệ hóa và tước đoạt tự do của con người?

4. Vấn nạn ấy người ta rất thường nêu lên để chống Giáo hội. Nhưng phải nói ngược lại mới đúng. Quả thực, để giúp con người tìm lại được tự do, thoát khỏi dục vọng, tội lỗi, khỏi những ước muốn thác loạn và sự mù quáng, Thiên Chúa đã mở cho ta con đường vâng phục. Vâng phục không phải là đánh mất căn tính của mình, nhưng trái lại để gặp được căn tính đích thực khi xa tránh tất cả những cái “tôi” sai lạc ngăn cản ta trở nên chính mình. Vì cái tôi đích thực, ẩn khuất, dấu kín nơi chúng ta chính là căn tính đích thực của ta, tự do thật của ta. Mọi sự khác đều giả dối hết.



Ngày 31 tháng 1

 34 Bậc khiêm nhường thứ ba là vì yêu mến Chúa, ta hết lòng tùng phục người trên theo gương Chúa, như lời thánh Tông đồ nói về Người: “Người đã vâng phục cho đến chết”.

1.Với thánh Biển Đức, cũng như với tác giả Thư Êphêsô, khiêm nhường là dấu chỉ của sự lớn lao, là ấn tích của điều cao cả đích thực. Ở đây thánh Biển Đức nêu lên ba đặc điểm cơ bản của khiêm nhường, có thể áp dụng cho mỗi người chúng ta.

2. Trước hết khiêm nhường là vâng phục, nghĩa là khả năng coi người khác, bề trên cũng như anh em, mỗi người anh em, là người có thể nói với ta một lời đến từ Thiên Chúa. Đặc tính cơ bản của khiêm nhường là lắng nghe, mà không hề có thành kiến về người khác, chỉ vì họ khác với ta.

3. Đặc điểm thứ hai của khiêm nhường là ta không thể khiêm nhường nếu không yêu mến Chúa. Nếu ta lắng nghe chính là vì ta khao khát Lời đến với ta từ nơi khác, bên ngoài bản thân ta, vì ta khám phá ra rằng nguồn mạch sâu xa của hữu thể ta là ở nơi Đấng Khác.

4. Đặc điểm thứ ba được thánh Biển Đức đề cao là theo gương Chúa Kitô: trở nên hình ảnh Chúa Kitô và nên giống như ngài.

5. Lắng nghe, yêu mến, hình ảnh. Chỉ ba từ đó đã đủ để làm nên một cuộc đời mà tâm điểm được đặt nơi Thiên Chúa chứ không phải nơi mình nữa.




Каталог: wp-content -> uploads -> downloads -> 2011
2011 -> CÔng đỒng vatican II qua bốn thập niêN
2011 -> TÒa giám mục xã ĐOÀi chỉ nam giáo phận vinh lưỢC ĐỒ TỔng quáT
2011 -> 1. phép lạ thánh thể ĐẦu tiên khoảng năm 700 Tại làng Lanciano, nước Ý (italy)
2011 -> Thiên chúa giáo và tam giáO Đường Thi Trương Kỷ
2011 -> Tác giả Võ Long Tê chưƠng I bối cảnh lịch sử
2011 -> LỊch sử truyền giáo tại việt nam quyển II lm. Nguyễn hồng chưƠng I: MỘt cha dòng têN Ở việt nam tới rôMA
2011 -> Các mẫu thức MẠc khải lm. Lê Công Đức
2011 -> Một lời nói đầu không phải là nơi nhiều chỗđể tóm lược lập luận của một cuốn sách cũng như định vị hoặc phát biểu về sựquan trọng của nó. Đây quả thực là một cuốn sách rất quan trọng
2011 -> LỜi giới thiệu suy tư ban đẦu về MẦu nhiệm giêSU

tải về 230.08 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương