Trương-văn-Vinh Siêu Chiến Lược eurasia 1920-2020



tải về 0.99 Mb.
trang2/13
Chuyển đổi dữ liệu12.01.2018
Kích0.99 Mb.
#35975
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13

Năm 1930, Harriman bỏ cuộc hưởng giàu sang ra chính trường để dấn thân bảo vệ quyền lợi cho giới Đại Tư-bản? Hay ông là người Ái-quốc dấn thân để bảo vệ Tổ-Quốc khỏi rơi vào tay Chủ Nghĩa Cộng-Sản? Cả 2 trên đều đúng, bằng chứng, tới giờ nầy nước Mỹ vẫn là Đệ-Nhất Anh-hùng trong thiên hạ; Thoạt đầu, ông phục vụ trong ngành Hành-Pháp của Tổng-Thống Franklin Roosevelt với chức vụ rất khiêm nhường trong Bộ phục hồi Quốc-Gia (National Recovery Administration) Cố-vấn Hội-đồng thương mãi kiêm quản-lý sản-xuất, kiêm ngành vật-liệu thô (raw materials) Sau một thời gian học hỏi lấy đà, Harriman được Roosevelt chọn làm sứ-thần đặc-biệt, phối hợp trung gian hợp-đồng mua bán giữa Liên-Xô và Anh-Quốc (1941-1943) và năm 1943 ông muốn được bổ nhiệm làm Đại-Sứ tại Moscow cho sách lược chia đôi hai quốc-gia Đức, Triều Tiên và Việt Nam được trôi chảy theo đúng trục lộ trình do nhóm tham mưu của Harriman thiết kế.

Trong suốt thời gian làm Đại-Sứ 1943-1946, Harriman được người Nga kính mến vì đã đem rất nhiều phúc lợi cho họ, mục tiêu của Harriman là nhắm vào giai cấp sản xuất [công nông] của Liên Xô, tại sao chủ nghĩa Cộng sản đối xử con người như Bầy-Ong, Bầy Kiến? Harriman tin vào chế độ dân chủ, bởi vì dân chủ đã mở rộng để tiếp nhận tất cả năng lực của con người, hảy xây dựng thế giới thành nơi an toàn cho nền dân chủ! Ngược lại, Harriman cũng không muốn người Nga và Âu-Châu sẽ đổ máu vì chiến tranh cứ liên tục xảy ra trên Lục-địa văn minh nầy; cũng như theo ông đang xảy ra Đại chiến-2 và từ đó trong tâm ông đã nẩy ra tư-tưởng đổi vùng bạo-loạn hay nói trắng ra là “đổi màu da trên xác chết” được gọi là hoạ da vàng, mà mãi đến sau nầy (năm 1964) Giáo Sư Francois Xavier Winters mới cho rằng cuộc chiến Việt-Nam là một cuộc chiến thế mạng (surrogate) “một cuộc tế thần, lấy da Vàng thế vào chỗ da Trắng!” được thể hiện qua tình cảm với một nước [Nga] bị nhiều lần ngoại bang xâm chiếm (Pháp, Đức, Nguyên-Mông) Harriman là tác giả của hai Tác-phẩm: Peace with Russia (1959) và American and Russia in a Changing World (1971) Đọc xong 2 cuốn nầy, và phối kiểm với ROE (Rules Of Engagement) trong cuộc chiến VN, người ta có cảm tưởng Ông như một người ‘Nga-kiều’ yêu nước, nhưng thật sự không phải vậy mà ông muốn cải biến chế độ Cộng Sản thành Siêu Cộng Sản toàn vẹn như nước Mỹ sau nầy, và chỉ có Liên Xô trong ngôi vị số-2 cho mục tiêu giải trừ hoạ Da-Vàng đang là nguy cơ hăm doạ nhân loại; LX là nạn nhân bị dân Tàu lấn đất giành dân ở cực đông nam LX. Đến thời Tổng-Thống Harry S Truman, Ông phục vụ với chức vụ Bộ-trưởng Thương-mại (1946-1948) Giám-đốc chương trình Marshall, tái thiết Âu-Châu (1948-1950) Người Đại diện của Hoa-kỳ trong Minh-Ước Bắc Đại Tây-Dương (NATO) và cũng là Ủy-viên nghiên cứu phòng thủ Tây-Âu (1951) Trong thời gian nầy, Harriman xử dụng William E Colby một nhân viên tầm thường của Tòa Đại-Sứ Hoa-Kỳ ở Stockholm và Rome để điều hành thuê mướn những dịch-vụ loại trừ phe Tả cũng như Cộng-Sản trong những nước Tây-Âu bằng công-cụ vô cùng hữu-hiệu là Mafia, thế nên Harriman rất có kinh-nghiệm khống-chế bộ máy Hành-Pháp của các vị Tổng-Thống nước Mỹ sau nầy. Nếu ta nhìn cho kỹ thì quả thật nước Mỹ lãnh đạo bằng một Ðảng siêu Mafia Skull and Bones, (Đả lâu lắm rồi, Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện Liên Bang Felix Frankfurter (1882 – 1965) đã dám nói trước khi chết) “Những người thật sự cai trị ở Washington là vô hình, và thực thi quyền hành từ sau hậu trường.” tất cả đều tốt nghiệp từ lò luyện thép duy nhứt: Ðại học Yale và Harvard chỉ là công cụ chuyên viên cho Yale như 4 đời giòng họ Bush và Harriman.

Năm 1950, Khi chiến tranh Triều-Tiên bắt đầu, sáng lòe trong tâm tưởng của ông, đã đến lúc ông phải thực thi những gì mà ông hằng đeo đuổi. Harriman tức tốc bay về gặp TT Truman, xin ở ngay tại văn phòng điều hành (Executive Office Building) bên cạnh TT Truman như là một người phụ-tá về những dịch-vụ An-Ninh Quốc-Gia. Ông đề nghị TT Truman cho ông tháp tùng với Trung-Tướng Matthew Ridway đến Tokyo gặp Tướng Mc.Arthur, mục đích chuyến đi nầy là căn dặn Tướng MacArthur đừng có gây hấn với Trung-Quốc cũng như xúi bẩy Đài-Loan ăn phần vào và Ông cũng bảo-đảm cho Mc Arthur đổ bộ vào Inchon mà không sợ bị Liên-Xô can thiệp vì Liên Xô là bầu-bạn gắn bó ngầm với Mỹ qua tiền viện trợ giúp-đỡ tính dụng của công ty Harriman Co. Aid to Russia 1941-1946 Plan.

Quả thật sự hoài nghi của Harriman thành sự thật, nên ông buộc lòng phải ép TT Truman giải nhiệm cả hai ông, Bộ-Trưởng Quốc-Phòng Louis.A.Johnson và Tướng McArthur; Harriman đề nghị vị Tướng tay chân của ông lên thay thế Bộ-Trưởng Quốc-Phòng là Tướng Bộ-Binh, George C. Marshall. Harriman thay mặt cả Truman soạn thảo công lệnh, Tướng-lãnh không được tuyên bố vung-vít về Sách-lược Quốc-Gia nữa, rút ra từ sự giải nhiệm Tướng Arthur; Trong năm nầy (1950) Ông tuyển chọn những tài hoa kiệt xuất của Hoa-Kỳ vào làm việc tại một Viện Nghiên-Cứu đặc biệt mà phần trên tôi có giải thích chưa rõ đó là Nhóm Tham-Mưu Dân-Sự của lý thuyết gia George Kennan, gồm nhiều học giả nghiên cứu khác nhau và đây là ‘những hoàn-ngọc ẩn của nước Mỹ được hoàn toàn dấu kín cho cơ mật quốc gia.

Một học giả sáng chói trong Nhóm nghiên cứu nầy cho biết: Chắc-chắn sẽ xảy ra cuộc chiến tranh nguyên-tử ở Âu-Châu, hậu quả sẽ tàn phá Bắc bán-cầu, bao gồm Âu-Châu, Mỹ, Canada. Học-giả nầy đề nghị nên đổi trục chiến tranh qua Á-Châu và cũng để giải tỏa sự thăng bằng nạn nhân mãn cho thế-giới “Họa Da Vàng,” Đó là nguyên nhân thãm trạng chiến tranh Việt Nam phải xảy thay vì theo trào lưu tiến hoá của phong trào giải trừ chế độ thực dân (decolonalism) mà hơn 60 nước trên thế giới đã tìm sự độc lập cho dân tộc mình trước 1960. Thế thì xuất phát tại nơi nào ở Châu-Á: Theo nhận thức của giáo-sư Sử-Điạ, George Kennan: Tất cả những loài động vật trên trái đất đều có khởi nguyên của nó, có đường Hưu-Nai chạy, loài Kiến biết trước trời giông bão, cũng có đường bầy Voi qua lại (La Piste des Elephants) cho đến hang động sau cùng gởi nắm xương tàn của chúng, vì chúng có linh-tính biết trước ngày chết. Còn loài người thì có con đường gây ra bạo hành do cơ trời “thiên-hạ đại loạn” Từ Đại-Đế La-Mã, đến Nã-Phá-Luân, đến Hốt Tất-Liệt (Khoubilai) cho đến Đức-Quốc-Xã, Quân phiệt Nhựt…cái trục ‘bạo-loạn’ đó vẫn là từ Âu sang Á, sang Nga, Ba-Tư, Đông-Âu, Nam-Âu, Ai-Cập, tràn qua Thổ-Nhĩ-Kỳ (turkey) Iraq, Iran, Ấn-Độ…phía Đông Tân-Cương, Tây-Tạng, Nội-Mông, Mãn-Châu, Cao-Ly, bao trùm cả Trung-quốc nhưng khi đến Việt-Nam thì bị khựng lại; như quân Nguyên-Mông đã 3 lần dừng bước tại Việt Nam vì thua trận phải chạy về Xứ. Kết quả, Harriman chọn Triều Tiên làm “diện” phát khởi còn Việt Nam làm “điểm” tận cùng ở Á-Châu, là cái trục dứt điểm chuyển hướng từ bên trời Tây hướng về trời Đông, lấy Đông-Dương làm nơi chạm tuyến sau cùng (Jet-stream front).

Giáo-sư Sử-địa, William A.Withington tại Đại-Học Kentucky thì cho rằng: qua Lịch-sử, người dân ở các nước Á-Châu, nhất là Vùng Đông Nam-Á không thích sự đô hộ của người da trắng, dù rằng chủ nghĩa thực dân không còn nữa, muốn lấy lòng họ nên để cho người cùng màu da hay may ra chế độ CS dầy xéo lên đất họ một thời gian lâu mau tùy trình độ dân trí giác ngộ. Theo như ý đồ của Harriman, nên dựa vào chiến thắng Điện-Biên-Phủ để tạo cho phe Cộng-Sản một uy tín rất cao đẹp, lần đầu tiên một Nhóm Du-kích Á-châu đã đánh bại một đạo quân của một cường quốc Âu-Châu, rồi trở thành mô hình gương mẫu cho các phong trào giải phóng dân tộc khác, gồm gần 60 Nước trên toàn thế giới, như ở Bắc-Phi, Nam-Dương, Phi-Luật-Tân, Mã-Lai, Phi-Châu, Trung Nam-Mỹ, và Trung-Đông..Phía Thế-Giới Tự-Do bị đẩy vào vị thế phòng thủ; Làm thế nào để phục hồi chính nghĩa, kéo họ về với Mỹ...? Sau một thời gian kinh qua thế sự, dù Hồ-Chí-Minh đã bị dụ-dỗ để trở thành Đồng-Minh của Mỹ cũng phải chờ thêm một thời gian trắc nghiệm coi cho được; Vì “Freedom is not for Free!” nên để Việt Nam phải trả một cái giá cho sự Tự do của Họ như tại đất nước Mỹ lịch sử đả chứng minh qua Concord. Dù rằng, theo tin từ tình báo Quân-Đội OSS, nhóm Hồ là một tổ-chức có kỷ-luật vững chắc, chấp nhận gian nguy chiến đấu chống Nhật và giúp Mỹ tìm cứu khi Phi-công bị nhảy dù xuống vùng của họ. Hành-Pháp Mỹ thời TT Truman bị Harriman ép buộc phải từ khước lời thỉnh cầu của Cụ Hồ, tháng 8 và 9 năm 1945 qua 8 bức thư xin Mỹ bảo đảm độc lập như Phi Luật Tân như bảo đảm Hiến pháp VN giống y chang như Mỹ, trong khi HCM đang kiểm soát Hà-Nội, và đặt hoàn toàn niềm tin tuyệt đối vào Mỹ.

Hồ-Chí-Minh cầu khẩn qua trung gian của văn phòng “Cơ-quan Chiến-lược” Hoa-kỳ, đã gởi yêu cầu lên TT Truman xin cho Việt-Nam được hưởng quy chế như Phi-Luật-Tân để được bảo hộ trong thời gian giành độc-lập; Từ tháng 10/1945 cho đến tháng 2/1946, Hồ đã viết cho TT Truman ít nhất 8 văn-thư, chính thức kêu gọi Hoa-kỳ và Liên-Hiệp-Quốc can thiệp để ngăn chận chính sách thuộc địa của Pháp cho thích hợp theo trào lưu hiện tại, nhưng … cứ cho rằng nghiệp quả thiên định cho dân Việt như sách lược “vòng Kim-Cô” của Harriman áp đặt lên trên dầu dân tộc VN 30 năm theo thiết kế của Kennan 1945-1975 rồi mới được độc lập thống nhứt (một chứng liệu đả có trong thiết kế nho nhỏ do anh ThienLe: tài liệu của US Defense Supply Center Philadelphia (DSCP) thì C-ration used trong chiến tranh Việt Nam là phần thặng dư còn lại trong Đệ Nhị Thế Chiến (WWII). 

Tổng-Thống tiền nhiệm Franklin D. Roosevelt cũng được Harriam thuyết phục: “Hoa-Kỳ chủ-trương không để cho Pháp trở lại Đông-Dương và đề nghị đặt Việt-Nam dưới quyền quản-trị tạm thời của Liên-Hiệp-Quốc” Điều quan trọng ở đây là theo ý-đồ toan tính của Harriman, khi Liên-Xô và Trung-Quốc cùng nhau công nhận Hồ-Chí-Minh vào tháng 1/1950, thì cũng đúng vào lúc mà William Averell Harriman cảm thấy phải thật sự dấn thân nhảy vào chính-trường để bảo-đảm sự phồn vinh cho quyền lợi nước Mỹ [đây tôi muốn nói có phần nguồn dầu khí ở thềm lục địa VN qua sự phát hiện của Vệ-tinh tình báo spy satellite] Liền sau đó ông tuyển mộ những nhân tài học giả kiệt xuất để nghiên cứu giúp ông trong vấn đề chiến thắng ý-thức-hệ Cộng-Sản trong chiến tranh lạnh (Cold War) Harriman coi trọng Nhóm Học-Giả Dân-Sự nầy là bộ óc của nước Mỹ. Tôn chỉ, nên dùng một ‘đấu pháp’ tuy nhẹ nhàng với Liên-Xô nhưng phải chiến thắng đối thủ qua môn võ-thuật, dùng sức mạnh tối đa của địch để tạo thành sức mạnh của ta ‘trong cái thế bên kẻ mạnh’ (on strong-man side) mà chúng ta cần sẽ phải áp dụng tại Đông-Dương: Hãy tạm bỏ qua thuyết Domino cũa Eisenhower. Ðó là lý do sâu-xa mà Harriman không muốn Hoa-kỳ ký tên vào Hiệp định Genève-1954 chia 2 miền Nam và Bắc! Ranh mãnh trong vấn đề hiệp định Geneve nầy để vỗ ngực chỉ có Hoa Kỳ là muốn Việt Nam được thống nhứt cho thế chiến lược toàn cầu của Mỹ với thâm ý xô đẩy VN vào cuộc chiến huynh đệ tương tàn cho mưu đồ quyền lợi của thế lực trong Hội Đồng Kỹ Nghệ quốc phòng. Nhưng rốt cuộc cũng vào quĩ đạo cũa Mỹ tuy được độc lập thống nhứt dưới cái dù của Mỹ, và phải trả một cái giá quá đắt ? Vì freedom is not for free.

William Averell Harriman (1891-1986) kiến trúc sư cuộc chiến VN

Trong những nhân vật sừng-sỏ trên đây, chỉ có W.A. Harriman là người có nhiều tham vọng, nhưng thật ra ông cũng là một thiên tài “giấu-mặt” làm nên lịch-sử Hoa-kỳ. Theo cá nhân tôi nghĩ đem so với Quân sư Gia-Cát-Lượng để đánh giá thì Harriman quả thật xứng đáng là một “Đại-đế giấu mặt” không những trong nước Mỹ mà cả thế giới; báo chí thời đó cũng như hai văn hào Walter Isaacson và Evan Thomas mô tả Harriman là người lãnh đạo trong Nhóm “Sáu người thông-thái” nắm vận mệnh thế giới. Riêng Harriman biết xử dụng đồng tiền của người Cha để lại và mở kinh doanh ngân hàng W.A.Harriman and Company rồi trở nên Tổng Giám-Đốc đội thương thuyền lớn nhất thời đó, năm (1917-1925) Sự thành công theo phóng đồ thẳng đứng của ông làm “thôi miên” giòng họ Bushes, trong đó có George Herbert Walker, là tiền bối bốn đời của TT Bush-Con, Tổng-thống thứ 43 của Hoa-kỳ và ông Prescott Bush là cha của George H.W. Bush, Tổng-thống thứ 41 của Hoa-kỳ. Thật cũng là điều lạ, ở trên đời nầy ít ai chịu thuần phục một kẻ nhỏ hơn mình 16 tuổi như so sánh Harriman với Walker, ấy thế mà cả hai ông Bushes nầy đã thích-thú học-hỏi, tự-nguyện làm thành viên trong thương nghiệp mà người Chủ là Harriman; Chẳng bao lâu từ một người đại-lý buôn bán vỏ xe khiêm-nhường, Ông nội Bush con là Prescott Bush đã trở nên nhà triệu phú, với số tiền chuyên ngân từ Fritz Thyssen (Đức).

Harriman, tuổi vừa tròn 27 và mới tốt nghiệp 4 năm Đại-Học Yale; Năm 1917, lợi dụng trong thời chiến áp-lực chính quyền phải ký hợp đồng vào sự nghiệp đóng tàu hàng-hải dù cha Ông nổi tiếng là ông Vua về sở hỏa-xa. Harriman đóng tàu thành công trong thời chiến, chẳng bao lâu Harriman trở nên ông Vua về đội thương thuyền hàng hải lớn nhất vào thời đó, được củng cố phát triển qua danh xưng United American Lines, ông đặt vào trọng tâm tham vọng lợi nhuận qua hợp đồng với nước Đức bằng đường hàng-hải Hamburg-American Trong khi hơn nửa thế kỷ, người ta đều nghe danh ngân hàng tín dụng thương mại Quốc-tế BCCI (Bank of Credit and Commerce International) do sư tổ dòng họ Bush, George Herbert Walker sáng lập truyền lại cho cả dòng họ Bush sau nầy.

Trong Đảng Công-Ty, đáng kể là nhánh Cộng-Hòa có dòng-tộc Rockerfeller và Stillman, nhưng tất cả không ai chịu dấn thân ra làm chính khách để bảo vệ quyền lợi Công-ty, mặc dù phần đông, bản chất của họ phát xuất từ Đảng Cộng-Hòa. Đứng trên góc cạnh nước Mỹ, Harriman là một thương gia giàu có, một chiến lược gia có tằm cở quốc tế, một chính trị gia có tầm nhìn sâu-sắc, một chính khách lỗi-lạc, một nhà ái-quốc hiếm có, một đảng viên Dân-chủ đúng nghĩa để lo cho quyền lợi của tất cả Tập đoàn Tư bản không phân biệt lớn nhỏ, chịu dấn thân xa rời sự hưởng thụ giàu sang, hy-sinh và tận-tụy cho sự hùng-mạnh của đất nước Hoa-Kỳ. Yêu nước là yêu Tư-bản Chủ-nghĩa, vì Hoa-kỳ là tiêu biểu.

Khi Cách Mạng Nga thành lập chính quyền (năm 1917) và thành phần Tư-sản bị đày ải cho đến chết tại vùng đông lạnh Tây-Bá-Lợi-Á (Siberia) Harriman nhìn xa hơn vào lá cờ ‘Búa-Liềm’ ông đã đặt nhiều quan tâm đến giai cấp Công-nhân là chính, ông không sợ những giáo điều của Lenin sẽ đi vào thực tế như tư tưởng Lenin: “Trước hết, chúng ta sẽ chiếm Đông-Âu, rồi nắm lấy khối quần chúng khổng lồ ở Á-Châu, sau đó bao vây Hoa-kỳ và thành lũy cuối cùng của Chủ-nghĩa Tư-bản. Chúng ta khỏi phải đánh đấm chi cả, Hoa-kỳ cũng sẽ phải rơi vào tay chúng ta như một trái cây đã chín rục. Vì thế đã là người Cộng-Sản phải đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù là giai cấp Tư-Sản” và ‘Chính sách cải tạo’ là kỹ thuật đánh lừa người Tù “luôn luôn làm cho chúng có ý hy-vọng được tự-do, chuyển trại thường xuyên để nuôi dưỡng hy-vọng giả tạo đó, cuối cùng chúng gặp nhau và chết ở Siberia còn ở Mỹ là Alaska. 

Sau nầy Phạm Văn Đồng và toàn thể CBCS cũng nghĩ như vậy: “Đem 10.000 nhân viên quan chức miền nam có nợ máu với nhân dân ra đày ải ở vùng sơn cước thâm u nầy cho chúng chết lần chết mòn tại Siberia/VN, bằng cách cho chúng ăn thật ít bắt chúng làm thật nhiều”; duy chỉ có Mafia-Lê Đức Thọ thì biết chắc chúng sẽ nối tiếp theo sau diện ODP.

Harriman không căm ghét người Nga mà trái lại Ông rất có cảm tình với người Nga qua nỗi lòng của Ông, lồng vào hai tác phẩm “Peace with Russia” 1959 (hòa bình với Liên-Xô) và “America and Russia in a Changing World” 1971 (Hoa-Kỳ và Liên-Xô cùng thay đổi cục diện thế-giới) Một tư-tưởng vĩ-đại đang nảy sinh trong khối óc của ông, người Công-nhân và Nông dân là nguồn nhân lực “sản xuất”, xứng đáng được hưởng những của cải do họ làm ra, nổi bật hơn, là tại sao không để cho họ chia phần làm chủ (Profit Sharing) ông vẽ ra một thế-giới phồn thịnh do người công-nhân sản xuất ra của-cải và chỉ có vài người bỏ vốn đầu tư thì chính họ mới là người lãnh-đạo, vì trên thực-tế “người nào chi tiền người đó chỉ-huy” (như trong chiến-tranh Việt-Nam, có lần Tướng O’Daniel nói toạc ra ‘ai chi tiền người đó chỉ-huy) Sự bỏ vốn đầu tư ở Liên-Xô không ngoài mục đích trên và sau nầy là Trung-Quốc; Đây là hình thức cũng như chân lý thực tế nắm chắc giai cấp thợ thuyền một cách tinh-vi với giá rẻ mạt, nhưng căn cứ trên sự hài lòng tự nguyện, thay vì đối xử với Họ như bầy Ong bầy Kiến, Harriman mảnh liệt tin tưởng phải xây dựng thế giới thành nơi an-toàn cho nền dân chủ, bởi vì chế độ Dân chủ sẽ mở rộng để tiếp nhận tất cả năng lực của con người.

Thật vậy, khi cướp được chính quyền vào năm 1917, hăng say trong chiến thắng, Lenine thường chủ quan với đề tài: Cộng-sản, Tư-bản, ai thắng ai?” Và càng đi xa hơn bằng cách tuyên bố: “Tụi Tư bản, nó vừa ngu và vừa tham. Tham và ngu đến nỗi, nó biết người ta mua dây thòng lọng để treo cổ chúng nó, thế mà chúng nó vẫn sản xuất và bán cho người ta” Từ đó đến nay đã gần 100 năm, và nếu chúng ta lấy mốc điểm thời gian 160 năm khi Karl Marx (1818-1883) viết tuyên ngôn thư Ðảng Cộng sản, suy ngẫm những biến cố lịch sử đã xảy ra: Chúng ta thấy nó hoàn toàn trái ngược lời tiên tri của Marx và Lenine. Marx tiên tri là Tư bản dãy chết, cách mạng tất yếu sẽ xảy ra tại những nước Tư bản, Lenine tiên đoán Cộng sản sẽ treo cổ Tư-bản; Nhưng Tư bản không dãy chết, không bị Cộng sản treo cổ, mà ngược lại, câu nói của Marx trở thành: Cộng sản dãy chết. Cách mạng tất yếu sẽ xẩy ra tại các nước Cộng sản “Và câu nói của Lenine cũng trở thành: “Tụi Cộng sản nó vừa ngu và vừa tham. Tham và ngu đến nỗi, nó biết người ta bán Coca Cola, Mac Donald, quần Jeans, hàng hóa cho nó, để dụ nó vào sập-bẫy, để bóp cổ nó chết, nhưng nó vẩn cứ mua!” W.A Harriman quả thật là một chiến-lược gia thiên tài, nếu chúng ta nghiên cứu chiến lược “Eurasian” của Skull and Bones đánh sập các nước Liên Xô và Ðông âu, thì chúng ta thấy họ đến với các nước nầy đầu tiên bằng những bang giao kinh tế, thương mại, đến với Coca Cola, Mac Donald, sau đó từ từ biến kinh tế quốc doanh thành kinh tế tư doanh, với tuyệt chiêu là “tối-huệ-quốc” làm cho xã hội dân sự các nước nầy mỗi ngày một trở nên mạnh; dỉ nhiên Ðảng và nhà nước CS mỗi ngày một yếu đi, đến lúc không thể cưỡng lại được, thì chế độ sụp đổ. Lẽ tất nhiên sự sụp đổ của Liên Xô và Ðông âu còn nhiều lý do qua sự nối-tiếp điều hành kiệt xuất của giòng họ Bush: Chiến tranh Tình-báo Phản-gián là một cú đấm sau cùng của loài Ma Ðầu-lâu Skull and Bones, vì đi với Ma phải mặc “Áo-Giấy” là vậy, cho nên Harriman không ngại ngùng khi sáng lập ra Ðảng Ðầu-lâu Xương-người. [Skull and Bones] 
Ngày hôm nay, Hoa kỳ cố gắng đưa-đẩy Việt Nam vào Tổ chức Thương Mại Quốc-tế (WTO) theo lộ-đồ, giúp VN trở thành Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo An LHQ, rồi có Vệ-tinh riêng để bảo vệ lãnh thổ (Hoa-kỳ đã hủy diệt những thám thính cơ bí-mật với âm mưu tìm kiếm hơi đốt cũng như dầu hỏa trên thềm lục địa VN, [kẻ lén lúc dọ thám tìm mỏ, nhưng có người âm thầm triệt hạ cho biết tay mảnh vun rớt trên đảo Phú Quốc] Kẻ bành trướng không chịu hiểu: “Cái ổ con Ó-Mẹ làm ra không thể Le-Le hay Vịt trời-Con nở ra nơi đó!”) Tình báo Hoa-kỳ theo lộ trình sơ khởi về phát họa những chiến thuật ngắn hạn, nằm trong một chiến lược dài hạn, đó là thay thế mô hình tổ chức xã hội độc đoán, độc tài CS, bằng mô-hình tổ chức xã hội Dân chủ, Tự do và kinh tế thị trường. Hoa kỳ tiên đoán theo lộ-đồ:

Chế độ Cộng sản chỉ sụp đổ dưới Ba sức ép:

- (1) Nhất là giới trí thức, sĩ phu, sinh viên, học sinh sẽ phải can đãm đứng lên đấu tranh càng ngày càng đông hơn, đấu tranh cho quyền sống và quyền làm người 
- (2) Sức ép đến từ quốc-tế, đến từ hành động của Cộng đồng người Việt hải ngoại
- (3) Sức ép đến từ sự rạn nứt, (đây là tuyệt chiêu của CIA) chia rẻ trong Ðảng Cộng sản qua tố cáo chỉ mặt các quan chức tham nhũng.

Dưới thời Cách-Mạng Nga thành lập chính quyền năm 1917 bởi Aleksandr Kerensky, đảng Công-ty nầy cho mượn ngay tín-dụng số tiền là 325 triệu dollars để mua các vật liệu làm chiến-cụ, dĩ nhiên vật liệu nầy phải từ Hoa-Kỳ chuyển qua Liên-Xô. Mặt khác Harriman với con mắt nhìn xa thấy rộng, đang dòm ngó nguồn tài nguyên ‘dầu khí’ và mỏ ‘manganese’ để luyện thành hợp kim ‘alloy’ làm vũ-khí, nhất là các túi dầu chạy dài dọc theo các nước Cộng-Hòa Trung-Á đang nằm sâu dưới lớp Tuyết dày đặc mà chỉ có Hoa-kỳ mới có đủ khoa-học và kỷ-thuật để khai thác. Một tư-tưởng kinh-dị về “Eurasian Great Game” đang thoáng in sâu trong óc của Harriman từ dạo đó (1920) Đây là một kế hoạch chiến lược dài lê thê đến hàng thế kỷ mà một đời người không đủ thời gian đảm trách.

Harriman chụp lấy cơ hội nhảy vào chính-trường, Thủ-tướng Anh, là Winston Churchill và Chủ-Tịch Liên-Xô, Stalin biết mọi việc ở Mỹ qua Harriman; Trong suốt thời gian Đệ II thế chiến, Harriman là người trao mật tin giữa London và Moscov, ông chọn con số cho gọn trong hồ-sơ phối hợp giữa hai bên là 322 (his diplomatic case the numerals 322) cho tiện giữ bí mật. Dù rằng cuộc đời thương-mại đang quá thành công trong việc làm ăn với hai chính quyền đang xung đột với nhau là Đức và Liên-Xô. Bên cạnh đó Công-ty Remington-Arms của Rockerfeller lại buôn lậu bí mật vũ-khí từ Hoa-kỳ bán cho Đức qua ngã Holland vào đầu năm 1930; Đối với Tập-đoàn Tư-bản nầy chỉ biết có quyền lợi qua đồng Dollar, không có bạn mà cũng không có thù, chỉ có quyền lợi quyết định sự liên-minh.

Harriman bỏ ngành Hỏa-xa qua ngành đóng tàu chiến và trở nên Đại-đế ngoài nước Mỹ, (Overseas-Empire) Theo như báo chí Saint-Louis thời đó mô tả, khi con người quá thành công về tiền-tài thì người ta lại muốn bước vào đài danh-vọng, Harriman biết chuẩn bị cho mình rất chu đáo để trở nên một nguyên thủ Quốc-gia Hoa-kỳ. Nhưng Chúa lại không chìu lòng người, hai lần ra ứng-cử đều bị thất bại, năm 1952 và năm 1956; Mặc dù đã chuẩn bị sẳn-sàng lấy đà lên chức cuối cùng làm Thống-đốc của một tiểu bang lớn nhất nước Mỹ, là New-York. 

Năm 1962, Tổng-thống Diệm được sự mách nước của vị Đại-sứ khả ái Frederick Nolting, nên đã đề cử ông Cố-vấn Ngô-Đình-Nhu qua Genève để gặp Phù-thủy Harriman và thuyết phục Harriman đừng ký vào hiệp định Trung-Lập Lào, vì biết chắc rằng Hà-Nội sẽ vi phạm và lợi dụng phần đất Lào để lấn chiếm Miền-Nam. Theo chương trình thì Harriman chỉ tiếp ông Nhu có 30 phút, nhưng cuộc bàn thảo kéo dài đến 3 tiếng; Khi Harriman tiển chân ông Nhu ra về, ông Bộ-trưởng Cao Xuân Vỹ nhận thấy vẽ mặt hai người hầm-hầm như bực tức một điều gì. Khi Cụ Nhu gặp ông Vỹ, Cụ Nhu bèn xả ra cho nhẹ người: “cái thằng Cha nầy không biết gì cả”. Làm sao Cụ Nhu biết được thế siêu chiến lược của Harriman về Eurasian! Định kiến Axiom-1 biến con đường mòn HCM thành Xa-lộ Harriman có ống dẫn dầu chạy song song theo nó do LX chịu thiết bị?

Đây là sự suy diễn có tính cách riêng tư của người viết: Một ông già 71 tuổi, đầy mưu-mô và bản-lãnh, kiên-nhẫn để cho cậu nhỏ [Cố vấn Nhu] đáng con mình hằn-học, chẳng lẽ Harriman nói toạc ra rằng: vì quyền lợi của Liên-Xô và Mỹ đã đồng thuận dùng Đông-Dương làm nơi thí nghiệm vũ khí mới vừa chế tạo và giải tỏa số Bom đạn thặng dư sau thế chiến-2, bằng cái trò chơi chiến tranh lấy danh từ hào nhoáng, về phía Liên-Xô “chiến tranh giải phóng” (NLF) và huê dạng về phía Hoa-Kỳ như “kế hoạch chống nổi dậy” (CIP) Đối với Harriman và Nhóm tham-mưu Học-giả kiệt xuất của ông sẽ không có Đại chiến thứ-3 mà chỉ có cuộc chiến khu-vực, lấy Triều-Tiên và Đông-Dương làm chiến tuyến thuộc Màn-2 của Eurasian Great Game. Trận Triều-Tiên vì quyền lợi tức thời nên để lại 50.000 quân, còn Đông-Dương vì quyền lợi tiềm-tàng để thành lập một nước VNCH lớn hơn, và sẽ thắt chặt hơn nửa thế kỷ sau đó 1995; Cái thâm-thúy là dùng khuôn viên các trường Đại-học để lý-giải hậu quả nơi chiến trường tại Việt Nam qua ba đáp sổ dưới đây:

- (1) Axiom-1: There was never a legitimate non-communist government in Saigon.
- (2) Axiom-2: The US had no legitimate reason to be involved in Vietnamese affaires. 
- (3) Axiom-3: The US could not have won the war under any circumstances.

Cùng với 3 định-đề (axioms) đã được bàn luận sâu rộng tại các Đại-Học về cuộc chiến VN trong giai đoạn năm 1960-1971 như Kenneth E. Sharpe trong “The Post Vietnam Formula Under Siege” và “Political Science Quarterly” đây là thời kỳ giải kết của Mỹ. Cái nhóm Tham-mưu nầy đã có chủ trương đưa Trung-Cộng gia nhập vào Liên-Hiệp-Quốc, nên buộc phải giải nhiệm Tướng Mc Arthur trong cuộc chiến Triều-Tiên và bức tử Miền Nam thuộc VNCH. Chiến-lược giải kết nầy đã tạo nên một tầm vóc Quốc-Tế dù kết quả có bị mang tiếng nhất thời “con Cọp giấy”, “người khổng-Lồ với đôi chân đất sét” và đưa nước Mỹ vào thời kỳ suy thoái. Nhưng tập đoàn Tư-bản cho là thời kỳ nghỉ-ngơi sau khi hoàn-tất một công trình (Inventory năm 1973-1980) Còn Nhóm Học-giả Tham-mưu thì cho rằng, trò chơi cử-tạ để phô trương bắp thịt của Hoa-kỳ đã xong, bây giờ tới phiên người Nga phải trả giá về sự cho ra đời Chủ-nghĩa Cộng-sản khắp Năm châu, bằng cách đặt Liên-Xô vào vị trí của Hoa-kỳ, như quân-đội Nga tiến vào Afghanistan. Ngoài ra Hoa-kỳ cũng phong tỏa kinh-tế các nước chư-hầu của Liên-Xô, buộc Liên-Xô phải tăng cường viện trợ kinh-tế cho họ. Mặt khác Hoa-kỳ cũng gây rối khắp nơi, làm cho Liên-Xô phải quân viện hay chính thức tham chiến để lộ bộ mặt thực dân Đỏ. Để kết cuộc qua đó mà người dân trong khối Cộng-Sản mới có cơ-hội sáng mắt, so-sánh giữa hai thể chế “Dân-chủ Tư-bản” và “Dân-chủ Cộng-sản” ai thắng ai? Một cuộc bỏ phiếu bằng chân! Một cuộc chiến thắng thầm lặng với thủ đoạn Thần sầu Quỹ khóc, nhưng không dám nói ra, sợ lương-tri nhân loại nguyền rủa, vì gieo rắc tai-ương cho các nước nhược tiểu; Cái danh xưng nổi lên cho là thất bại thảm hại của Hoa-kỳ để làm mờ đi cái “mục-tiêu” chủ yếu là đồng Dollar hốt vào qua kỷ nghệ sản-xuất chiến tranh, và nước Mỹ vẫn là Đệ Nhứt siêu cường không nước nào địch nổi.



tải về 0.99 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương