Tổng Thượng từ đời Gia Long đến Minh Mệnh, Đồng Khánh không thay đổi, có 7 phường, sau này đến đời Đồng Khánh thì phường Yên Hoa đổi thành Yên Phụ do kiêng húy (đổi từ năm 1841) và tên phường Hòe Nhai lại viết thành phường Giai Cảnh22.
Số lượng và tên thôn, phường, trại của bốn tổng: tổng Hạ, tổng Nội, tổng Trung, và tổng Yên Thành có một số khác biệt so với danh mục đơn vị hành chính đời Gia Long và Đồng Khánh.
Tổng Hạ: đời Gia Long cho đến Minh Mệnh 12 (1831) có 7 phường, trại; nay còn địa bạ của 6 phường, trại, không còn phường Nhược Công sau đổi là Công Bộ, còn phường Thịnh Quang thì đổi thành phường Thịnh Hào.
Tổng Nội: đời Gia Long có 10 thôn, trại và khác biệt ở chỗ, ba thôn thuộc trại Giảng Võ tính là một đơn vị, do đó không có thôn Bảo Khánh, Tào Mã, Trung; trại Hữu Tiệp là một trại riêng. Đời Đồng Khánh có 9 trại, thôn, ba thôn thuộc trại Giảng Võ cũng tính là một đơn vị, trại Hữu Tiệp cũng là một đơn vị riêng, không có trại Hào Nam.
Tổng Trung: đời Gia Long và Đồng Khánh có 6 phường với tên gọi như danh mục địa bạ trên, chỉ có một khác biệt là danh mục địa bạ có thêm trang Thiên Niên và do đó số phường, trại là 7.
Riêng tổng Yên Thành thì các đơn vị phường, thôn từ đời Gia Long đến Minh Mệnh và Đồng Khánh có nhiều thay đổi về số lượng cũng như tên gọi. Tổng Yên Thành vào đời Gia Long có 26 phường, thôn, năm Minh Mệnh 12 có 24 thôn và đến đời Đồng Khánh có 12 thôn. Những địa bạ của tổng này đều mang niên hiệu Minh Mệnh 18 (1837) trừ 1 địa bạ thôn Châu Yên có niên đại Thiệu Trị 3 (1843). Tổng Yên Thành có 13 địa bạ, trong đó có 12 địa bạ với tên thôn hoàn toàn phù hợp với danh sách các thôn đời Đồng Khánh và thêm 1 địa bạ thôn Châu Long năm 1837 mà tên thôn này đã có từ đời Gia Long và Minh Mệnh 12. Như vậy tổng này có đủ địa bạ năm Minh Mệnh 18 phù hợp với tên thôn, trại sử dụng cho đến đời Đồng Khánh, cộng thêm 1 địa bạ năm Minh Mệnh18 với tên thôn đã có từ đời Gia Long.
Tóm lại, danh mục địa bạ cổ của hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận tương ứng với kinh thành Thăng Long xưa và vùng trung tâm của thủ đô Hà Nội hiện nay là 116 + 44 = 160 địa bạ thuộc hai niên đại chủ yếu là Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh 18 (1837). Số địa bạ đó phân bổ theo huyện và năm như sau:
Bảng 11. Tổng hợp địa bạ Vĩnh Xương/Thọ Xương, Quảng Đức/Vĩnh Thuận
Huyện
|
Gia Long 4
1805
|
Minh Mệnh 3
1822
|
Minh Mệnh 18
1837
|
Thiệu Trị 3
1843
|
Cộng
|
Vĩnh Xương/ Thọ Xương
|
3
|
|
113
|
|
116
|
Quảng Đức/
Vĩnh Thuận
|
27
|
2
|
14
|
1
|
44
|
Tổng cộng:
|
30
|
2
|
127
|
1
|
160
|
3. GIÁ TRỊ TƯ LIỆU CỦA ĐỊA BẠ CỔ HÀ NỘI
Với khối lượng 160 địa bạ và những thông tin phong phú, cụ thể do địa bạ cung cấp, đây là một nguồn tư liệu vô cùng quý giá để nghiên cứu về Thăng Long-Hà Nội vào nửa đầu thế kỷ XIX trên nhiều phương diện. So với địa bạ các làng xã ở nông thôn, địa bạ Hà Nội thuộc loại địa bạ đô thị nên cách biên soạn và giá trị tư liệu cũng có những khác biệt nhất định. Những thông tin khai thác từ địa bạ kết hợp với những nguồn tư liệu khác cho phép đặt ra và nghiên cứu nhiều vấn đề về lịch sử, kinh tế, xã hội, cả văn hoá và cảnh quan thiên nhiên của Hà Nội xưa. Sau đây có thể nêu lên giá trị tư liệu địa bạ trên một số phương diện mà phần Nghiên cứu chuyên đề sẽ nghiên cứu sâu như những chuyên đề.
3.1. Hệ thống đơn vị hành chính và bộ máy quản lý
Qua thống kê địa bạ, vùng trung tâm tỉnh Hà Nội tương ứng với thành Thăng Long xưa, vẫn gồm hai huyện mà năm 1805 Vĩnh Xương đổi thành Thọ Xương và Quảng Đức trước đó đã đổi thành Vĩnh Thuận, thuộc phủ Hoài Đức. Năm 1831, hai huyện này cùng huyện Từ Liêm lập thành phủ Hoài Đức thuộc tỉnh Hà Nội. Đó là thay đổi căn bản khi Thăng Long/Hà Nội không còn giữ vai trò kinh thành của cả nước. Nhưng dưới huyện vẫn chia làm tổng như cả nước: huyện Thọ Xương có 8 tổng, huyện Vĩnh Thuận có 5 tổng. Sự khác biệt giữa nông thôn và đô thị là tên gọi các đơn vị dưới cấp tổng. Trong 160 địa bạ, các đơn vị này mang tên phổ biến là thôn, phường, trại, chỉ có 1 địa bạ mang tên đơn vị xã. Đó là trường hợp đặc biệt của xã Cơ Xá thuộc tổng Phúc Lâm, huyện Thọ Xương, vốn là một xã của huyện Gia Lâm, xứ Kinh Bắc mới cắt nhập vào. So với kinh thành Thăng Long xưa thì từ thời Trần đến cuối Lê, đơn vị cơ sở phổ biến là phường: thời Trần 61 phường, thời Lê 36 phường.
Mỗi địa bạ ghi rõ giáp giới đông, tây, nam, bắc của mỗi đơn vị và chức danh cấp thôn/ phường/ trại/ xã chịu trách nhiệm lập địa bạ với họ tên và điểm chỉ cụ thể. Khai thác nguồn tư liệu địa bạ kết hợp với những tư liệu thư tịch, bản đồ cổ và tư liệu khảo sát điền dã với những di tích đền, chùa, bi ký... còn được bảo tồn đến nay, có thể xác lập hệ thống đơn vị hành chính cùng bộ máy quản lý cơ sở và thể hiện trên bản đồ với ranh giới tương đối hay ít nhất trong tương quan vị trí địa lý giữa các đơn vị. Đồng thời từ tư liệu địa bạ xác thực có thể đính chính một số địa danh và so sánh những biến đổi với thời trước và sau niên đại địa bạ. Từ những bản đồ Hà Nội cổ đối chiếu với bản đồ hiện nay, có thể lập một bản đồ hành chính của Hà Nội thế kỷ XIX với vị trí xác định tương đối trên bản đồ (kèm với niên đại địa bạ).
3.2. Cảnh quan tự nhiên
Trong địa bạ có ghi rõ các loại đất như “châu thổ”, “sa bồi”, “bạch sa vị thành thổ”, “bạch sa thổ”, “pha”, “pha thổ”, “thổ phụ”, “công pha”... phản ánh các loại đất cát, đất bồi ven sông, các gò đống... Một số địa bạ còn ghi loại đất gọi là “giang”,“tiểu cừ”, kê rõ những đoạn sông Tô Lịch... với diện tích cụ thể. Những thông tin đó cho thấy rõ đặc điểm ven sông của Thăng Long-Hà Nội mà địa bạ cho phép thống kê rõ hơn về diện tích từng loại đất. Thăng Long-Hà Nội ở phía nam sông Nhị (sông Hồng) và nằm gọn giữa các sông Nhị ở phía đông, sông Tô Lịch bao phía bắc và tây, sông Kim Ngưu phía nam.
Đặc biệt vùng đất Hà Nội xưa có rất nhiều hồ, ao. Trong địa bạ, ghi chép diện tích nhiều “hồ”, “trì”, trong đó có “quan hồ”, “công hồ”, “quan trì”, “công trì”, “tư trì”... Thống kê diện tích hồ, ao cùng vị trí của các hồ, ao ấy cho thấy rõ một đặc điểm nữa của cảnh quan tự nhiên vùng đất kinh thành và vai trò của hệ thống hồ, ao này trong tiêu thoát nước (cùng với hệ thống sông ngòi bao quanh), bảo tồn sinh thái, giữ gìn môi trường và cả trong phát triển kinh tế (nuôi trồng và tưới tiêu).
Nghiên cứu các bản đồ cổ kết hợp với tư liệu địa bạ cho phép khẳng định đặc điểm sông-hồ của Thăng Long-Hà Nội trên những con số thống kê rất cụ thể và có thể biểu thị trên bản đồ hiện đại.
3.3. Chế độ ruộng đất, đặc điểm kinh tế, xã hội và qui hoạch đô thị
Nguồn thông tin quan trọng bậc nhất của địa bạ là ruộng đất với những số liệu cụ thể của tổng diện tích các loại ruộng đất từng đơn vị rồi phân loại theo các loại đất, các hình thức sở hữu và mức độ sở hữu, sở hữu tư nhân, phương thức khai thác, sử dụng... Ví dụ về các loại đất thì có điền (ruộng), thổ (đất), châu thổ (đất bồi ven sông), hồ, ao... Về hình thức sở hữu thì có sở hữu nhà nước và cộng đồng như quan điền, quan thổ, quan châu thổ, quan đồn điền, công điền, công thổ, công châu thổ, công hồ, giếng làng, bãi tha ma (nghĩa địa)...; sở hữu tư nhân (như tư điền, tư thổ, tư trì...), sở hữu của chùa, đền, miếu (như Thần từ, Phật tự, Từ chỉ...). Về phương thức khai thác, sử dụng, địa bạ cung cấp những thông tin về đất ở gồm nhà, vườn, ao (thổ trạch, thổ trạch dân cư, thổ trạch viên trì), ruộng đất canh tác gồm “hạ điền” (ruộng hạ), “thu điền” (ruộng thu), “châu thổ thành tang thổ” (đất trồng dâu), “vu đậu” (đất trồng khoai đậu)... Riêng về loại ruộng đất, ao hồ thuộc sở hữu tư, địa bạ liệt kê từng thửa với giáp giới cụ thể và họ tên chủ sở hữu. Những bảng thống kê, biểu đồ sẽ cho thấy tình trạng phân bố và sở hữu ruộng đất của Hà Nội cũng như sự khác biệt so với nông thôn. Diện tích bình quân của từng đơn vị cư trú như thôn, phường, trại... cũng có sự khác biệt đáng kể giữa hai huyện và các tổng do điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế qui định. Một đặc điểm của đô thị trung đại Việt Nam là về kinh tế vẫn mang cơ cấu “nông, công, thương”, giữa đô thị vẫn bảo tồn nông nghiệp, nhưng công, thương giữ vai trò nổi trội hơn hẳn. Những phường thủ công, những hàng buôn bán, những chợ, bến và những trại nông nghiệp cũng được phản ánh trên địa bạ.
Phân tích và tổng hợp những thông tin về diện tích ruộng đất, cách sử dụng, mức độ sở hữu và kết hợp với những nguồn tư liệu khác có thể nêu lên những đặc điểm về kết cấu kinh tế, xã hội và qui hoạch đô thị của Thăng Long-Hà Nội thế kỷ XIX.
3.4. Những di tích lịch sử-văn hóa và dấu vết thành luỹ
Một số công trình văn hoá cổ còn được xác nhận vị trí và diện tích, giáp giới trong địa bạ. Ví như di tích Trường Thi ở thôn Bích Lưu, tổng Vĩnh Xương, huyện Thọ Xương rộng 20.3.04.3.6., Tịch điền ở thôn Cựu Lâu, tổng Đông Thọ, huyện Thọ Xương rộng 4.2.10.6.6., cục Bảo Tuyền cũng ở thôn Cựu Lâu rộng 18.7.14.0.0., đàn Tiên Nông cũng ở thôn Cựu Lâu rộng 0.9.12.2.0., đàn Nam Giao ở thôn Thịnh Yên, tổng Kim Hoa (Kim Liên), huyện Thọ Xương rộng 0.0.12.8.0...
Khá nhiều địa danh mang tên phản ánh những di tích lịch sử văn hoá như thôn Lương Sử (có đình Lương Sử), phường Hà Khẩu (cửa sông Tô Lịch đổ ra sông Nhị), thôn Thạch Thị có đồn Tây Long (hay Tây Luông), thôn Hữu Đông Môn ở phía cửa Đông, thôn Tự Tháp ở phường Báo Thiên, xứ Trường Thi cũ ở trại Giảng Võ... Trong nhiều địa bạ còn ghi những xứ đồng hay giáp giới mang dấu ấn của thành Thăng Long xưa như “thành Đại La”, “La Thành”, “Cựu Thổ Thành”, “Tân Thổ Thành”, “Cựu Lũy”, “Thành Nội”, “Thành Ngoại”, “Cựu Ô Môn”...
Những thông tin trên nếu được khai thác triệt để và thể hiện trên bản đồ kết hợp với sự khảo sát thực địa cùng những tư liệu liên quan từ các nguồn khác sẽ góp phần nghiên cứu các di sản văn hoá vật thể và cấu trúc của thành Thăng Long-Hà Nội.
Ngoài ra, địa bạ còn chứa đựng những thông tin về dấu tích của hệ thống giao thông thuỷ bộ với những ghi chép về “quan lộ”, “tiểu lộ”, “giang”, "tiểu cừ”, về nguồn gốc của một số xứ đồng, về nhiều địa danh viết bằng chữ Nôm... Địa bạ cổ Hà Nội không chỉ cung cấp những số liệu về ruộng đất mà thực sự là một nguồn tư liệu phong phú, đa dạng để nghiên cứu về Thăng Long-Hà Nội trên nhiều lĩnh vực.
4. CÔNG VIỆC DỊCH, NGHIÊN CỨU VÀ CÔNG BỐ
Trước đây, tôi đã bước đầu nghiên cứu 106 địa bạ huyện Thọ Xương và 44 địa bạ huyện Vĩnh Thuận và đã đưa ra một số kết quả nghiên cứu về một số mặt23. Tuy nhiên, lúc đó còn một số địa bạ chưa được đưa vào danh mục nghiên cứu và một ít địa bạ chưa được kiểm tra, đối chiếu thật chặt chẽ nên chỉ mới là sự giới thiệu về nguồn tư liệu địa bạ cổ của Hà Nội và một số kết quả khai phá ban đầu. Với một danh mục địa bạ đầy đủ của hai huyện Vĩnh Xương/Thọ Xương và Quảng Đức/Vĩnh Thuận được dịch và công bố toàn văn lần này, chắc chắn sẽ cung cấp một hệ thống tư liệu địa bạ cổ phong phú cho các nhà khoa học và những ai muốn sử dụng, khai thác nguồn tư liệu này trên mọi phương diện.
Tổng số địa bạ đưa vào danh mục dịch là 160, trong đó huyện Thọ Xương (Vĩnh Xương) là 116 và Vĩnh Thuận (Quảng Đức) là 44 như hai bản thống kê số 7 và 10 ở phần trên. Địa bạ huyện Thọ Xương phần lớn mang niên đại Minh Mệnh 18 (1837), chỉ có 3 địa bạ Gia Long 4 (1805) để bổ sung những đơn vị thiếu địa bạ năm 1837. Địa bạ huyện Vĩnh Thuận có 27 mang niên đại Gia Long 4 (1805), bổ sung 14 địa bạ Minh Mệnh 18 (1837), 2 địa bạ Minh Mệnh 3 (1822) và 1 địa bạ Thiệu Trị 3 (1843). Các địa bạ được sắp xếp theo vần chữ cái của tên đơn vị cơ sở (thôn, phường, trại, xã) trong hệ thống tên các tổng của hai huyện Thọ Xương (Vĩnh Xương) và Vĩnh Thuận (Quảng Đức). Ngoài ra còn 6 địa bạ trùng với những đơn vị trong danh mục trên nhưng mang niên đại khác hay không nằm trong hệ thống đơn vị mang niên đại chủ yếu của danh mục (Minh Mệnh 18 và Gia Long 4) thì chúng tôi đưa vào phần phụ lục để cung cấp tư liệu tham khảo và so sánh.
Bảng 12. Danh mục địa bạ trong phụ lục
TT
|
Huyện
|
Thôn, phường, xóm
|
Niên đại
|
Ký hiệu Cục LTNN
|
Số tờ
|
Ghi chú
|
1
|
Vĩnh Xương
|
phường Kim Hoa
|
GL4
|
R. 25
|
|
|
2
|
|
xóm Thị Trung Tiền
|
GL4
|
R.16
|
|
MM11PD
|
3
|
|
phường Xã Đàn
|
GL4
|
R.59
|
|
MM11PD
|
4
|
|
phường Yên Xá
|
GL4
|
R. 3
|
|
MM11PD
|
5
|
Thọ Xương
|
trại Ngọc Hà
|
MM18
|
K.15
|
|
|
6
|
|
thôn Yên Quang
|
TTr3
|
K. 2
|
|
|
Như vậy, tổng số địa bạ được dịch trong công trình Địa bạ cổ Hà Nội là 160 + 6 = 166. Chúng tôi dịch theo văn bản chính thức tức bản giáp trước đây được lưu giữ tại Bộ hộ của triều Nguyễn và nay do Trung tâm lưu trữ I thuộc Cục Văn thư và lưu trữ nhà nước quản lý, trừ 2 trường hợp không có bản chính thức thì sử dụng địa bạ sao chép trong sưu tập địa bạ của Viện nghiên cứu Hán-Nôm (thôn Trừng Thanh Trung Sài Đông và thôn Nghĩa Dũng, tổng Phúc Lâm). Đồng thời khi có những điểm nghi vấn hoặc văn bản không rõ, chúng tôi có đối chiếu và kiểm tra lại theo văn bản của Viện nghiên cứu Hán - Nôm. Nguyên tắc dịch là trung thành theo văn bản gốc, nhưng để tiện cho việc tra cứu, sử dụng và thống kê, chúng tôi đặt nội dung dịch trong một hệ thống đề mục thống nhất.
Mỗi địa bạ được xếp theo tên đơn vị địa bạ rồi đến tên tổng và huyện, ký hiệu đăng ký tại Viện nghiên cứu Hán - Nôm hay Trung tâm lưu trữ quốc gia I. Phần dịch đặt trong hệ thống đề mục như sau:
1. Giáp giới
2. Bản thôn/trại/phường/xã công tư điền thổ. Dưới đề mục này, các loại công điền, tư điền, thổ trạch viên trì, thần từ Phật tự, công châu thổ, quan hồ... tuỳ theo từng địa bạ được xếp theo thứ tự 2.1., 2.2., 2.3...
3. Loại khác để xếp những loại đất đặc thù và diện tích nhỏ như giếng nước, bãi tha ma, mộ địa...
4. Đất nơi khác tại bản thôn/phường/trại/xã gồm đất của các xã, thôn, phường khác nhưng nằm trên địa phận của đơn vị địa bạ này.
5. Chức dịch là phần ghi chức vụ và họ tên những người có tên trong phần cuối địa bạ và cuối cùng là niên đại lập địa bạ.
Những đề mục nào mà nội dung của địa bạ không có thì để trống. Trong khi dịch, một số tên đơn vị viết bằng chữ Hán rất khó xác định địa danh thật đúng vì trong đó bao gồm cả những từ mang tính chú giải nhưng viết liền không dễ phân biệt hay một vài chữ vốn tên Việt dịch sang chữ Hán. Ví dụ thôn “Tân Lập Tân Khai” nhờ dựa vào kết quả khảo sát thực địa đền và đình Tân Khai ở 16C Hàng Gà còn lưu giữ được văn bia đời Minh Mệnh mới xác định được chắc chắn tên thôn là Tân Khai và "Tân Lập Tân Khai" cần hiểu là thôn Tân Khai mới lập. Thôn “Thạch Thị” là tên Hán Việt, vốn có tên Nôm là Chợ Đá hay Chợ Bến Đá, năm Minh Mệnh 2 (1821) theo tấu nghị của Bộ Hộ mới đổi sang tên Hán Việt, chúng tôi phiên theo âm Hán Việt, không dịch theo tên Nôm ban đầu. Những tên thôn gồm nhiều chữ như Trừng Thanh Hạ Kiếm Hồ, Trừng Thanh Trung Ngũ Hầu, Trừng Thanh Trung Sài Đông (hay Sài Thúc)..., chúng tôi cũng chưa nghiên cứu và giải thích được. Vì vậy chúng tôi tạm để nguyên theo tên chữ Hán được ghi trong địa bạ trong lúc chờ đợi sự tra cứu và xác minh. Một số tên thôn, phường do chép nhầm mà có đủ cơ sở để xác minh thì chúng tôi chữa lại trong bản dịch và có ghi chú dưới trang như trường hợp thôn Giáo Phường chép nhầm thành Giáo Phòng, Tố Tịch chép nhầm thành Tô Tịch... Trong một số địa danh có chữ Hán có thể đọc theo nhiều âm thì chúng tôi dùng âm được sử dụng quen thuộc ở Hà Nội như chữ An phiên thành Yên trong trường hợp Yên Hòa, Yên Định, Yên Viên, Lương Yên... Những địa danh quan trọng như tên đơn vị hành chính từ huyện, tổng, đến thôn, phường, trại... và tên xứ đồng đều chua thêm chữ Hán, chữ Nôm theo địa bạ để tiện tra cứu, đối chiếu khi sử dụng.
Về số liệu diện tích ruộng đất các loại là khối lượng rất lớn và giữ vai trò rất quan trọng trong nghiên cứu địa bạ, chúng tôi cố gắng tiến hành kiểm tra nhiều lần từ nguyên bản và bản đánh máy vi tính. Nhưng trong một số địa bạ giữa số liệu tổng quát và số liệu liệt kê cũng thiếu sự nhất quán và có độ vênh nhất định, chúng tôi dịch theo văn bản và sau này khi xử lý số liệu thống kê sẽ nêu lên thành vấn đề để xác minh.
Xuân Ất Dậu - 2005
995 năm Thăng Long - Hà Nội
Xuân Canh Dần - 2010
1000 năm Thăng Long - Hà Nội
Tờ đầu trong địa bạ thôn Đông Thành Thị
tổng Thuận Mỹ, huyện Thọ Xương
Tờ cuối một địa bạ ghi niên hiệu Gia Long 4 (1805)
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |