TRƯỜng đẠi học khoa học tự nhiên viện khoa học và CÔng nghệ việT NAM viện hoá HỌC



tải về 422.11 Kb.
trang4/6
Chuyển đổi dữ liệu27.07.2016
Kích422.11 Kb.
#7747
1   2   3   4   5   6

3.1.2. Lựa chọn nhiệt độ nung

Sau khi có kết quả phân tích nhiêt, chúng tôi tiến hành nâng nhiệt độ làm già gel trong tủ sấy ở 120oC, sau khi làm già gel, thu được khối xốp màu nâu. Khối xốp này được nung ở các nhiệt độ khác nhau, trong 2 giờ. Các mẫu sau khi nung được kiểm tra sự hình thành pha NiO bằng phương pháp XRD.

Hình 3.2. là giản đồ nhiễu xạ tia X các mẫu nhiệt độ nung thay đổi trong khoảng 300oC đến 600oC. Tất cả các mẫu đều cho pha NiO kết tinh tốt (các pic phản xạ đặc trưng cho pha NiO đều cao và nhọn). Tuy nhiên có thể quan sát thấy mức độ hoàn thiện tinh thể giữa các mẫu: với mẫu nung ở 300, 400, và 500oC xuất hiện thêm một số pic nhỏ của pha lạ, rõ nhất ở vị trí góc quét 2 = 52oC đặc trưng cho pha tinh thể của Ni, mặc dù sự xuất hiện của pha này là không đáng kể; với mẫu nung ở 600oC cho pha tinh thể hoàn chỉnh nhất và đơn pha (cường độ các phản xạ mạnh đỉnh cao, mạnh nền rất phẳng và thấp, không quan sát thấy bất kỳ pha tạp lạ nào về mặt nhiễu xạ tia X).



Hình 3.2. Giản đồ nhiễu xạ tia X theo nhiệt độ nung tổng hợp NiO.

Để làm rõ thêm sự hình thành pha NiO, trên hình 3.3 biểu diễn phổ FTIR của các mẫu nung thay đổi theo nhiệt độ.

Phổ FTIR cho thấy, các mẫu nung ở 300, 400oC có chứa các pic ở 1634,13 cm-1 đặc trung cho dao động của nhóm CO, và pic ở 1023,36 – 1379,64 cm-1 được gán cho dao động của nhóm nitrat. Các pic này hầu như biến mất khi nung ở nhiệt độ 500oC và không thay đổi khi nung ở 600oC. Điều này cho thấy các mẫu khi nung ở nhiệt độ thấp hơn 500oC tuy có sự kết tinh và cho pha tinh thể tốt nhưng các hợp chất hữu cơ trong gel chưa được phân huỷ hoàn toàn (biểu hiện bằng các pic dao động đặc trưng của liên kết hữu cơ); mẫu nung ở 600oC chỉ còn pic trong khoảng 428,66 cm-1 đặc trưng cho dao động của liên kết Ni-O trong tinh thể.



Hình 3.3. Phổ FTIR các mẫu theo nhiệt độ nung tổng hợp NiO.

Kết hợp các dữ liệu thực nghiệm nhận được từ phổ nhiễu xạ tia X và phổ hồng ngoại FTIR, qua phân tích nhận thấy mẫu nung ở 600oC cho đơn pha tinh thể NiO không có lẫn bất cứ tạp chất nào từ tiền chất đưa vào ban đầu theo phép phân tích nhiễu xạ tia X và phổ hồng ngoại FTIR. Chúng tôi chọn 600o là nhiệt độ nung tối ưu trong việc khảo sát các yếu tố ảnh hưởng khác.



3.1.3. Khảo sát ảnh hưởng của pH tạo gel

Giá trị pH là một trong những thông số quan trọng trong quy trình tổng hợp vật liệu khi đi từ pha dung dịch. Chúng tôi tiến hành tạo gel theo quy trình 2.1.1 và như tạo gel trong phần lựa chọn nhiệt độ nung nhưng thay đổi pH trong quá trình tạo gel với các giá trị pH lần lượt là 2, 3, 4, 5 và nung ở 600oC trong 2 giờ.

Các mẫu sau khi nung được kiểm tra sự hình thành pha NiO bằng phương pháp XRD. Hình 3.4 là giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu nung khi thay đổi pH tạo gel.



Hình 3.4. Giản đồ nhiễu xạ tia X theo pH tạo gel Ni-PVA nung ở 600oC

Qua giản đồ nhiễu xạ tia X cho thấy tất cả các mẫu đều cho pha NiO kết tinh tốt (các pic phản xạ đặc trưng cho pha của NiO, đều cao và nhọn), tuy nhiên cũng có thể quan sát thấy các mẫu ở pH = 2, 3, và 5 ngoài các píc đặc chưng cho sự phản xạ của pha NiO còn có pic phản xạ đặc trưng cho lạ, rõ nhất ở vị trí góc quét 2 = 45o và 2 = 52o; mẫu nung ở pH = 4 cho các pic phản xạ đặc trưng cho đơn pha tinh thể NiO (cường độ phản xạ của pic nhọn, nền phẳng, không phát hiện thấy bất kì pha lạ nào).

Do vậy, các thí nghiệm khảo sát tiếp theo chúng tôi chọn nung ở 600oC và tạo gel ở pH = 4 để đi tìm điều kiện tối của các yếu tố khác đến việc tổng hợp NiO.

3.1.4. Khảo sát ảnh hưởng của tỷ lệ mol KL/PVA

PVA ngoài đóng vai trò như chất phân tán đồng thể các cation kim loại, khả năng tao liên kết còn là chất cung cấp nhiệt cho quá trình tổng hợp cháy. Do vậy, cần khảo sát tỷ lệ mol KL/PVA để tìm tỷ lệ tối ưu giúp sự phân huỷ nhiệt cho sự tạo đơn pha tinh thể NiO.

Điều chế các gel ở pH = 4, nhiệt độ tạo gel 80oC và tỉ lệ mol Ni/PVA lần lượt là 1/1; 1/3; 1/6; 3/1 và 6/1. sấy khô và nung gel ở 600oC trong 2 giờ. Các mẫu nung được kiểm tra sự hình thành pha bằng phương pháp XRD. Hình 3.5 giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu tạo gel thay đổi tỷ lệ mol Ni/PVA.



Hình 3.5. Giản đồ nhiễu xạ tia X các mẫu theo tỉ lệ mol tạo gel Ni-PVA nung ở 600oC.

Qua giản đồ nhiễu xạ tia X cho thấy tất cả các mẫu đều cho pha NiO kết tinh tốt, các mẫu với tỉ lệ Ni/PVA = 6/1; 3/1; 1/1 ngoài các pic phản xạ đặc trưng cho pha tinh thể của NiO còn có một số pic phản xạ đặc trưng cho sư kết tinh của pha Ni kim loại; hai mẫu điều chế với tỉ lệ mol Ni/PVA = 1/3; 1/6 pic phản xạ cho thấy sự kết tinh đơn pha tinh thể và ngoài ra không phát hiện thấy một pha tinh thể nào khác.

Chúng tôi chọn tỉ lệ mol Ni/PVA = 1/3 cho phản ứng tạo gel để tổng hợp vật liệu NiO và tỉ lệ thực nghiệm này được kết hợp với các điều kiện tối ưu đã tìm được ở trên sử dụng cho các thí nghiệm tiếp theo khi khảo sát nhiệt độ của quá trình tạo gel.

3.1.5. Khảo sát nhiệt độ tạo gel

Điều chế các gel với tỉ lệ mol Ni/PVA = 1/3, pH = 4 và ở các nhiệt độ khác nhau (40, 60, 80, 100oC). Gel được sấy khô (làm già) và sau đó nung ở 600oC trong 2 giờ. Các mẫu nung được kiểm tra sự hình thành pha tinh thể bằng phương pháp XRD. Hình 3.6 giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu nung khi thay đổi nhiệt độ tao gel Ni-PVA.





Hình 3.6. Giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu theo nhiệt độ tao gel Ni-PVA nung ở 600oC.

Trên hình 3.6 kết quả cũng cho thấy tất cả các mẫu đều có các pic phản xạ đặc trưng cho sự kết tinh tốt của pha tinh thể NiO, tuy nhiên trên giản đồ cũng cho thấy các mẫu tạo gel ở nhiệt độ 40, 60 và 100oC có sự xuất hiện thêm các pic lạ đặc trưng cho sự kết tinh của pha Ni, pic phản xạ yếu ở góc quét 2 = 45o và píc phản xạ mạnh ở 2 = 52o; mẫu tạo gel ở 80oC chỉ cho các pic phản xạ đặc trưng cho đơn pha tinh thể NiO ngoài ra không phát hiện một pha lạ nào khác.

Chúng tôi chọn 80oC là nhiệt độ tạo gel tối ưu cho sự hình thành đơn pha tinh thể NiO.

3.1.6. Một số đặc trung của mẫu NiO tối ưu

Phương pháp SEM cho phép xác định được kích thước hạt trung bình và hình dạng vật liệu có cấu trúc tinh thể. Hình 3.7 là ảnh SEM của mẫu với độ phóng đại 100.000 và 150.000 lần các hạt có kích thước dạng hình cầu, rất đồng đều với đường kính trung bình  30 nm. Kích thước hạt tinh thể tính theo phương pháp Scherrer là 16 nm. Diện tích bề mặt của mẫu tối ưu theo phương pháp BET là 32,57 m2/g.







Phóng đại 100.000 lần

Phóng đại 150.000 lần

Hình 3.7. Ảnh SEM của mẫu NiO

3.2. Tổng hợp vật liệu NiFe2O4

Các mẫu gel được điều chế tương tự sự tạo gel Ni-PVA theo đúng quy trình tổng hợp vật liệu như trong mục 2.1.1 nhưng lượng chất (mol) kim loại được tính cho tổng số mol ion kim loại (Ni2+ + Fe3+) có trong dung dịch và tỉ lệ mol của ion Ni2+/Fe3+ trong dung dịch được lấy theo tỉ lượng tương ứng với sự hình thành pha của NiFe2O4 là 1/2.



3.2.1. Kết quả phân tích nhiệt

Gel sấy khô sau khi được điều chế ở điều kiện thí nghiệm pH = 4, nhiệt độ tạo gel = 60oC, tỉ lệ mol KL/PVA = 1/3 được phân tích nhiệt để tìm ra nhiệt độ nung cho sự hình thành pha của NiFe2O4 và kết quả thể hiện trên hình 3.8.





Hình 3.8. Giản đồ phân tích nhiệt DTA, TGA và DTG của mẫu NiFe2O4.

Từ giản đồ TGA cho thấy sự phân huỷ gel diễn ra ở vùng nhiệt độ thấp 50 – 350oC. Trên đường DTA xuất hiện 2 hiệu ứng:

- Hiệu ứng thứ nhất thu nhiệt đạt cực đại ở khoảng 98,7oC kèm theo sự giảm khối lượng lớn được ghi trên đường TGA là 46 % do bay hơi nước còn lại trên bề mặt của mẫu.

- Hiệu ứng thứ hai toả nhiệt mạnh (đỉnh cao, nhọn) đạt cực đại ở 318,8oC kèm theo sự giảm khối lượng khá lớn là 34,8 % là do có sự cháy của các hợp chất hữu cơ có trong gel.

Sau 400oC trên đường DTA không thấy xuất hiện một hiệu ứng nào khác và cũng không ghi nhận được sự giảm khối lượng nào trên đường TGA.

Như vậy, sự hoạt động của gel xảy ra chủ yếu trong khoảng nhiệt độ từ 98oC đến 400oC, mạnh nhất ở 350,2oC và khối lượng gel mất đi khá lớn trong khoảng nhiệt độ này.

Từ những dữ kiện thực nghiệm nhận được chúng tôi tiến hành tạo gel, sấy khô và nung ở nhiệt độ thích hợp để thu nhận NiFe2O4.

3.2.2. Lựa chọn nhiệt độ nung



Hình 3.9. Giản đồ nhiễu xạ tia X theo nhiệt độ nung tổng hợp NiFe2O4.

Sau khi có kết quả phân tích nhiêt, chúng tôi tiến hành nâng nhiệt độ làm già gel trong tủ sấy ở 120oC, gel tự bốc cháy, thu được khối xốp. Khối xốp này được nung ở các nhiệt độ khác nhau, trong 2 giờ. Các mẫu sau khi nung được kiểm tra sự hình thành pha NiFe2O4 bằng phương pháp XRD.

Hình 3.9. là giản đồ nhiễu xạ tia X các mẫu nhiệt độ nung thay đổi trong khoảng 300oC đến 600oC. Tất cả các mẫu đều cho pha NiFe2O4 kết tinh tốt. Tuy nhiên có thể quan sát thấy mức độ hoàn thiện tinh thể giữa các mẫu: với mẫu nung ở 600oC xuất hiện thêm một số pic nhỏ của pha lạ đặc trưng cho pha tinh thể của Fe2O3, mặc dù sự xuất hiện của pha này là không đáng kể; với các mẫu nung ở 300, 400 và 500oC cho pha tinh thể hoàn chỉnh nhất và đơn pha (không quan sát thấy bất kỳ pha tạp lạ nào về mặt nhiễu xạ tia X).



Hình 3.10. Phổ FTIR các mẫu theo nhiệt độ nung tổng hợp NiFe2O4.

Để làm rõ thêm sự hình thành pha NiFe2O4, trên hình 3.10 biểu diễn phổ FTIR của các mẫu nung thay đổi theo nhiệt độ.

Phổ FTIR cho thấy, các mẫu nung ở 300 và 400oC có chứa các pic ở 1618 cm-1 đặc trung cho dao động của nhóm CO, và pic ở 1315 cm-1 được gán cho dao động của nhóm nitrat. Các pic này hầu như biến mất khi nung ở nhiệt độ 500oC và không thay đổi khi nung ở 600oC. Điều này cho thấy các mẫu khi nung ở nhiệt độ thấp hơn 500oC tuy có sự kết tinh và cho pha tinh thể tốt nhưng các hợp chất hữu cơ trong gel chưa được phân huỷ hoàn toàn (biểu hiện bằng các pic dao động đặc trung của liên kêt hữu cơ); các mẫu nung ở 500 và 600oC chỉ còn pic trong khoảng 410 - 559 cm-1 đặc trung cho dao động của liên kết kim loại - oxi trong tinh thể.

Kết hợp các dữ liệu thực nghiệm nhận được từ phổ nhiễu xạ tia X và phổ hồng ngoại FTIR, qua phân tích nhận thấy mẫu nung ở 500oC cho đơn pha tinh thể NiFe2O4 không có lẫn bất cứ tạp chất nào từ tiền chất đưa vào ban đầu theo phép phân tích nhiễu xạ tia X và phổ hồng ngoại FTIR. Chúng tôi chọn 500o là nhiệt độ nung tối ưu trong việc khảo sát các yếu tố ảnh hưởng khác.



3.2.3. Khảo sát ảnh hưởng của pH tạo gel

Chúng tôi tiến hành tạo gel theo quy trình 2.1.1 và như tạo gel trong phần lựa chọn nhiệt độ nung nhưng thay đổi pH trong quá trình tạo gel với các giá trị pH lần lượt là 2, 3, 4, 5 và nung ở 500oC trong 2 giờ.

Các mẫu sau khi nung được kiểm tra sự hình thành pha NiFe2O4 bằng phương pháp XRD. Hình 3.11 là giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu nung khi thay đổi pH tạo gel. Qua giản đồ nhiễu xạ tia X cho thấy tất cả các mẫu đều cho pha NiO kết tinh tốt, tuy nhiên cũng có thể quan sát thấy các mẫu ở pH = 2, 3 ngoài các píc đặc chưng cho sự phản xạ của pha NiFe2O4 còn có pic phản xạ đặc trưng cho lạ đặc trưng cho sự hình thành của pha tinh thể Fe2O3; mẫu nung ở pH = 4 và 5 cho các pic phản xạ đặc trưng cho đơn pha tinh thể NiFe2O4.




Hình 3.11. Giản đồ nhiễu xạ tia X theo pH tạo gel.

Do vậy, các thí nghiệm khảo sát tiếp theo chúng tôi chọn nung ở 600oC và tạo gel ở pH = 4 để đi tìm điều kiện tối của các yếu tố khác ảnh hưởng đến việc tổng hợp NiFe2O4.



3.2.4. Khảo sát ảnh hưởng của tỷ lệ mol KL/PVA

Điều chế các gel ở pH = 4, nhiệt độ tạo gel 60oC và tỉ lệ mol KL/PVA lần lượt là 1/3; 1/1; 3/1 và 6/1. Sấy khô và nung gel ở 500oC trong 2 giờ. Các mẫu nung được kiểm tra sự hình thành pha bằng phương pháp XRD. Hình 3.12 giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu tạo gel thay đổi tỷ lệ mol KL/PVA.

Qua giản đồ nhiễu xạ tia X cho thấy tất cả các mẫu đều cho pha NiFe2O4 kết tinh tốt, mẫu với tỉ lệ KL/PVA = 1/1 và 3/1 ngoài các pic phản xạ đặc trưng cho pha tinh thể của NiFe2O4 còn có một số pic phản xạ đặc trưng cho sư kết tinh của pha Fe2O3; các mẫu điều chế với tỉ lệ mol KL/PVA = 1/3; 1/6 pic phản xạ cho thấy sự kết tinh đơn pha tinh thể và ngoài ra không phát hiện thấy một pha tinh thể nào khác.

Chúng tôi chon tỉ lệ mol KL/PVA = 1/3 cho phản ứng tạo gel để tổng hợp vật liệu NiFe2O4 và tỉ lệ thực nghiệm này được kết hợp với các điều kiện tối ưu đã tìm được ở trên sử dụng cho các thí nghiệm tiếp theo khi khảo sát nhiệt độ của quá trình tạo gel.





Hình 3.12. Giản đồ nhiễu xạ tia X các mẫu theo tỉ lệ mol tạo gel (Ni2++Fe3+)-PVA nung ở 500oC.

3.2.5. Khảo sát nhiệt độ tạo gel

Điều chế các gel với tỉ lệ mol KL/PVA = 1/3, pH = 4 và ở các nhiệt độ khác nhau (40, 60, 80, 100oC). Gel được sấy khô và sau đó nung ở 500oC trong 2 giờ. Các mẫu nung được kiểm tra sự hình thành pha tinh thể bằng phương pháp XRD. Hình 3.12 giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu nung khi thay đổi nhiệt độ tao gel (Ni2++Fe3+)-PVA.





Hình 3.13. Giản đồ nhiễu xạ tia X của các mẫu theo nhiệt độ tao gel (Ni2++Fe3+)-PVA nung ở 500oC.

Trên hình 3.13 kết quả cũng cho thấy tất cả các mẫu đều có các pic phản xạ đặc trưng cho sự kết tinh tốt của pha tinh thể NiFe2O4, tuy nhiên trên giản đồ cũng cho thấy các mẫu tạo gel ở nhiệt độ 80 và 100oC có sự xuất hiện thêm các pic lạ đặc trưng cho sự kết tinh của pha Fe2O3; các mẫu tạo gel ở 40 và 60oC chỉ cho các pic phản xạ đặc trưng cho đơn pha tinh thể NiFe2O4 ngoài ra không phát hiện một pha lạ nào khác.



3.2.6. Phân tích thành phần hoá học

Mẫu NiFe2O4 được rửa sạch bằng nước cất để loại bỏ hết các ion kim loại còn dư sau đó phân huỷ trong dd HNO3, thu được dung dịch chứa các ion Ni2+, Fe3+. Nồng độ của các ion kim loại được xác định bằng phương pháp phân tích hấp thụ nguyên tử (AAS). Hàm lượng các nguyên tố trong mẫu NiFe2O4 được chỉ ra trong bảng 3.1.



Bảng 3.1. Phần trăm về khối lượng của các nguyên tố trong mẫu NiFe2O4.

% Ni

% Fe

% O (tính từ Ni và Fe)

24,97

47,49

27,54

Hàm lượng (%) của các nguyên tố tương ứng với tỉ lệ mol Ni:Fe:O = 1:1,97:4 tương đối phù hợp với tỉ lệ hợp thức của NiFe2O4.

3.2.7. Một số đặc trưng của mẫu NiFe2O4 tối ưu





Phóng đại 150.000 lần

Phóng đại 120.000 lần

Hình 3.14. Ảnh SEM của mẫu NiFe2O4

Hình 3.14 là ảnh SEM của mẫu với dộ phóng đại 150.000 và 120.000 lần các hạt kết thành đám (cluster) có kích thước rất đồng đều với đường kính trung bình  20 nm. Kích thước hạt tinh thể tính theo phương pháp Scherrer là 11 nm. Diện tích bề mặt của mẫu tối ưu theo phương pháp BET là 39,41 m2/g.

Một vài kết luận về phần tổng hợp và đặc trưng vật liệu:

(i). Bằng phương pháp tổng hợp đốt cháy gel đã thu được hai loại vật liệu oxit NiO và NiFe2O4. Các vật liệu này đều được tổng hợp ở nhiệt độ thấp (500 – 600oC), có độ tinh thể tốt, thành phần hoá học như trong thành phần của các tỉ lượng.

(ii). Bằng các phương pháp đặc trưng tin cậy XRD, SEM, BET có thể nhận thấy rằng các vật liệu này đều kết tinh ở tinh thể có kích thước trong khoảng 20 - 30 nanomet và có diện tích bề mặt riêng lớn có thể sử dụng làm vật liệu xúc tác, hấp phụ.

3.3. Định hướng ứng dụng NiO, NiFe2O4 kích thước nano

3.3.1. Xúc tác oxi hoá VOCs

Hoạt tính của các vật liệu xúc tác được xác định và so sánh với nhau thông qua phản ứng oxi hoá hoàn toàn etanol. Phản ứng được thực hiện trong điều kiện: lượng xúc tác là 0,1 g; lưu lượng dòng khí tổng là 2 lít/giờ ứng với VHSV là 2857 h-1; nhiệt độ phản ứng từ 100 – 300oC. Chúng tôi tiến hành khảo sát độ chuyển hoá etanol của vật liệu theo thời gian ở các nhiệt độ khác nhau. Các kết quả được chỉ ở các bảng 3.2, 3.3 và các hình 3.15, 3.16.



Bảng 3.2. Độ chuyển hoá etanol của vật liệu NiO theo thời gian và nhiệt độ.

Thời gian (phút)

150oC

(%)


200oC

(%)


250oC

(%)


300oC

(%)


350oC

(%)


50

20,0

22,3

55,2

75,9

93,0

100

20,7

24,0

84,5

91,4

100

150

18,1

22,8

87,9

93,1

100

200

17,1

20,7

86,2

94,8

100

250

15,5

19,1

79,3

91,4

100




Hình 3.15. Độ chuyển hoá etanol trên NiO theo thời gian và nhiệt độ.

Bảng 3.3. Độ chuyển hoá etanol của vật liệu NiFe2O4 theo thời gian và nhiệt độ.

Thời gian (phút)

150oC

(%)


200oC

(%)


250oC

(%)


300oC

(%)


350oC

(%)


50

24.6

26.7

66

72

79.7

100

26

27.6

86

88.8

95.7

150

22.8

22.4

92.2

96

100

200

18.5

21.1

91.4

97.4

100

250

15.5

20

85.8

97.4

100



Hình 3.16. Độ chuyển hoá etanol trên NiFe2O4 theo thời gian và nhiệt độ.

Trên các hình 3.15 và 3.16 biểu diễn độ chuyển hoá etanol trên hai mẫu vật liệu theo thời gian ở các nhiệt độ khác nhau, trên các đồ thị này chia và phân vùng thành hai nhóm đường chính:

- Nhóm thứ nhất biểu diễn độ chuyển hoá của các mẫu ở vùng nhiệt độ 150 – 200oC độ chuyển hóa đạt cực đại (20 – 30 %) và trong đó chia tiếp thành hai vùng thời gian là 50 – 100 phút thì phản ứng đạt độ chuyển hóa cực đại và sau đó (vùng 2) giảm dần theo thời gian (> 100 phút), điều này có thể do trong thời gian đầu chủ yếu xảy ra hiện tượng khuếch tán chất phản ứng đến bề dày lớp xúc tác và vào bên trong các mao quản của chất xúc tác, sau đó chất phản ứng bị hấp phụ và chuyển hoá một phần (vùng nhiệt độ chuyển hoá thấp) đây là giai đoạn chuyển hoá mạnh nhất của chất phản ứng, giai đoạn tiếp theo trong khoảng thời gian 100 – 250 phút, độ chuyển hoá giảm dần theo thời gian vì tốc độ phản ứng ở vùng nhiệt độ này xảy ra rất chậm, nếu tiếp tục kéo dài thời gian phản ứng độ chuyển hoá sẽ tiến dần tới giới hạn.

- Nhóm thứ hai là độ chuyển hoá của các nẫu ở vùng nhiệt độ cao hơn, ở vùng nhiệt độ 250 – 350oC, nhóm này độ chuyển hoá liên tục tăng lên, đây là vùng hoạt động mạnh của vât liệu xúc tác, độ chuyển hoá đều > 85% và gần như sự oxi hóa xảy ra hoàn toàn ở 350oC sau 150 phút phản ứng.

Để biểu diễn và so sánh độ chuyển hóa của hai vật liệu xúc tác theo nhiệt độ, từ các kết quả phân tích trên đây có thể biểu diễn độ chuyển hoá etanol 150 phút của hai loại vật liệu này (bảng 3.4 và hình 3.17).



tải về 422.11 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương