Trong những năm gần đây ngoài việc sử dụng ma túy truyền thống như: Thuốc phiện, Heroin, Cần sa…thì tình trạng sử dụng các chất kích thích dạng Amphetamine ngày càng nhiều lên



tải về 260.19 Kb.
trang1/4
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích260.19 Kb.
#29535
  1   2   3   4


ĐẶT VẤN ĐỀ
Tình hình nghiện ma túy lan tràn hiện nay là vấn đề bức xúc của nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, tác hại của ma túy là vô cùng nghiêm trọng ma tuý làm huỷ hoại sức khoẻ, làm mất khả năng lao động, học tập, làm cho thần kinh người nghiện bị tổn hại. Dùng ma tuý quá liều có thể dẫn đến cái chết.Tiêm chích ma tuý dùng chung bơm kim tiêm không tiệt trùng dẫn đến lây nhiễm viêm gan vi rut B, C, đặc biệt là  HIV, người nghiên ma túy lâu ngày sẽ thoái hoá nhân cách, rối loạn hành vi, lối sống buông thả, dễ vi phạm pháp luật. Ma tuý còn gây tác hại lâu dài cho con cái, nòi giống. Sử dụng ma túy làm tiêu hao tiền bạc của bản thân và gia đình để thoả mãn cơn nghiện của mình, hoặc để có tiền sử dụng ma tuý, nhiều người đã trộm cắp, hành nghề mại dâm, hoặc thậm chí giết người, cướp của, gây mất trật tự an toàn xã hội, gia tăng các tệ nạn xã hội: Lừa đảo, trộm cắp, giết người, mại dâm, băng nhóm...

Trong những năm gần đây ngoài việc sử dụng ma túy truyền thống như: Thuốc phiện, Heroin, Cần sa…thì tình trạng sử dụng các chất kích thích dạng Amphetamine ngày càng nhiều lên( Methamphetamine, Ecstasy…). Theo Kaplan và Sadocks có 9% bệnh nhân nhập viện vì lạm dụng chất là sử dụng các chất kích thích dạng Amphetamine.

Tại Việt Nam, trong vòng mười năm trở lại đây, thị trường chất kích thích dạng amphetamine (ATS) tăng nhanh. ATS đã trở thành loại ma túy được sử dụng bất hợp pháp nhiều thứ hai sau thuốc phiện. Từ trường hợp “đập đá” – sử dụng methamphetamine dạng đá đầu tiên được phát hiện vào năm 2008, Đến năm 2010, hầu hết các chỉ số trong những báo cáo chi tiết đều cho thấy, việc sử dụng “hàng đá” đã vượt xa lượng sử dụng ma túy tổng hợp methamphetamine dạng viên nén. Loại ma túy chứa nhiều chất kích thần này được sử dụng phổ biến nhất ở các nhóm “dân chơi” thành thị. Tuy nhiên, ở một số vùng nông thôn cũng đã bắt đầu có dấu hiệu của “hàng đá”.

Cụ thể hơn, những người sử dụng heroine hiện chiếm tỷ lệ lớn nhất: 84,7%; tiếp theo lần lượt là ma túy tổng hợp (6,5%), thuốc phiện (6,4%), cần sa (1,6%), ma túy dược phẩm (0,3%) và cuối cùng là các loại ma túy khác (0,5%).

Bệnh viện tâm thần thành phố Đà nẵng trong những năm gần đây cũng thu nhận điều trị nhiều bệnh nhận sử dụng chất kích thích dạng Amphetamine với tần suất ngày càng tăng như năm 2012 số bệnh nhân nhập viện là: 04 bệnh nhưng năm 2013 số bệnh nhân nhập viện là: 20 bệnh nhân với biểu hiện lâm sàng rất đa dạng và phong phú . Để đánh giá rõ hơn những vấn đề này chúng tôi tiến hành nghiên cứu Đặc điểm lâm sàng rối loạn tâm thần của bệnh nhân sử dụng chất kích thích dạng Amphetamine nhập viện trong năm 2014 nhằm mục tiêu:

- Mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn tâm thần của bệnh nhân sử dụng chất kích thích dạng Amphetamine.

- Đánh giá các yếu tố liên quan của bệnh nhân sử dụng chất kích thích dạng Amphetamin.


Chương 1

TỔNG QUAN
1.1. KHÁI NIỆM CÁC CHẤT KÍCH THÍCH DẠNG AMPHETAMINE (ATS), DỊCH TỄ VÀ LỊCH SỬ ATS.

1.1.1. Khái niệm và dịch tể ATS

Chất ma túy (CMT) là những chất gây nghiện, nếu sử dụng lặp lại nhiều lần sẽ dẫn đến tình trạng lệ thuộc vào chất đó do tác động của chất đó tác động vào hệ thống thần kinh trung ương [15].

Có nhiều cách phân loại CMT, phân loại theo nguồn gốc CMT bao gồm các chất như:

- Chất tự nhiên ( nhựa quả thuốc phiện, lá coca, cây cần sa)

- Chất bán tổng hợp (Heroin)

- Chất tổng hợp (Amphetamin, Methamphetamin, LSD…).

Phân theo sự hợp pháp hay không hợp pháp bao gồm:

- Các CMT hợp pháp ( thuốc ngủ, thuốc bình thần, thuốc dạng thuốc phiện, thuốc cường thần, các chế phẩm như rượu, dung môi hữu cơ, thuốc lá)

- Các CMT bất hợp pháp ( thuốc phiện, Heroin, cần sa, Amphetamin, Methamphetamin…)Các thành phần độc hại trong meth dẫn đến sâu răng nghiêm trọng được gọi là "miệng meth." Răng trở thành màu đen, xỉn, và mục nát, thường xuyên đến mức họ phải nhổ liên tục. Răng và nướu răng bị phá hủy từ bên trong, và các chân răng mục nát đi.
Văn phòng Liên Hiệp Quốc về Ma túy và Tội phạm ước tính sản xuất các chất dạng amphetamine (ATS) trên toàn thế giới, trong đó bao gồm methamphetamine, gần 500 tấn một năm, với 24,7 triệu người nghiện.
Chính phủ Hoa Kỳ báo cáo trong năm 2008 có khoảng 13 triệu người trên 12 tuổi đã sử dụng ATS và 529.000 trong số này là người dùng thườngxuyên.
Trong năm 2007, 4,5% người ở trường trung học Mỹ và 4,1% số học sinh lớp mười báo cáo sử dụng ATS ít nhất một lần trong cuộc đời củahọ.
Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ nhập viện điều trị thuốc do lạm dụng ATS tăng gấp ba lần từ 3% năm 1996 lên 9% trong năm 2006. Một số tiểu bang có tỷ lệ cao hơn rất nhiều, chẳng hạn như Hawaii, nơi 48,2% của những người tìm kiếm sự giúp đỡ tình trạng lạm dụng ma túy hoặc rượu trong năm 2007 là người sử dụng ATS.
ATS là một loại thuốc bị lạm dụng rộng rãi tại Cộng hòa Séc. Ở đó, nó được gọi là Pervitin và được sản xuất trong phòng thí nghiệm nhỏ ẩn và một số giới hạn của những người lớn hơn. Tiêu thụ chủ yếu trong nước nhưng Pervitin được còn xuất khẩu sang các phần khác của châu Âu và Canada. Cộng hòa Séc, Thụy Điển, Phần Lan, Slovakia và Latvia báo cáo ATS chiếm từ 20% đến 60% những người tìm kiếm điều trị lạm dụng ma túy.
Ở Đông Nam Á, hình thức phổ biến nhất của ATS với dạng viên thuốc nhỏ có tên Yaba ở Thái Lan và Shabu ở Philippines.

1.1.2. Lịch sử các chất kích thích dạng amphetamnine – ATS (Amphetamin type stimulants)

Amphetamine lần đầu tiên được tổng hợp ở Đức vào năm 1887. Chất kích thích nguồn gốc từ thực vật ephedra (ma huang) có chứa các alkaloid là ephedrine và pseudoephridrine đã được sử dụng trong y học cổ truyền Trung Quốc hơn 5000 năm để điều trị bệnh hen suyễn và cảm lạnh thông thường.Cho đến những năm 1920 sau  khi thu hẹp nguồn ephedrine, amphetamine được sử dụng trên lâm sàng để điều trị hen phế quản. Dextroamphetamine và methamphetamine nhanh chóng được tổng hợp ngay sau đó. Năm 1932, thuốc thông mũi dạng xịt có chứa amphetamine đã bị lạm dụng và xuất hiện rộng rãi trên thị trường. Cục Quản lý thuốc và thực phẩm của Mỹ (FDA) đã cấm amphetamine dạng hít vào năm 1959. Các chất thuộc dạng amphetamine đã được sử dụng trong Thế chiến II và điều trị nhiều bệnh lý lâm sàng bao gồm cả chống  sốc, trị quá liều thuốc an thần, viêm não, béo phì và hạ huyết áp tư thế. Hơn 10 tỷ viên thuốc chứa amphetamine đã được sản xuất hợp pháp vào năm 1970 nhưng phần lớn bị lạm dụng một cách bất hợp pháp.Sau khi thông qua Đạo luật kiểm soát chất ma túy vào năm 1970 ở Mỹ, tỷ lệ lạm dụng amphetamine giảm xuống . Tuy nhiên, chiến dịch điều chế các chất dạng amphetamines lại bùng nổ vào những năm 1980, nổi bật là:

3,4-methylenedioxymethamphetamine (MDMA) và 3,4methylenedioxyethamphetamine. Tình trạng lạm dụng METH hồi sinh và METH được sản xuất theo công thức có độ tinh khiết cao được gọi là 'đá’. Năm 1990, sử dụng MDMA và methamphetamine tăng mạnh ở châu Âu, Bắc Mỹ và Úc. Tiếp theo là điều chế ngày càng nhiều các sản phẩm ATS với tính chất hóa học tương tự nhau, trong đó có 1-benzylpiperazine (BZP).Metamphetamine được tạo ra do methyl hóa Amphetamine: Nghĩa là một nhóm methyl chức năng (-CH3) được gắn vào phân tử amphetamine để tạo thành methamphetamine (methyl + amphetamine). Khi vào cơ thể, methamphetamine phân hủy thành amphetamine. Sự khác biệt chính giữa methamphetamine và amphetamine là ở quá trình điều chế và tiềm năng  kích thích thần kinh trung ương. METH có tác dụng dược lý mạnh hơn, kéo dài hơn và độc hại hơn so với amphetamine phần lớn do nhóm N-methyl (gọi tắt là "meth") trong công thức hóa học của methamphetamine làm giảm sự phân cực tế bào, cho phép dễ tan trong lipid hơn, dễ xuyên qua hàng rào máu não. Methamphetamine tan được trong nước, có thể sử dụng đường hút, hít - đặc biệt là ở dạng tinh thể có thể dùng  đường tiêm, và hấp thụ vào cơ thể nhanh hơn so với amphetamine không methyl hóa, và cũng do vậy mà cho tác dụng mạnh hơn. Hơn nữa, methamphetamine ổn định hơn amphetamine vì khả năng chống suy thoái enzyme monoamine oxidase tốt hơn (tức là các chất phá vỡ amphetamine và methamphetamine sẽ khó khăn hơn trong việc phá vỡ methamphetamine) vì vậy methamphetamine hoạt động lâu hơn. METH cũng gián tiếp ức chế tái hấp thu các chất dẫn truyền thần kinh, làm cho chất dẫn truyền thần kinh tồn tại lâu hơn tại khe synap (Scott và CS, 2007).

 

                                              

Amphetamine Công thức: C9H15N     Methamphetamine Công thức: C10H15N

Hình 3: Công thức hóa học của amphetamine và methamphetamine
Ngoài ra, so với amphetamine, METH kích thích mạnh hệ thống thần kinh trung ương, trong khi kích thích rất kém đối với hệ thần kinh và tim mạch ngoại vi. Một sự khác biệt nữa là amphetamine gián tiếp kích thích hệ thần kinh trung ương bằng cách kích hoạt phát hành các catecholamine, đồng thời ức chế tái hấp thu và tăng lưu trữ catecholamine tại màng synap trước. Ngược lại, METH trực tiếp kích thích các thụ thể catecholamine ở màng sau synap.

Cả amphetamine và methamphetamine đều có hai đồng phân, levorotary và dextrorotatory. Amphetamine là levoamphetamine (l-amphetamine) thực sự và đó cũng là dextroamphetamine (d-amphetamine). L-amphetamine rất yếu, nó có tác động rất ít lên hệ thần kinh trung ương (CNS) và khả năng gây nghiện yếu. Tuy nhiên dextroamphetamine lại  mạnh hơn amphetamine gấp nhiều lần . Thực tế khi người ta thường nói về ảnh hưởng "tốc độ" (speed) của amphetamine chủ yếu là về dextroamphetamine. Sự khác biệt giữa levo (trái) và dexto (bên phải) được minh họa giống như 2 bàn tay của một người, tuy là 2 chất tương tự, nhưng sức mạnh lại khác nhau. Tuy nhiên, l- methamphetamine không hề có tính chất kích thích tâm thần, hoặc gây nghiện. Trong thực tế levomethamphetamine được bán tại các quầy trong ống thuốc Vicks Vapor. Nhà sản xuất thay đổi chút ít  tên biệt dươc levmetamfetamine để tránh sự kỳ thị. Dextroamphetamine gây nghiện mạnh, khi nói về ảnh hưởng của METH trên thị trường nói chung, thực ra là những ảnh hưởng của dextroamphetamine.

Nhiệt độ nóng chảy: 281-285 độ C, độ hòa tan trong nước: 50100mg/ml(16độ C)

Các dạng  ATS

+ Amphetamine

+ Metamphetamine

+ MDMA (“ecstasy”, “adam”) là một trong loạt chất dạng ATS bao gồm: 

 3,4 ethylendioxyethylamamphetamin (MDEA, “Eve”), 

 3,4 amphetaminylendioxyamphetamin (MDA), 

 2,5-diamphetaminoxy-4-bromoamphetamin (DOB), 

Paraamphetaminoxyamphetamin  (PMA)  và  các  chất  khác.  Những  loại 

chất này tạo ra hiệu quả với đối tượng, lysergic acid diethylamid (LSD). Theo 

như thế MDMA và các chất tương tự có thể đại diện cho một nhóm ma túy 

riêng biệt (“entactogen”)[30].



1.2. CÁC CHẤT KÍCH THÍCH DẠNG AMPHETAMINE(ATS)

1.2.1. Dược động học

ATS cổ điển thường được hít ngửi, uống... còn được tiêm và có tác dụng tức thì. Thời gian bán hủy còn tùy thuộc vào các dạng thuốc, liều lượng, đường dùng và cách dùng (10mg ATS uống có thời gian bán hủy 8-10h). Thuốc chủ yếu bài tiết qua thận, một số ít qua nước bọt và mồ hôi. ATS tan trong mỡ, hấp thu nhanh qua ống tiêu hóa vào máu rồi phân bố khắp cơ thể, qua hàng rào máu não và có tác dụng một giờ sau khi uống. Thuốc được tích lũy trong mô mỡ, tập trung nhiều ở não, qua màng nhau thai dễ dàng và bài tiết qua sữa với tỷ lệ nhiều hơn huyết tương [30][31].



1.2.2.  Dược lực học

Các hiệu quả cường hóa, độc hại của thuốc ATS đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành lệ thuộc vào ATS và các rối loạn liên quan đến ATS. Nếu không nói là y hệt với các tác động gây ra bởi cocain. Cả hai loại ma túy có thể gây ra cảm giác hoạt bát, trạng thái phê.

Sự giảm sút hoạt động được cải thiện, có thể chán ăn và ngủ kém. Các kiểu độc tính là giống nhau mặc dù không giống hệt nhau. ATS và cocain có thể gây hoang tưởng, ảo giác và rối loạn tâm thần rõ ràng rất khó có thể phân biệt với tâm thần phân liệt thể paranoid. Cả hai đều có thể gây ra nhiễm độc tim mạch. Tuy nhiên, ATS và cocain khác nhau rõ ràng ở cơ chế tác động đến tế bào, thời gian tác động và đường chuyển hóa. ATS làm tăng tính nói nhiều, tự tin và tính hòa đồng. Niềm tin của một số người vào khả năng tăng cường chức năng tình dục của vẫn chỉ là có tính giai thoại nhưng dường như thuyết phục cả những người quan sát được đào tạo tốt. Những người sử dụng ATS, cả quan hệ tình dục đồng giới và khác giới đều cho biết tần suất hoạt động tình dục với nhiều bạn tình hơn là những người sử dụng heroin [30][31].

1.2.3. Chuyển hóa

ATS được chuyển hóa chủ yếu ở gan, nhưng phần lớn thuốc được dùng qua đường uống thì được đào thải nguyên chất qua nước tiểu.

Thời gian bán hủy của ATS được rút ngắn đáng kể khi nước tiểu có tính axít.

Thời gian bán hủy của ATS sau các liều điều trị từ 7đến19 giờ cũng có thể dài hơn tùy từng loại ATS. Vì thế, sau liều độc, việc giải quyết các triệu chứng có thể mất thời gian dài hơn ( có thể đến vài ngày) với ATS so với cocain, phụ thuộc vào độ pH của nước tiểu[30][31].



1.2.4. Cách sử dụng

Những đường sử dụng phổ biến của ma túy ATS có thể là uống, tiêm, hấp thu qua mũi, niêm mạc miệng hoặc đốt, hít khói và hấp thu qua phế nang.  

Như với nicotin, các chất dạng thuốc phiện, cocain dạng tự do và phecyclidin. ATS được hấp thu ngay lập tức và có tác động nhanh chóng. Không giống như cocain , ATS có thể bị bay hơi mà không bị phá hủy cấu trúc phân tử nhiều, vì thể không cần phải chuẩn bị ở dạng tự do để hút, hít [30][31]. 

Như là với các chất dạng thuốc phiện, các hiệu lực nhanh sau dùng ATS đường tĩnh mạch hoặc hít đã tạo ra cảm giác sảng khoái mãnh liệt, được gọi là phê.

Thời gian phê ATS chưa được nghiên cứu trong các phòng thí nghiệm nhưng nó được cho là ngắn hơn thời gian kích thích cảm xúc. Dù hiệu lực khởi đầu nhanh sau khi hút ATS nhưng một số người dùng, đặc biệt là nhóm thanh niên ở Anh và Úc vẫn chuyển sang tiêm tĩnh mạch. Những người tiêm ATS cũng giống như những người tiêm các ma túy khác như heroin cũng dùng chung các dụng cụ [30][31].

1.2.5. Dung nạp

Dung nạp và tăng nhạy phần lớn những người dùng ATS khi đi điều trị cho biết nhu cầu ngày càng tăng lên để đạt được hiệu quả hưng phấn như trước. Họ đã có hiện tượng dung nạp. Sự dung nạp ATS cũng gây ra các ảnh hưởng về tim mạch.

Ở những thử nghiệm trên động vật, việc sử dụng ATS hoặc ATS kéo dài ( cũng như là cocain) cũng tạo ra một kiểu mức độ nhạy cảm, trong đó phản ứng với một liều nhất định thực sự được tăng lên. Một giả thuyết cho là sự tăng nhạy hiệu quả của thuốc là do nhiều khơi gợi khác nhau trong hệ thần kinh trung ương. Trong các nghiên cứu cổ điển về thần kinh, các kích thích điện lên hệ chi, lúc dầu đạt hiệu quả thấp sau khi được nhắc lại nhiều lần. Sau những ngày của ngưỡng hiệu lực giam, thì sự lên cơn được kéo dài. Động vật cũng cho thấy hiệu quả tương tự với các kích thích hệ thần kinh trung ương. Vì thế việc nhắc lại liều ATS cuối cùng đã tạo ra sự lên cơn hoặc các hành vi rập khuôn mà không thấy được khi dùng liều đầu tiên. Tăng nhạy cảm có thể kéo dài. Tình trạng hoang tưởng và rối loạn nhiễm độc tâm thần mà những người sử dụng ATS kéo dài thường bị được cho là hiện tượng tăng nhạy. Những người đã từng bị rối loạn tâm thần do ATS có thể bị như vậy nhanh hơn sau các phơi nhiễm [30][31].

1.2.6. Cơ chế tác dụng

ATS tác động lên não bằng cách làm tăng nồng  độ các catecholamine (ephinephrine, norepinephrine, dopamine) và serotonin. Sự gia tăng này thông qua ba cơ chế: (1) giải phóng chất dẫn truyền thần kinh, (2) ngăn chặn tái hấp thu và (3) làm chậm sự chuyển hóa. Không chỉ ngăn chặn tái hấp thu dopamine, mà còn làm đảo ngược các hoạt động của chất dẫn truyền thần kinh dopamine (DAT), bơm chất dẫn truyền thần kinh ra khỏi sợi trục tế bào thần kinh mạnh hơn là tái hấp thu dopamine và dự trữ tại các túi tiếp hợp, làm ngừng hoạt động của dopamine tại các điểm tiếp nhận. Hiệu ứng cấp tính của ATS là một tình trạng quá dư thừa catecholamine và serotonin, dẫn đến cảm giác kích thích và sảng khoái cao độ, làm tăng sự tỉnh táo, tăng tập trung chú ý , tăng động lực, tăng khí sắc, tăng năng lượng và giảm sự thèm ăn. Tác dụng tức thời của ATS là tăng khả năng nhận thức [29]. Các rối loạn tâm thần tức thời có thể bao gồm lo lắng, bồn chồn và mất ngủ. Chỉ trong vài ngày tiếp xúc với ATS, thay đổi sinh hóa não do sử dụng mãn tính bắt đầu xuất hiện (ví dụ, giảm chất dẫn truyền thần kinh dopamine và gia tăng các dấu hiệu tiêu hủy hệ dopaminergic ở đầu cuối sợi trục) [30].

Sử dụng ATS mãn tính là một cách tạo ra một trạng thái cạn kiệt nhanh chóng catecholamine và serotonin, gây mệt mỏi, trầm cảm, hôn mê và mất khoái cảm (anhedonia). Sử dụng ATS mãn tính làm phá vỡ trầm trọng tính toàn vẹn của hệ thống thần kinh trung ương, tế bào thần kinh và hệ thống dẫn truyền thần kinh. Cạn kiệt serotonin, dopamine kéo dài đến bốn năm trong nghiên cứu ở loài linh trưởng [3], và giảm vận chuyển dopamine tại nhân đuôi trong nghiên cứu ở người (thấp hơn 20%), tại nhân accumbens (29,6%), và tại vỏ não trước trán (thấp hơn 33%) [31] góp phần làm mất khoái cảm (anhedonia), giảm động cơ hoạt động và suy giảm nhận thức [32]. Sự giảm chất dẫn truyền thần kinh dopamine liên quan trực tiếp đến sử dụng ATS kéo dài [33]. Tổn thương tế bào thần kinh chủ yếu do phá hủy dopamine ở đầu cuối  sợi trục chứ không phải là phá hủy tế bào [3]. Cơ chế của sự  mất dopamine dường như do sự tái phân phối dopamine của ATS từ môi trường nghèo synap vào môi trường oxy hóa tế bào chất của tế bào, tiếp tục sản sinh các gốc tự do và chất chuyển hóa phản ứng khác làm  thiệt hại protein và màng tế bào [3].

ATS làm thay đổi sinh hóa và cấu trúc não gây suy giảm chức năng  nhận thức. Suy giảm nhận thức bao gồm suy giảm trí nhớ lời nói và trí nhớ hình ảnh, chức năng vận động, sự chú ý và chức năng điều hành đòi hỏi trừu tượng, thiết lập sự di chuyển và ức chế. Suy giảm nhận thức có xu hướng xấu đi ở giai đoạn đầu kiêng cữ với meth (5-14 ngày). Những thiếu sót trong sự chú ý chọn lọc đã được chứng minh là có cải thiện ở 2 tháng kiêng cữ, và việc cải thiện trí nhớ lời nói cần 3-14 tháng kiêng cữ. Sử dụng MA kéo dài tạo nên nguy cơ trầm cảm, mất khoái cảm, lo âu, hoang tưởng, ảo thanh và ảo thị.

ATS thường sử dụng theo hình thức nuốt hoặc hít. ATS dạng tinh thể trông giống như thủy tinh thường được gọi là "đá” và sử dụng theo cách hút. Khi hút hoặc tiêm, đá nhanh chóng tác  dụng lên não và có nguy cơ gây nghiện cao. Ngày càng có nhiều bằng chứng hút  ATS dạng tinh thể có tác hại tâm lý và tiềm năng gây nghiện cao hơn các hình thức khác của ATS. Ngoài ra, ATS đôi khi được pha trộn với các loại ma túy khác và bán với tên gọi  "thuốc lắc" (3,4) (methylenedioxymethamphetamine - MDMA), một loại ma túy với tính chất gây ảo giác thường được sử dụng tại các câu lạc bộ và các tụ điểm vui chơi giải trí.

Độ tinh khiết của ATS thay đổi đáng kể: từ 3% đến 79%. ATS thường bị pha tạp các loại chất khác bao gồm caffeine, glucose và các loại đường khác, và đôi khi có cả ephedrine hoặc ketamine. Phân tích mẫu METH tại Việt nam có chứa khoảng 5 đến 20% methamphetamine và một số lượng không xác định caffeine và thường chứa các chất khác như ketamine. ATS dạng tinh thể ở Việt Nam thường chứa 45 đến 72% METH. ATS cũng được trá hình trong viên MDMA (ecstasy, thuốc lắc). Cả METH và MDMA đều phổ biến trong nhóm dân số đặc biệt (mại dâm nam, nam tình dục đồng giới, người nghiện heroin).

1.1.4. Khái niệm về loạn thần

Loạn thần là một trong những vấn đề phức tạp còn nhiều tranh cãi trong 

tâm thần học hiện nay. Tâm thần phân liệt là bệnh loạn thần điển hình [28]; 

tuy nhiên, các triệu chứng loạn thần còn xảy ra trong nhiều hội chứng khác. 

Loạn thần được xếp vào nhóm các rối loạn được đặc trưng bằng sự diễn 

giải sai và hiểu sai về bản chất thực tại. Loạn thần được phản ánh qua một số 

triệu chứng, đặc biệt các rối loạn về tri giác, các rối loạn niềm tin và giải thích về 

hoang tưởng và các kiểu rối loạn tác phong  [31] Trên thế giới [26], nhu cầu điều trị chưa đáp ứng là vấn đề lớn  hiện nay [24].Điều này đặc biệt đúng với thực trạng các rối loạn tâm thần do ATS tại viện nghiên cứu lâm sangfveef các rối loạn tâm thần liên quan đến ATS từ đó đề xuất phát đồ điều trị chuẩn là mối quan tâm kịp thời và cấp bách của các bác sĩ lâm sàng, các nhà nghiên cứu và quản lý.



1.1.5. Lạm dụng và nghiện ATS

Lạm dụng ATS ngày càng phổ biến và gây tỉ lệ nhập viện tăng nhanh.Tại viện sức  khỏe tâm  thần  Bạch  Mai,  năm  2010  chỉ  có  26/2847  số  lượt người bệnh nhập viện điều trị loạn thần do sử dụng ATS, chiến 0,9%: năm 2011 tỉ lệ này là 2,4%.Số người bệnh loạn thần do ATS phải nhập viện tăng tới 2,3 lần (59/26). Tại bệnh viện tâm thần Hà Nội tỉ lệ này là 10,3 lần. Tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện và lạm dụng ATS theo tiêu chuẩn chung của ICD-10 hoặc DSM IV.

 Song với ATS, người nghiện không có sự  lệ  thuộc  nghiêm  trọng về mặt cơ thể nên có thể vài ngày hay vài tuần ngưng sử dụng mà không cần thuốc. 

Nghiện ATS có thể gây giảm sút nhanh chóng khả năng đối phó với stress và nhu cầu cuộc sống.

Người nghiện ATS luôn đòi hỏi tăng liều cao hơn để đạt được cảm giác “phê” trước đó. Các triệu chứng nhiễm độc ATS hầu như thoái triển sau 24 giờ và thoái triển hoàn toàn sau 48h. [23].

Lạm dụng ATS: Sử dụng ATS gây ảnh hưởng rõ rệt đến các chức năng xã hội,nghề nghiệp hoặc các bệnh cơ thể,nhưng không đủ tiêu chuẩn cho chẩn đoán nghiện ATS.



Tiêu chuẩn chẩn đoán nghiện theo ICD-10 [33]

Có 3 hoặc nhiều hơn tiêu chí sau đây:

(a) Thèm muốn mãnh liệt hoặc cảm giác bắt buộc phải sử dụng ATS;

(b) Khó khăn trong việc kiểm soát các hành vi sử dụng ATS như khởi 

đầu, chấm dứt hoặc mức độ sử dụng;

(c) Hội chứng cai thực thể;

(d) Có bằng chứng về sự dung nạp;

(e) Càng ngày càng trở nên thờ ơ với các thú vui hoặc sở thích khác;

(f) Tiếp tục sử dụng ATS mặc dù biết rõ về các hậu quả có hại.

1.2. MỘT SỐ BIỂU HIỆN LÂM SÀNG CỦA LOẠN THẦN VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN SỬ DỤNG ATS

1.2.1. Biểu hiện lâm sàng của loạn thần do sử dụng ATS

Với việc sử dụng ATS kéo dài hoặc liều cao , khả năng hoạt động người nghiện giảm, họ bị tách biệt hẳn với thế giới thực tại.


Rối loạn tâm thần do sử dụng các chất kích thích dạng Amphetamine xảy ra từ việc sử dụng các chất này kéo dài hoặc quá liều. Rối loạn tâm thần do sử dụng ATS gồm hoang tưởng và ảo giác và làm cho người bệnh rơi vào trạng thái loạn thần.
ATS là một chất kích thích hệ thống thần kinh trung ương mà ở liều thấp khiến người sử dụng meth trải nghiệm cảm giác tăng năng lượng và sự tỉnh táo.
Ở liều cao ATS có thể mang lại rối loạn tâm thần mà người sử dụng trở nên bị hoang tưởng và ảo giác, thường dẫn đến bạo lực. Sử dụng ATS kéo dài hoặc nghiện ATS có thể dẫn tới kết quả tương tự.
Ảnh hưởng ít nguy hiểm hơn của rối loạn tâm thần ATS là trạng thái lú lẫn và mất phương hướng. Người sử dụng meth có thể có hành động lặp lại, chẳng hạn như rửa tay nhiều lần hoặc ngày nào cũng bố trí và sắp xếp lại các vật dụng. Họ cũng có thể gặp ảo giác xúc giác tức là cảm giác côn trùng bò trên da, hoặc cảm thấy một cái gì đó di chuyển dưới da của họ.
Nhưng rối loạn tâm thần do ATS cũng có thể mang lại hành vi cực kỳ bạo lực và mang tính phá hoại. Người sử dụng ATS có thể có ảo giác thị giác đáng sợ, chẳng hạn như nhìn thấy động vật hoang dã hoặc những người mang vũ khí đến tấn công họ. Nghiện ATS thường bị hoang tưởng và tin rằng luôn có kẻ thù bao quanh họ. Họ thường nghe tiếng nói, thường là chỉ huy hành vi bạo lực hoặc hung hăng, và họ có thể phản ứng với ảo giác của họ với thái độ tấn công dữ dội.
ATS gây rối loạn tâm thần thường có thể kéo dài trong nhiều ngày sau khi đã ngưng sử dụng ATS. Một số trường hợp kéo dài trong nhiều tuần hoặc thậm chí nhiều năm.
Những triệu chứng này có thể được hỗ trợ. Người bệnh có thể phục hồi từ nghiện và rối loạn tâm thần. Điều quan trọng là phải tìm cách điều trị ngay lập tức trước khi người bệnh gây thêm thiệt hại, trước khi não của người sử dụng bị tổn thương thêm và trước khi hậu quả bạo lực do meth gây chấn thương nghiêm trọng hoặc tử vong.

Với việc sử dụng kéo dài hoặc liều cao , khả năng hoạt động người nghiện giảm, họ bị tách biệt hẳn với thế giới thực tại.


Rối loạn tâm thần ATS xảy ra từ việc sử dụng ATS kéo dài hoặc quá liều. Rối loạn tâm thần gồm hoang tưởng và ảo giác và làm cho người bệnh rơi vào trạng thái loạn thần.
ATS là một chất kích thích hệ thống thần kinh trung ương mà ở liều thấp khiến người sử dụng meth trải nghiệm cảm giác tăng năng lượng và sự tỉnh táo.

Каталог: uploads -> files
files -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
files -> Btl bộ ĐỘi biên phòng phòng tài chíNH
files -> Bch đOÀn tỉnh đIỆn biên số: 60 -hd/TĐtn-tg đOÀn tncs hồ chí minh
files -> BỘ NÔng nghiệP
files -> PHỤ LỤC 13 MẪU ĐƠN ĐỀ nghị HỌC, SÁt hạch đỂ CẤp giấy phép lái xe (Ban hành kèm theo Thông tư số 46/2012/tt-bgtvt ngày 07 tháng 11 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ gtvt) CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> TRƯỜng cao đẲng kinh tế KỸ thuật phú LÂm cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> CHƯƠng trình hoạT ĐỘng lễ HỘi trưỜng yên năM 2016 Từ ngày 14 17/04/2016
files -> Nghị định số 79/2006/NĐ-cp, ngày 09/8/2006 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Dược
files -> MỤc lục mở ĐẦU 1 phần I. ĐIỀu kiện tự nhiêN, kinh tế, XÃ HỘI 5
files -> LỜi cam đoan tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án này là trung thực, khách quan và chưa được ai bảo vệ ở bất kỳ học vị nào

tải về 260.19 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương