TRƯỜng đẠi học nông lâm huế khoa lâm nghiệp khóa luận tốt nghiệp têN ĐỀ TÀI


Tình hình nghiên cứu LSNG ở Việt Nam



tải về 0.8 Mb.
trang2/8
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.8 Mb.
#31620
1   2   3   4   5   6   7   8

2.3.2.3 Tình hình nghiên cứu LSNG ở Việt Nam

Tại Việt Nam, LSNG rất đa dạng, phong phú, giàu tiềm năng, phân bố rộng khắp cả nước, nhưng nghiên cứu về LSNG còn rất hạn chế. Chỉ có một số ít các tổ chức, cơ quan nghiên cứu về vấn đề này. Năm 1978, Trung tâm nghiên cứu Đặc sản rừng được thành lập (thực chất là nghiên cứu về LSNG) với nhiệm vụ nghiên cứu phát triển LSNG, phương pháp chế biến, gây trồng lâm sản có giá trị. Trung tâm này thường phối hợp với Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường (CRES-Đại học Quốc gia Hà nội) và Viện Kinh tế Sinh thái (ESCO-ECO) để thực hiện các dự án về sử dụng bền vững LSNG. Các hoạt động nghiên cứu bao gồm: phát triển và thử nghiệm các hệ thống quản lý rừng và LSNG, nghiên cứu hệ thống sở hữu LSNG ở Việt Nam, nghiên cứu thử nghiệm gây trồng một số loài LSNG có giá trị kinh tế cao dựa theo nhu cầu của người dân địa phương, gây trồng một số loài tre và dược liệu... Một số tổ chức khác có nghiên cứu về LSNG gồm có Trường Đại học Lâm nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Huế, Viện Điều tra Qui hoạch rừng, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam...

Để phát triển và sử dụng rừng nói chung và LSNG nói riêng chúng ta không chỉ giải quyết thuần túy các yếu tố kỹ thuật như chọn, tạo giống, các biện pháp kỹ thuật gây trồng, bảo vệ và chăm sóc rừng, mà còn phải nghiên cứu giải quyết rất nhiều vấn đề có liên quan tác động qua lại với nhau. Vì vậy các hướng nghiên cứu chính về LSNG tập trung biện chứng vào các vấn đề theo chuỗi hành trình của sản phẩm từ khâu tạo nguyên liệu như chọn, tạo giống, gây trồng, bảo tồn, phát triển, rồi đến khai thác, chế biến, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Song song với nó là việc điều tra, khảo sát các đặc điểm về địa hình, khí hậu, tài nguyên LSNG, cộng đồng dân cư và văn hóa, phong tục, tập quán của họ. Việc đề xuất các chương trình, chính sách văn bản về quản lý, khai thác và thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng giữ vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu LSNG.

2.3.3 Tại khu vực nghiên cứu

Theo nghiên cứu của TS. Đinh Thị Phương Anh (1977), Điều tra khu hệ động thực vật và nhân tố ảnh hưởng. Đề xuất phương án sử dụng hợp lý KBTTN Sơn Trà cho biết, Khu BTTN Sơn Trà có tổng diện tích 4.439 ha với khu bảo tồn nghiêm ngặt rộng 2.595 ha chiếm gần 58.46% tổng diện tích khu bảo tồn, về cơ bản được phân chia thành 7 đối tượng: rừng trung bình, rừng phục hồi, trảng cây bụi, trảng cỏ, rừng trồng, hồ nước, đất thổ cư và quân sự.

Hệ thực vật ở Khu BTTN Sơn Trà rất phong phú, với 90 họ, 217 chi và 289 loài thực vật bậc cao, đáng chú ý nhất là lâm sản ngoài gỗ đặc biệt là nhóm cây làm thuốc với 107 loài, chiếm 37,02%.

Về hệ động vật, Có tổng cộng 171 loài động vật có xương sống (36 loài động vật có vú, 106 loài chim, 23 loài bò sát, 6 loài lưỡng cư), trong đó có 15 loài hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng. Trong số này có loài chỉ thị của KBT là loài Voọc chà vá chân nâu, hay gọi là Voọc Douc (Pygathrix nemaeus). Loài này được IUCN liệt kê vào danh sách động vật có nguy cơ tuyệt chủng, ghi trong Phụ lục I của Công ước CITES và trong Sách Đỏ của Việt Nam. Loài động vật hiếm này lần đầu được phát hiện vào năm 1969, sau đó được coi là đã tuyệt chủng, và được phát hiện lại vào những năm 1990. Những cuộc điều tra mới đây đưa ra một con số ước tính có tổng cộng khoảng 200 con và vì vậy Sơn Trà là một trong những khu vực quan trọng nhất ở Việt Nam về lĩnh vực bảo tồn loài linh trưởng bị đe dọa toàn cầu này. Có 4 loài động vật có vú cấp cao khác cũng được khẳng định bao gồm khỉ bắt cua (Crab-eating), khỉ tai lợn (Stump-tailed) và khỉ đuôi vàng (Rhesus Macaques) và con cu li. Các loại thú lớn hơn khác trong Khu bảo tồn bao gồm Mang, Heo rừng, Cầy và Nhím. Có một số bãi biển ở bán đảo Sơn Trà là những vùng làm tổ của những loài rùa biển hiếm

Tuy nhiên, chính sự đa dạng về hệ sinh thái và thực vật lại đang biến Khu BTTN Sơn Trà trở thành tâm điểm của các hoạt động khai thác trái phép đặc biệt là khai thác lâm sản ngoài gỗ. Do đó, việc nghiên cứu của tôi tại Bán Đảo Sơn Trà là thật sự cần thiết , vì chưa có một nghiên cứu cụ thể nào về việc khai thác và quản lý LSNG tại đây, cũng như tiềm năng, và giá trị thực tế của nó với nền kinh tế của địa phương.

1999)the population in developing countries depends on NTFPs for subsistence,both economically and for nutrition.in developing countries from Latin America to Asia and Africa (Gbadebo et al(New York Times 1996 ), the market for forest products other than trees has

harvested American ginseng valued at more than $21m in 1993. PHẦN 3

MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Mục Tiêu nghiên cứu

- Đánh giá thực trạng khai thác và sử dụng lâm sản ngoài gỗ của người dân tại khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà

- Phân tích những thuân lợi, khó khăn trong quản lý lâm sản ngoài gỗ tài khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà

- Đề xuất biện pháp quản lý lâm sản ngoài gỗ phù hợp với quy định hiện hành và với bối cảnh của địa phương



3.2 Nội Dung nghiên cứu

3.2.1 Tình hình cơ bản của khu vực nghiên cứu

+ Điều kiện tự nhiên

+ Điều kiện kinh tế-xã hội

3.2.2 Đánh giá thực trạng khai thác và sử dụng lâm sản ngoài gỗ của người dân tại khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà

+ Danh lục các loại LSNG được khai thác, sử dụng và quản lý tại bán đảo Sơn Trà

+ Phân loại LSNG theo nhóm giá trị sử dụng

3.2.3 Phân tích những thuân lợi, khó khăn, cơ hội, thách thức(SWOT) trong quản lý lâm sản ngoài gỗ tại khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà

+ Các loại LSNG có ý nghĩa đối với đời sống của người dân

+ Phương thức quản lý nguồn LSNG ở bán đảo Sơn Trà

3.2.4 Đề xuất biện pháp quản lý lâm sản ngoài gỗ phù hợp với quy định hiện hành và với bối cảnh của địa phương

+ Tổ chức phối hợp giữa cộng đồng và các bên liên quan trong quản lý LSNG

+ Phân tích các chính sách trong quản lý và sử dụng LSNG

+ Hưởng lợi của cộng đồng và các bên liên quan từ nguồn lâm sản ngoài gỗ có ở bán đảo



3.3 Phương Pháp Nghiên Cứu

3.3.1 Phương pháp thu thập số liệu

- Số liệu thứ cấp:

+Thu thập số liệu tại cơ sở, các văn bản, dự án, báo cáo liên quan đến LSNG ở bán đảo

+ Thu thập các thông tin về điều kiện tự nhiên, xã hội của khu vực nghiên cứu

+ Thu thập những thông tin liên quan đến lâm sản ngoài gỗ tại địa phương như phạm vi thu hái, hồ sơ vi phạm hành chính liên quan đến LSNG từ Ủy ban nhân dân phường, cán bộ kiểm lâm, ban quản lý bảo vệ rừng thuộc khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà

+ Số liệu sơ cấp: Thu thập bằng phương pháp phỏng vấn, xây dựng bảng hỏi phỏng vấn (phỏng vấn bán cấu trúc, trực tiếp hộ)



3.3.2 phương pháp xử lý số liệu

+ Tổng hợp và phân tich đánh giá kết quả thu được

+ Đối với số liệu thứ cấp:

- Thu thập, tìm hiểu trên các báo cáo nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước, tạp chí, internet, sách, báo...

- Xin số liệu tại hạt kiểm lâm liên Quận Sơn Trà – Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng, các số liệu thu thập bao gồm:

• Số liệu về các vấn đề trong khu bảo tồn như: Lịch sử thành lập khu bảo tồn, cơ cấu tổ chức, tình hình công tác quản lý, bảo vệ rừng, các hoạt động ảnh hưởng đến khu bảo tồn...

• Thu thập bản đồ hiện trạng rừng, bản đồ sử dụng đất trong khu bảo tồn.

• Số liệu kết quả điều tra kiểm kê rừng tại khu bảo tồn, và một số kết quả nghiên cứu của các tác giả đã có các công trình nghiên cứu tại KBTTN

- Đối với các cơ quan đơn vị chức năng khác các số liệu thu thập gồm:

• Đặc điểm về tình hình khí hậu, thủy văn ở khu vực Sơn Trà.

• Thu thập thông tin kinh tế - xã hội.

sau khi thu thập được tài liệu thì chọn lọc phần tài liệu có chứa các nội dung hoặc thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu

+ Đối với số liệu sơ cấp: số liệu phỏng vấn được từ các hộ lấy theo phần % Ý kiến hộ % hộ gia đình hoặc thông tin sẽ được thể hiện bằng bảng biểu sau khi tập hợp lại từ các ý kiến của các hộ gia đình đưa ra

+ Tổng hợp thông tin từ các nguồn trên: so sánh thông tin thu thập được từ các nguồn trên làm cơ sở phân tích cho vấn đề nghiên cứu

- Sử dụng một số công cụ phân tích SWOT, sơ đồ Venn

- Sử lý số liệu bằng phần mềm Microsoft Exel 2003



PHẦN 4

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 Giới thiệu chung về ban quản lý(BQL) khu BTTN Sơn Trà(Nay là hạt kiểm lâm liên Quận Sơn Trà – Ngũ Hành Sơn).

4.1.1 Sự hình thành Khu BTTN Sơn Trà

Khu BTTN Sơn Trà là một bán đảo cách trung tâm TP Đà Nẵng 10 Km về phía Đông Bắc, nằm trên địa phận thuộc phường Thọ Quang, Quận Sơn Trà. Khu rừng cấm Sơn Trà được hình thành theo Quyết định số 41/TTg ngày 21/01/1977 của Thủ tướng chính phủ. Đến năm 1992 Khu rừng cấm Sơn Trà được chuyển tên thành Khu Bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà theo Quyết định số 447/LN-KL ngày 02/10/1992 của Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) về phê duyệt Luận chứng Kinh tế-Kỹ thuật xây dựng khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà TP Đà Nẵng với quy mô lâm phận là 4.439 ha (Trong đó có 4.189,7 ha đất lâm nghiệp và 249,3 ha đất khác).

Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà là bức bình phong chắn gió bão, là lá phổi xanh giữ gìn môi trường trong sạch của một thành phố công nghiệp. Ngoài ra Sơn Trà còn giữ trong mình nguồn tài nguyên nước phong phú với 20 con suối có nước quanh năm hoặc theo mùa, trong đó suối Đá, suối Heo giữ vai trò điều tiết và cung cấp nước chính cho nhân dân Quận Sơn Trà.

Mặt khác trong khu vực còn chứa đựng nhiều nguồn gen quý hiếm có thể phục vụ cho công tác tạo giống và nghiên cứu khoa học. Đây là nơi giao lưu của hai luồng sinh vật Bắc - Nam, tập trung nhiều loài động, thực vật quý hiếm, điển hình như loài Voọc vá chân nâu là loài đặc hữu tại Sơn Trà. Bên cạnh đó vị trí của khu BTTN Sơn Trà rất thuận lợi cho việc phát triển du lịch sinh thái rừng - biển và thực tế thành phố đã duyệt 5 dự án du lịch trên bán đảo Sơn Trà.



4.1.2 Lịch sử nghiên cứu về khu BTTN Sơn Trà.

Từ đầu thế kỷ 20, Sơn Trà đã được các nhà thực vật Pháp chọn làm nơi thu thập mẫu cây để xây dựng bộ "Thực vật chí tổng quát Đông Dương" (Flora général de T'la - docchine). Trong đó công bố ở Sơn Trà có một số loài thực vật. Trong thời kỳ 1965-1975 bán đảo Sơn Trà là khu quân sự lớn của Mỹ ngụy nên không có hoạt động nghiên cứu nào.

Sau giải phóng năm 1978 Trạm Dược liệu thành phố Đà Nẵng đã nghiên cứu khu hệ thực vật bán đảo Sơn Trà và công bố có một số loài thực vật làm nguồn dược liệu như Bách bộ (Stemona Tuberosa), Mã kinh tử (Vitex trifoliata), Ngũ gia bì (Scheffera octophylla); Lá khôi (Ardisia silreestris).

Năm 1989 Viện điều tra quy hoạch rừng kết hợp với Sở Lâm nghiệp Quảng Nam-Đà Nẵng trong quá trình điều tra để xây dựng Luận chứng Kinh tế -Kỹ thuật Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà đã công bố danh lục động, thực vật có tại Sơn Trà gồm: 289 loài thực vật thuộc 217 chi và 90 họ, trong đó xác định một số loài thực vật thuộc nguồn gen quý hiếm như gụ lau, chò chai (chò đen), dầu lá bóng...và 99 loài động vật gồm 30 loài Thú, 51 loài Chim, 15 lòai Bò sát và 3 lòai Ếch Nhái.

Năm 1996 một cuộc điều tra chi tiết hơn về hệ thực vật, động vật tại khu BTTN Sơn Trà do các cán bộ Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng phối hợp với Ban quản lý khu BTTN Sơn Trà, với sự tham gia của Viện Điều tra Quy hoạch rừng (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) và Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật tiến hành. Kết quả điều tra đã thống kê và lập danh lục các loài thực vật, động vật có tại khu BTTN Sơn Trà gồm: 985 loài thực vật bậc cao thuộc 483 chi và 143 họ (có 22 loài quý hiếm) và 287 loài động vật thuộc 94 họ và 38 họ (15 loài quý hiếm).

Nhìn chung, các nghiên cứu từ trước đến nay tại khu vực này bước đầu đã có những thông tin nhất định về thành phần loài. Tuy nhiên, việc nghiên cứu các giá trị về LSNG, độ giàu loài chưa được nghiên cứu.



4.1.3 Tình hình quản lý bảo vệ rừng.

Trước năm 1975, Sơn Trà là khu quân sự và quân Cảng của Mỹ Ngụy nhân dân không được vào. Do đó trong thời gian này tài nguyên rừng còn rất tốt và phong phú.

Sau ngày miền Nam giải phóng (1975) nhân dân tự do ra vào Sơn Trà khai thác gỗ, củi, nhựa cây, song mây và săn bắt động vật rừng....

Tháng 5/1976 UBND cách mạng tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng ra Quyết định 272/QĐ-UB về Bảo vệ và khôi phục lại rừng Sơn Trà. Hạt kiểm lâm nhân dân TP Đà Nẵng ra đời chịu trách nhiệm quản lý bảo vệ khu rừng cấm Sơn Trà.

Tháng 7/1987 Hạt Kiểm lâm TP Đà Nẵng chuyển đổi tổ chức thành Ban quản lý Khu Bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà theo Quyết định của UBND tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng chính thức hoạt động quản lý xây dựng khu BTTN Sơn Trà. Đến tháng 01/1997 theo yêu cầu chia tách tỉnh QN-ĐN tái lập thành phố Đà Nẵng, BQL khu BTTN Sơn Trà được UBND thành phố Quyết định tái thành lập BQL trực thuộc Chi cục Kiểm lâm thành phố Đà Nẵng.

Từ năm 1976-1979 tài nguyên thực vật rừng và động vật rừng tại Sơn Trà được bảo vệ tốt, chỉ có những đơn vị bộ đội đóng quân trong khu vực, khai thác củi làm chất đốt. Nhưng từ năm 1979-1989 đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn, tình hình bảo vệ rừng còn lỏng lẻo, nhân dân sống ở xung quanh Sơn Trà vào rừng khai thác gỗ, củi và các lâm sản khác ngày càng nhiều. Thú rừng là đối tượng bị săn bắt khá mạnh, đặc biệt là Khỉ, Hoẵng và Voọc chà vá. Lực lượng phá rừng chủ yếu là thanh niên không có công ăn việc làm ở các phường Thọ Quang, Mân Thái, Phước Mỹ, An Hải Bắc, học sinh các trường phổ thông trung học trong dịp nghỉ hè, ngư dân không đi biển được trong những ngày biển động cũng tham gia vào việc phá rừng, cùng với hiện tượng dùng súng đi săn trong khu bảo tồn khá phổ biến, nhất là lực lượng bộ đội ở trên các đỉnh núi Sơn Trà. Tình hình trên làm cho Sơn Trà mỗi năm mất ướt tính 80 ha rừng.

Từ năm 1990 cho đến nay, tình hình quản lý bảo vệ rừng đã có nhiều tiến bộ rõ rệt, người dân ý thức được việc bảo vệ rừng bên cạnh đó các cấp chính quyền cũng đã ngày càng quan tâm đến công tác bảo vệ rừng. Người dân tích cực nhận đất để trồng rừng và làm kinh tế vườn rừng ở khu vực mà trước đây đã bị tàn phá. Diện tích rừng trung bình và rừng trồng được tăng lên, các khu rừng phục hồi diễn thế tự nhiên phát triển mạnh ít bị tác động. Tuy nhiên, Tình trạng khai thác gỗ củi, săn bắt vẫn còn diễn ra, người dân sống quanh khu bảo tồn vẫn còn vào rừng thu hái LSNG như: song mây, hái thuốc, đốt than, bẫy động vật... Lực lượng Kiểm lâm vẫn luôn tăng cường công tác tuần tra truy quét nhằm ngăn chặn dứt điểm tình trạng trên.

Ngày 12/01/2009 ban quản lý khu BTTN Sơn Trà đổi thành Hạt Kiểm Lâm liên Quận Sơn Trà – Ngũ Hành Sơn.



4.1.4 Những chính sách đầu tư khuyên khích phát triển khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà.

Việc xây dựng khu BTTN Sơn Trà nhằm mục đích cân bằng sinh thái, bảo vệ môi trường, bảo vệ tính đa dạng sinh học, đồng thời bảo vệ rừng gắn liền với phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Tạo cảnh quan trong khu vực, phát huy các giá trị tiềm năng về du lịch sinh thái.

Trong các năm qua Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc phát triển kinh tế, văn hoá xã hội như: Chương trình xoá đói giảm nghèo, phát triển cơ sở hạ tầng, đầu tư cho giáo dục, y tế, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người dân, đảm bảo đời sống ổn định cho nhân dân; ổn định an ninh trật tự, quốc phòng. Điều đó có nghĩa rất lớn, hạn chế sức ép từ người dân vào khu bảo tồn.

Đối với lĩnh vực lâm nghiệp có các chính sách như: Phát triển kinh tế rừng, trồng rừng phủ xanh đất trồng đồi núi trọc, giao khoán đất cho người dân trồng và bảo vệ rừng. Tại khu BTTN Sơn Trà, các chính sách đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước đã được triển khai như: Đầu tư xây dựng công trình PCCC rừng và các hoạt động bảo vệ rừng mỗi năm 30-40 triệu đồng, Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho Trạm Kiểm lâm: 50 triệu đồng; Đầu tư cho việc bảo vệ rừng, trồng rừng và khoanh nuôi tái sinh rừng theo chương trình 327 và 661 từ năm 1993 đến nay với tổng vốn đầu tư gần 700 triệu đồng.



4.2 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tại khu vực nghiên cứu.

4.2.1 Điều kiện tự nhiên.

4..2.1.1 Vị trí địa lý địa hình.

Sơn Trà là một bán đảo nằm ở phía Đông Bắc thành phố Đà Nẵng, phía Tây Bắc giáp vịnh Đà Nẵng, Đông Bắc và Đông Nam giáp biển đông, Tây Nam giáp đất liền và Cảng Sông Hàn.

Về mặt hành chính, bán đảo Sơn Trà thuộc phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, nằm ngang theo hướng Đông Tây và nối với đất liền vùng nội thị của thành phố Đà Nẵng. Khối núi có chiều dài 13 km, chỗ rộng nhất 5 km, hẹp nhất 1,5 km.

Toạ độ địa lý: 108012'45'' - 108020'48'' kinh độ Đông.

16005'50'' - 16009'06'' vĩ độ Bắc

4.2.1.2 Địa hình, địa chất.

Dãy núi bán đảo Sơn Trà như một hình khối con cá chình, dài theo hướng Đông - Tây, các sườn chạy theo hướng Bắc Nam có độ dốc lớn từ 250 - 300 chia cắt bởi hệ thống khe suối. Nhìn chung sườn Đông Bắc dốc hơn sườn Tây Nam. Đỉnh cao nhất của bán đảo Sơn Trà là đỉnh ốc 696m, tiếp theo là đỉnh truyền hình 647m, đỉnh 2 quả cầu 621m. Từ trên các đỉnh cao này có thể quan sát được khu vực dân cư sống quanh bán đảo Sơn Trà và cả thành phố Đà Nẵng.

Bán đảo Sơn Trà được hình thành từ Kỷ Tiền Cambi cách đây khoảng 2000 triệu năm: Được cấu tạo từ đá Granít. Đất chủ yếu là đát Feralit vàng nâu phát triển trên đá Granit. Đất có thành phần cơ giới nhẹ, khả năng giữ nước kém, tầng đất trung bình, đá lộ nhiều, bình quân 20 - 30% diện tích bề mặt đất.


4.2.1.3 Khí hậu, thuỷ văn.

* Khí Hậu.

Theo tài liệu "phân vùng khí hậu tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng" của PTS Lê Quang Quỳnh-Viện khí tượng thuỷ văn 1988, Tài liệu "Đặc điểm khí hậu Quảng Nam Đà Nẵng" của Kỹ sư Trương Đình Hùng 1993; Tài liệu khí tượng thuỷ văn Quận Sơn Trà theo niên giám thống kê 2004, Sơn Trà thuộc vùng khí hậu III, đồng bằng Duyên Hải và hải đảo có khí hậu nhiệt đới gió mùa có các đặc điểm sau:



- Nhiệt độ

Tổng nhiệt BQ năm: 8700-93620C. Nhiệt độ trung bình năm 24 - 25,60C. Tháng nóng nhất là các tháng 5, 6, 7, 8. Nhiệt độ trung bình cao nhất từ 32-360C, những ngày có gió mùa Tây Nam nhiệt độ có khi lên đến 28 - 390C.



- Lượng mưa

Tổng lượng mưa trung bình năm 2048mm/năm; lượng mưa lớn nhất tập trung vào tháng 10,11,12; lượng mưa thấp nhất tập trung vào tháng 6,7.

Độ ẩm không khí trung bình: 80 – 90%; độ ẩm cao tập trung các tháng 9,10,11 (85% - 87%); độ ẩm thấp nhất tập trung vào tháng 6,7 (74% – 76%).

Tốc độ gió: Cao tập trung vào tháng 9,10 (13m/s – 14m/s); thấp nhất tập trung vào tháng 1,2,3,4,11,12 (4m/s – 7m/s).

Tổng số giờ nắng trong năm: 1800 – 2000 giờ.

Bảng 1: Thống kê lượng mưa qua các tháng ở Sơn Trà và thành phố Đà Nẵng.

T
Khu vực
háng


1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

Đà Nẵng

153.3

0.4

58.0

55.3

156.4

7.1

24.1

152.2

252.8

1147.4

893.6

163.8

Sơn Trà

190.1

0

66.2

65.8

57.8

18.2

20.3

239.1

133.5

982.3

1164.6

303.6

(nguồn: Trung tâm khí tượng thủy văn và khu vực trung trung bộ, 2007)

Qua bảng 1 ta thấy mùa mưa tại Sơn Trà và thành phố Đà Nẵng bắt đầu từ tháng 8 đến cuối tháng 12 hoặc tháng 1, các tháng có mưa lớn là 10,11,12. Mùa khô kéo dài từ tháng 2 đến tháng 7.

Lượng mưa tại Sơn Trà nhìn chung cao hơn Đà Nẵng, tuy nhiên vào tháng 2 tháng 9,10 lượng mưa tài Đà Nẵng cao hơn Sơn Trà do đây là 2 tháng tại Sơn Trà có tốc độ Gió cao (13m/s – 14m/s), ảnh hưởng đến sự hình thành lượng mưa tại đây.

Điều này được minh họa qua hình 1:





Hình 1. Biểu đồ so sánh lượng mưa Đà nẵng và Sơn Trà

(nguồn: Trung tâm khí tượng thủy văn và khu vực trung trung bộ, 2007)



* Thuỷ văn

Sơn trà có khoảng 20 con suối chảy quanh năm hoặc theo mùa bao gồm:

- Ở sườn Bắc Sơn Trà: Có suối Hải đội 8, Tiên Sa, Suối lơn, Suối sâu, Suối ông Tám, Suối ông Lưu, và Suối Bãi Bắc.

- Ở sườn Nam Sơn Trà: có suối Bãi Con, Bãi Chẹ, Suối Đá Bằng, Suối Bãi Xếp, Suối Heo, Suối Mân Quang ...

Trong các suối kể trên có hai con suối lớn nhất là Suối Đá, và Suối Heo, hai con suối này cung cấp nước phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt chủ yếu cho nhân dân ở quanh Sơn Trà.


4.2.2 Điều kiện kinh tế - xã hội tại khu vực nghiên cứu.

4.2.2.1 Dân số và phân bố

Dân số toàn Quận Sơn Trà thuộc thành phố Đà Nẵng gồm có 7 phường với 113.613 nhân khẩu. Nam: 55.220 khẩu, Nữ: 58.393 khẩu; Mật độ dân số bình quân : 1.869 người/ km2, lao động 68.168 người, trong đó có việc làm 64.003 người; chưa có công ăn việc làm 4.165 người.



Bảng 2: Dân số - cơ cấu dân số Quận Sơn Trà (2004)

(ĐVT: người)



Phường

Tổng số

Trong đó

Nam

Nữ

Tổng

%

Tổng

%

Toàn Quận

113.613

55.220

46,6

58.393

51,40

1. An Hải Đông

15.383

7.550

49,08

7.833

50,92

2. An Hải Tây

14.159

6.822

48,18

7.337

51,82

3. Phước Mỹ

14.617

7.131

48,79

7.486

51,21

4. An Hải Bắc

21.587

10.375

48,06

11.212

51,90

5. Nại Hiên Đông

13.733

6.669

48,56

7.064

51,44

6. Mân Thái

13.134

6.370

48,50

6.764

51,50

7. Thọ Quang

21.000

10.303

49,06

10.697

50,94

(Nguồn: Niên giám thống kê 2004 - Phòng thống kê Quận Sơn Trà).

Dân số ở Sơn Trà có tỷ lệ nữ chiếm nhiều hơn nam giới. Nguồn lao động chiếm 60% tổng dân số của Quận. Lao động có công ăn việc làm chiếm tỷ lệ 93,89%; lao động chưa có công ăn việc làm chiếm tỷ lệ 6,11%. Điều này cho thấy việc giải quyết tạo công ăn việc làm cho người dân ở Quận Sơn Trà rất cao, tình trạng thất nghiệp ít, đó cũng đồng nghĩa với việc ổn định, nâng cao đời sống của người dân, trật tự an ninh được đảm bảo, giảm áp lực của người dân đối với khu bảo tồn. Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp, không có công ăn việc làm là 4.165 người. (6,11%) ít nhiều đây cũng là thách thức đối với khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà với những hoạt động trái phép của họ như: đốt rừng, hái lá, đốt than, chặt củi, săn bẫy động vật.



tải về 0.8 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương