TẬp hợp kết quả giải quyếT, trả LỜI Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri gửi tới kỳ HỌp thứ 11, quốc hội khoá XI bộ NÔng nghiệp và phát triển nông thôN



tải về 1.47 Mb.
trang8/21
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích1.47 Mb.
#20046
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   21

4/ Cử tri tỉnh Gia Lai kiến nghị: Đề nghị hỗ trợ toàn bộ vốn ban đầu để thành lập Quỹ bão lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Gia Lai là 30 tỷ đồng nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư ở Gia Lai được vay vốn, nhất là các dự án sử dụng nhiều lao động là đồng bào dân tộc thiểu số và dự án triển khai tại khu vực có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.

Hỗ trợ kinh phí cho tỉnh Gia Lai thực hiện các chương trình theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Trả lời (Công văn số 8052/BTC-VP ngày 28/6/2007 của Bộ Tài chính):

Theo quy định tại Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 18/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ, để thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ các địa phương phải có đủ 30 tỷ đồng vốn điều lệ. Vốn điều lệ của Quỹ bảo lãnh tín dụng được hình thành từ các nguồn do:

+ Ngân sách nhà nước cấp

+ Vốn góp của các tổ chức tín dụng

+ Vốn góp của các doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp và các cá nhân trên địa bàn.

Chủ trương của Chính phủ là huy động tổng hợp các nguồn vốn của địa phương bao gồm vốn của ngân sách tỉnh, thành phố, vốn góp của các doanh nghiệp và các tổ chức hiệp hội các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các địa phương để phục vụ cho đầu tư phát triển doanh nghiệp trên chính địa bàn, thông qua đó phát triển các loại hình dịch vụ tài chính tại các địa phương đồng thời nhằm phát huy nguồn lực của chính các địa phương cho đầu tư phát triển.

Bộ Tài chính xin trao đổi để cử tri được rõ đồng thời, đề nghị cử tri trao đổi hoặc có kiến nghị với Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Gia Lai ưu tiên dành một phần nguồn vốn từ ngân sách địa phương cũng như vận động các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tham gia góp vốn để có đủ số vốn 30 tỷ đồng để đủ điều kiện thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp phần thiết thực cho sự phát triển của các doanh nghiệp của tỉnh.

5/ Cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị: Đề nghị không tính thuế chuyển mục đích sử dụng đất trong hạn mức quy định khi chuyển từ đất thổ quả lên đất thổ cư, chỉ tính thuế khi vượt hạn mức quy định vì điều này phù hợp với xu thế chuyển từ tỉnh lên thành phố của một số đô thị đang trên đà phát triển.

Trả lời (Công văn số 8053/BTC-VP ngày 28/6/2007 của Bộ Tài chính):

Theo quy định hiện hành của pháp luật thì Nhà nước không có sắc thuế chuyển mục đích sử dụng đất. Thực chất “Thuế chuyển mục đích sử dụng đất” mà các cử tri nói tại kiến nghị là tiền sử dụng đất phải nộp cho Nhà nước khi chuyển mục đích sử dụng đất.

Theo quy định tại Điều 36, Luật Đất đai năm 2003, khi chuyển mục đích sử dụng đất để làm nhà ở phải nộp tiền sử dụng đất; việc nộp tiền sử dụng đất do chuyển mục đích sử dụng đất được quy định cụ thể tại Điều 6, Nghị định 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất như sau:

“Điều 6. Thu tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất:

2. Đối với hộ gia đình, cá nhân:

a/ Chuyển từ đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở thuộc khu dân cư không được công nhận là đất ở thì thu tiền sử dụng đất bằng 50% chênh lệch giữa thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở với thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất nông nghiệp;

b/ Chuyển từ đất nông nghiệp được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất sang đất ở thì thu tiền sử dụng đất bằng mức chênh lệch giữa thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở với thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất nông nghiệp.

...”


Việc nộp tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất sang làm nhà ở được miễn, giảm tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 12, Điều 13 Nghị định số 198/2004/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư hướng dẫn số 117/2004/TT-BTC ngày 7/12/2004 của Bộ Tài chính, cụ thể:

- Tại Điều 12 Nghị định 198/2004/NĐ-CP quy định về miễn tiền sử dụng đất, gồm:

+ Đất xây dựng nhà ở của đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn;

+ Đất ở trong hạn mức giao đất ở (bao gồm giao đất, được chuyển mục đích sử dụng đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) đối với người có công với cách mạng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;

- Tại Điều 13, Nghị định số 198/2004/NĐ-CP quy định về giảm tiền sử dụng đất, gồm:

+ Giảm 50% tiền sử dụng đất đối với đất trong hạn mức đất ở được giao của hộ gia đình nghèo;

+ Đất ở trong hạn mức giao đất (bao gồm giao đất, chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng) đối với người có công với cách mạng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;

Đồng thời, khi nộp tiền sử dụng đất do chuyển mục đích sử dụng đất sang làm nhà ở đối với hộ gia đình, cá nhân nếu chưa đủ khả năng nộp tiền sử dụng đất thì được ghi nợ tiền sử dụng đất khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 4, Điều 5, Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của Chính phủ; nay được quy định tại Điều 5, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ, cụ thể: “Hộ gia đình, cá nhân chưa đủ khả năng nộp tiền sử dụng đất cho Nhà nước theo quy định tại khoản 4, Điều 5 Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần (gọi là Nghị định 17/2006/NĐ-CP) và hộ gia đình, cá nhân được nhà nước giao đất tái định cư mà có nguyện vọng ghi nợ thì được ghi “nợ tiền sử dụng đất” trên Giấy chứng nhận hoặc hồ sơ xin chuyển mục đích sử dụng đất hoặc hồ sơ giao đất tái định cư. Khi thanh toán nợ, người sử dụng đất phải trả theo giá tại thời điểm trả nợ và được xoá “nợ tiền sử dụng đất” đã ghi trên Giấy chứng nhận”.



6/ Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị:

+ Kiến nghị 1: Cử tri đề nghị sớm sửa đổi Thông tư số 104/2000/TT-BTC ngày 23/10/2000 về hướng dẫn thực hiện Nghị định 19/2000/NĐ-CP đối với các trường hợp chuyển quyền sử dụng đất từ năm 2000 trở về trước cho phù hợp với quy định tại Điều 50 Luật đất đai năm 2003.

+ Kiến nghị 2: Cử tri cho rằng số tiền hỗ trợ chuyển nghề cho người dân khi thu hồi đất sản xuất chỉ có 2.000.000 đồng/người là quá ít ỏi, không đủ để đầu tư khi mà tư liệu sản xuất chính đã bị mất đi. Đề nghị nhà nước cần nâng cao hơn mức hỗ trợ chuyển nghề để ít nhất cũng tạo ra cơ sở vật chất ban đầu cho người bị mất đất khi chuyển nghề.

Trả lời (Công văn số 8054/BTC-VP ngày 28/6/2007 của Bộ Tài chính):

+ Trả lời kiến nghị 1:

Tại Điểm 2 (d và e) Mục VII Thông tư số 104/2000/TT-BTC ngày 23/10/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 19/2000/NĐ-CP ngày 8/6/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất (CQSDĐ) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế CQSDĐ quy định:

“d/ Các trường hợp đã CQSDĐ trước ngày 1/1/2000 mà có một trong các giấy tờ hợp lệ về sử dụng đất quy định tại Khoản 2, Điều 3, Nghị định số 17/1999/NĐ-CP của Chính phủ bao gồm cả trường hợp đã chuyển quyền sử dụng đất qua nhiều lần, nhiều chủ khi người sử dụng đất đến làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất thì chỉ phải nộp thuế một lần theo quy định của pháp luật.

e/ Các trường hợp đã CQSDĐ cho nhau trước ngày 1/1/2000 mà người CQSDĐ không có một trong các giấy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật thì không thuộc diện nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất; người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.”

Tại Điều 50 Luật Đất đai năm 2003, quy định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất trong đó quy định các loại giấy tờ được coi là hợp lệ về quyền sử dụng đất và các trường hợp phải nộp hoặc không phải nộp tiền sử dụng đất khi xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tại khoản 2, Điều này quy định:

“2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không phải nộp tiền sử dụng đất.”

Như vậy, tại Điều 50, Luật Đất đai năm 2003 không đề cập đến việc phải nộp hay không phải nộp thuế CQSDĐ khi hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tiền sử dụng đất và thuế CQSDĐ là hai khoản thu khác nhau của ngân sách nhà nước, có đối tượng và phương pháp điều chỉnh riêng; các trường hợp không phải nộp tiền sử dụng đất quy định tại Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 không được hiểu là đồng thời không phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất. Thông tư số 104/2000/TT-BTC nêu trên là hướng dẫn thực hiện theo Nghị định số 19/2000/NĐ-CP ngày 8/6/2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế CQSDĐ. Hiện nay, Luật này vẫn đang có hiệu lực thi hành.

+ Trả lời kiến nghị 2:

Theo quy định khoản 4, Điều 4 Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đất đai thì đối với các hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp tương ứng thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo quy định sau:

- Được giao đất có thu tiền sử dụng đất tại vị trí có thể làm mặt bằng sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp; mức đất được giao do UBND cấp tỉnh căn cứ vào khả năng quỹ đất và mức đất bị thu hồi của từng hộ gia đình, cá nhân để quy định; giá đất được giao bằng giá đất nông nghiệp tương ứng cộng với chi phí đầu tư hạ tầng trên đất nhưng không cao hơn giá đất tại thời điểm thu hồi đất đã được UBND cấp tỉnh quy định và công bố;

- Trường hợp đặc biệt không có đất để bố trí như quy định tại khoản 1, Điều này thì những thành viên trong hộ gia đình còn trong độ tuổi lao động được hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp; mức hỗ trợ cụ thể do UBND cấp tỉnh quy định phù hợp với thực tế ở địa phương; việc hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp được thực hiện chủ yếu bằng hình thức học nghề tại các cơ sở dạy nghề.

Như vậy, tại chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư hiện hành không quy định cụ thể mức hỗ trợ chuyển nghề của người dân khi thu hồi đất sản xuất mà quy định Chủ tịch UBND cấp tỉnh căn cứ vào mặt bằng chung đào tạo nghề nghiệp tại địa phương để quy định mức hỗ trợ chuyển nghề. Vì vậy, việc thành phố Hải Phòng quy định mức hỗ trợ chuyển nghề 2 triệu đồng/người nếu thực sự chưa phù hợp thì Đoàn ĐBQH thành phố Hải Phòng có thể kiến nghị Chủ tịch UBND thành phố xem xét để quyết định lại cho phù hợp tình hình thực tế tại địa phương.

7/ Cử tri các tỉnh Phú Yên, Lâm Đồng kiến nghị: Hiện nay, có nhiều trường hợp khi tách hộ cha mẹ cho đất vườn, đất nông nghiệp mà gia đình đã sử dụng lâu năm cho con để xây dựng nhà ở. Cử tri kiến nghị Chính phủ xem xét, miễn giảm thuế chuyển mục đích sử dụng đất đối với các trường hợp này nhằm giảm bớt gánh nặng giải quyết chỗ ở cho nhân dân của chính quyền địa phương.

Trả lời (Công văn số 8055/BTC-VP và 8056/BTC-VP ngày 28/6/2007 của Bộ Tài chính):

Theo quy định hiện hành của pháp luật thì Nhà nước không có sắc thuế chuyển mục đích sử dụng đất. Thực chất “Thuế chuyển mục đích sử dụng đất” mà các cử tri nói tại kiến nghị là tiền sử dụng đất phải nộp cho Nhà nước khi chuyển mục đích sử dụng đất.

Theo quy định tại Điều 36, Luật Đất đai năm 2003, khi chuyển mục đích sử dụng đất để làm nhà ở phải nộp tiền sử dụng đất; việc nộp tiền sử dụng đất do chuyển mục đích sử dụng đất được quy định cụ thể tại Điều 6, Nghị định 198/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất như sau:

“ Điều 6. Thu tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất:

2. Đối với hộ gia đình, cá nhân:

a/ Chuyển từ đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở thuộc khu dân cư không được công nhận là đất ở thì thu tiền sử dụng đất bằng 50% chênh lệch giữa thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở với thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất nông nghiệp;

b/ Chuyển từ đất nông nghiệp được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất sang đất ở thì thu tiền sử dụng đất bằng mức chênh lệch giữa thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở với thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất nông nghiệp.

...”


Việc nộp tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất sang làm nhà ở được miễn, giảm tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 12, Điều 13 Nghị định số 198/2004/NĐ-CP của Chính phủ, Thông tư hướng dẫn số 117/2004/TT-BTC ngày 7/12/2004 của Bộ Tài chính, cụ thể:

- Tại Điều 12 Nghị định 198/2004/NĐ-CP quy định về miễn tiền sử dụng đất, gồm:

+ Đất xây dựng nhà ở của đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn;

+ Đất ở trong hạn mức giao đất ở (bao gồm giao đất, được chuyển mục đích sử dụng đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) đối với người có công với cách mạng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;

- Tại Điều 13, Nghị định số 198/2004/NĐ-CP quy định về giảm tiền sử dụng đất, gồm:

+ Giảm 50% tiền sử dụng đất đối với đất trong hạn mức đất ở được giao của hộ gia đình nghèo;

+ Đất ở trong hạn mức giao đất (bao gồm giao đất, chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người đang sử dụng) đối với người có công với cách mạng theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;

Đồng thời, khi nộp tiền sử dụng đất do chuyển mục đích sử dụng đất sang làm nhà ở đối với hộ gia đình, cá nhân nếu chưa đủ khả năng nộp tiền sử dụng đất thì được ghi nợ tiền sử dụng đất khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 4, Điều 5, Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của Chính phủ; nay được quy định tại Điều 5, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ, cụ thể: “Hộ gia đình, cá nhân chưa đủ khả năng nộp tiền sử dụng đất cho Nhà nước theo quy định tại khoản 4, Điều 5 Nghị định 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần (gọi là Nghị định 17/2006/NĐ-CP) và hộ gia đình, cá nhân được nhà nước giao đất tái định cư mà có nguyện vọng ghi nợ thì được ghi “nợ tiền sử dụng đất” trên Giấy chứng nhận hoặc hồ sơ xin chuyển mục đích sử dụng đất hoặc hồ sơ giao đất tái định cư. Khi thanh toán nợ, người sử dụng đất phải trả theo giá tại thời điểm trả nợ và được xoá “nợ tiền sử dụng đất” đã ghi trên Giấy chứng nhận”.



8/ Cử tri thành phố Hải Phòng và các tỉnh Cà Mau, Bến Tre kiến nghị: Mức đóng các khoản lệ phí cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thế chấp vay vốn ngân hàng… hiện nay còn quá cao

Trả lời (Công văn số 8507/BTC-VP, 8054/BTC-VP và 8058/BTC-VP ngày 28/6/2007 của Bộ Tài chính):

Lệ phí đăng ký thế chấp bằng quyền sử dụng đất: Ngày 10/1/2007 Liên Bộ Tài chính – Tư pháp đã ban hành Thông tư số 03/2007/TTLT/BTC-BTP thay thế Thông tư số 33/2002/TTLT/BTC-BTP hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí đăng ký và phí cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, trong đó đã quy định không thu lệ phí đăng ký thế chấp bằng quyền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân có hộ khẩu thường trú tại địa phường và sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối; còn các trường hợp khác đã giao cho HĐND cấp tỉnh quyết định cụ thể cho phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương, nhưng không quá 60.000 đồng/trường hợp.



9/ Cử tri tỉnh Hà Tĩnh kiến nghị: Theo Điều 23, Nghị định 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh quy định căn cứ vào số lượng ngành nghề đăng ký kinh doanh để quản lý và tính toán mức thu phí. Tuy vậy, đến nay Bộ Tài chính vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cách thu và mức thu như thế nào.

Trả lời (Công văn số 8059 /BTC-VP ngày 28/6/2007 của Bộ Tài chính):

Theo Danh mục lệ phí ban hành kèm theo Nghị định 24/2006/NĐ-CP ngày 06/3/2006 về phí, lệ phí thì lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cung cấp thông tin về đăng ký kinh doanh được Chính phủ phân cấp cho HĐND cấp tỉnh quy định. Theo Thông tư số 97/2006/TT-BTC ngày 16/10/2006 hướng dẫn về phí và lệ phí thuộc thẩm quyền của HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì HĐND cấp tỉnh sẽ quy định mức thu lệ phí đối với từng loại đối tượng cho phù hợp (nhưng không vượt quá mức thu tối đa mà Bộ Tài chính đã quy định tại Thông tư số 97/2006/TT-BTC). Ngày 29/8/2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 88/2006/NĐ-CP có quy định: “Lệ phí đăng ký kinh doanh được xác định theo số lượng ngành, nghề đăng ký kinh doanh” và giao Bộ tài chính quy định (không phân cấp cho HĐND cấp tỉnh). Về vấn đề này, Bộ Tài chính sẽ phối hợp với Bộ Kế hoạch và đầu tư báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép hướng dẫn theo hướng phân cấp tối đa cho địa phương quy định về lệ phí đăng ký kinh doanh cho phù hợp với chủ trương về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30/6/2004 vì đây là khoản thu gắn với chức năng quản lý hành chính nhà nước của chính quyền địa phương cần phân cấp cho địa phương quy định cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện cụ thể của từng địa phương.



10/ Cử tri tỉnh Đồng Tháp kiến nghị: Đề nghị Chính phủ sớm có hướng dẫn trong việc giải ngân nguồn vốn cho vay theo Chương trình giảm nghèo (2006-2010) vì cho tới tháng 3/2007 nguồn vốn này chưa được giải ngân.

Trả lời (Công văn số 8510/BTC-VP ngày 28/6/2007 của Bộ Tài chính):

Theo quy định hiện hành, hàng năm, Thủ tướng Chính phủ chỉ giao chỉ tiêu khối lượng tăng trưởng tín dụng của chương trình cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách, đồng thời cân đối các nguồn vốn cũng như các nguồn tài chính khác để đảm bảo cho ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) có thể thực hiện nhiệm vụ tăng tín dụng theo chỉ tiêu đặt ra. Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, năm 2007, NHCSXH sẽ thực hiện mức tăng dự nợ cho vay hộ nghèo là 16%. Việc phân bổ vốn cho các địa phương do Hội đồng quản trị NHCSXH xem xét, quyết định dựa trên cơ sở nhu cầu vốn của các địa phương và cân đối các nguồn lực cũng như khả năng hiện có.

Trong những năm gần đây, chủ trương của NHCSXH là tập trung ưu tiên vốn cho những địa phương có tỷ lệ hộ nghèo còn cao, số lượng các hộ nghèo và đối tượng chính sách chưa được vay vốn còn nhiều hoặc những địa phương điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nhằm giúp cho các địa phương và các đối tượng chính sách có vốn đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh. Theo báo cáo của NHCSXH, đến hết tháng 2/2007, NHCSXH đã hoàn tất việc giao, phân bổ kế hoạch tín dụng cho các chi nhánh địa phương. Đồng thời, sau khi được Ngân hàng nhà nước cấp bổ sung kinh phí 1.200 tỷ đồng vốn đều lệ vào tháng 3/2007, NHCSXH đã triển khai ngay việc chuyển giao vốn về các địa phương để triển khai cho hộ nghèo vay và các đối tượng chính sách theo kế hoạch đề ra. Đề nghị tỉnh liên hệ trực tiếp với Ngân hàng chính sách xã hội để được giải quyết cụ thể.

BỘ QUỐC PHÒNG
1/ Cử tri tỉnh Vĩnh Phúc kiến nghị: Đề nghị tiếp tục có chế độ phụ cấp cho quân nhân mất sức 61% trở lên (từ năm 1987 đến nay không được hưởng chế độ gì).

Trả lời (tại Công văn số 3646/BQP ngày 12/7/2007 của Bộ Quốc phòng):

ý kiến kiến nghị của cử tri chưa nêu rõ các yếu tố để có cơ sở xác định đối tượng thuộc diện hưởng chính sách gì. Tuy nhiên, căn cứ vào chế độ chính sách hiện hành tại thời điểm năm 1987 theo quy định tại Nghị định số 236/HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) thì đối tượng, điều kiện để quân nhân được hưởng chế độ bệnh binh như sau:

Những quân nhân đã có đủ 5 năm công tác trở lên (không tính quy đổi theo hệ số) hoặc chưa đủ 5 năm công tác những đã hoạt động ở những vùng khó khăn, gian khổ hoặc trải qua chiến đấu ác liệt, vì ốm đau sau khi điều trị, điều dưỡng mà sức khoẻ vẫn không hồi phục phải chuyển về gia đình, đã được Hội đồng giám định y khoa xác định mất sức lao động từ 41% trở lên những chưa đủ điều kiện nghỉ hưu thì được hưởng trợ cấp bệnh binh theo 3 hạng, Hạng 1: mất sức lao động từ 81% đến 100%, hạng 2: Mất sức lao động từ 61% đến 80%, Hạng 3: Mất sức lao động từ 41% đến 60%.

Như vậy, theo quy định nếu quân nhân được Hội đồng giám định y khoa xác định mất sức lao động từ 41% trở lên và có đủ điều kiện nêu trên thì thuộc đối tượng được hưởng chế độ Bệnh binh. Trường hợp cử tri phản ánh quân nhân mất sức lao động 61% trở lên, từ năm 1987 đến nay không được hưởng chính sách, do không nêu điều kiện cụ thể nên Bộ Quốc phòng không có cơ sở trả lời. Đề nghị cử tri đối chiếu quy định trên để xem đối tượng có thuộc diện được hưởng chế độ Bệnh binh hay không.



2/ Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị: Việc khoán công tác phí cho cán bộ chiến sỹ đồn biên phòng như hiện nay là không hợp lý, hàng năm chỉ được khoán 200.000 đồng/người/năm nên cán bộ chiến sỹ đi công tác cơ sở gặp rất nhiều khó khăn. Đề nghị nhà nước nghiên cứu có những điều chỉnh hợp lý hơn.

Trả lời (tại Công văn số 3645/BQP ngày 12/7/2007 của Bộ Quốc phòng):

Hiện nay, Bộ Quốc phòng không có chủ trương thực hiện khoán công tác phí đến từng người cho các đối tượng nói chung và cho cán bộ, chiến sĩ nói riêng như cử tri phản ánh.

Theo quy định của Luật ngân sách nhà nước, căn cứ vào dự toán được Bộ phê duyệt, hàng năm Bộ tư lệnh Biên phòng có trách nhiệm phân bổ dự toán (có nội dung bảo đảm chi công tác phí) cho các đơn vị trực thuộc và đôn đốc việc tổ chức thực hiện theo dự toán được duyệt. Các đơn vị căn cứ vào yêu cầu công việc và dự toán ngân sách được giao bố trí việc cử cán bộ đi công tác bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm. Việc thanh toán công tác phí cho cán bộ, chiến sỹ được thực hiện theo Thông tư số 19/2005/TT/BQP ngày 3/2/2005 về quy định chế độ công tác phí, chế độ chi hội nghị đối với cơ quan, đơn vị trong quân đội. Tuy nhiên, do ngân sách quốc phòng còn hạn hẹp (thực chất mới được Nhà nước bảo đảm khoảng 80% nhu cầu cấp thiết) nên việc bảo đảm cho một số nhu cầu chi tiêu còn khó khăn (trừ lương, phụ cấp, tiền ăn...).

Bộ Quốc phòng sẽ đề nghị Quốc hội xem xét tăng ngân sách quốc phòng hàng năm hợp lý hơn để đảm bảo cho việc hoàn thành nhiệm vụ quân sự, quốc phòng hiện nay. Mặt khác, Bộ Quốc phòng cũng tiếp tục nâng cao hiệu quả phân bổ, giao, quản lý sử dụng ngân sách quốc phòng hiệu quả hơn trong toàn quân cũng như quan tâm từng bước giải quyết khó khăn cụ thể của các đơn vị.



3/ Cử tri các tỉnh Hà Tây, Bình Định, Trà Vinh, an Giang, Phú Yên, Gia Lai, Vĩnh Phúc, Khánh Hoà, Bắc Ninh, Hải Dương kiến nghị: Các chính sách đối với cựu chiến binh theo Quyết định 290/2005/QĐ-TTg và Thông tư liên tịch số 191/2005/TTLT-BQP-BLĐTBXH-BTC chưa rõ ràng, chưa công bằng, cụ thể: (i) Những người đã được hưởng chế độ xuất ngũ (khoảng 13 kg gạo + tiền) thì bây giờ không được hưởng chế độ (600.000 đồng/năm tại ngũ), (ii) những người tham gia kháng chiến chống Mỹ về gia đình sau 31/12/1976 mà chưa được hưởng chế độ nay cũng không được hưởng bảo hiểm y tế, mai táng phí khi từ trần, (iii) Bộ đội, du kích chống Pháp không được hưởng bảo hiểm y tế trong khi đó những người chống Mỹ đủ điều kiện lại được hưởng. Bổ sung các đối tượng: du kích phân tán ở miền Nam, hạ sỹ quan, chiến sỹ (không phân biệt từ trung đội phó trở lên hoặc chuẩn úy được quy định tại điểm a, tiết 1.1, khoản 1, mục II, phần I của Thông tư liên tịch 191), cán bộ dân chính đảng cấp xã cũng được hưởng chế độ, chính sách theo Quyết định 290, nhằm bảo đảm công bằng cho các đối tượng tham gia kháng chiến.

Trả lời (tại các Công văn 3652/BQP, 3655/BQP, 3646/BQP, 3653/BQP, 3651/BQP, 3650/BQP, 3654/BQP, 3649/BQP, 3648/BQP3647/BQP của Bộ Quốc phòng):

a/ Quyết định số 290/2005/QĐ-TTG ngày 08/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ chính sách đối với một số đối tượng trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhưng chưa được hưởng chính sách của Đảng và Nhà nước, quy định một trong các nhóm đối tượng được hưởng trợ cấp một lần (theo số năm thực tế công tác, chiến đấu tại chiến trường 600.000 đồng/01 năm), đó là “Quân nhân, công an nhân dân, cán bộ, công nhân viên chức nhà nước, công nhân viên chức quốc phòng, công an trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở chiến trường B, C, K trong khoảng thời gian từ ngày 20/7/1954 đến 30/4/1975, về gia đình từ ngày 31/12/1976 trở về trước, chưa được hưởng một trong các chế độ phục viên, xuất ngũ, thôi việc, bệnh binh, mất sức lao động hàng tháng và chế độ hưu trí hàng tháng”.

Đối với các trường hợp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã phục viên, xuất ngũ (đã được hưởng chế độ trợ cấp, tuy còn thấp) thì không thuộc đối tượng thực hiện chế độ trợ cấp một lần theo quy định tại Quyết định số 290/2005/QĐ-TTg ngày 08/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ. Chúng tôi xin ghi nhận ý kiến phản ánh của cử tri để tiếp tục nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ.

b/ Theo quy định tại Điểm d, khoản 1, Điều 1 Quyết định số 290/2005/QĐ-TTG thì quân nhân, công an nhân dân, công nhân viên chức, thanh niên xung phong tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ 30/4/1975 trở về trước, đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc... nếu chưa được hưởng chế độ bảo hiểm y tế thì được hưởng chế độ bảo hiểm y tế và khi từ trần được hưởng chế độ mai táng phí theo quy định của pháp luật hiện hành về chính sách bảo hiểm xã hội.

Tại Điều 3, Điều lệ bảo hiểm y tế ban hành kèm theo Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005 của Chính phủ quy định cựu chiến binh thời kỳ chống Pháp, chống Mỹ nếu không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc thì được thực hiện chế độ bảo hiểm y tế.

Như vậy, những người trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc nay không thuộc đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm y tế thì được hưởng chế độ bảo hiểm y tế và chế độ mai táng phí khi từ trần; bộ đội tham gia kháng chiến chống Pháp được hưởng chế độ bảo hiểm y tế.

c/ Về ý kiến bổ sung đối tượng: Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội, cán bộ xã, phường; du kích phân tán ở miền Nam tham gia kháng chiến chống Mỹ được thực hiện chế độ, chính sách theo quy định tại Quyết định số 290/2005/QĐ-TTG ngày 8/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Quốc phòng đã tiếp thu ý kiến, kiến nghị của các địa phương và đối tượng, đang xin ý kiến các bộ, ngành liên quan để đề xuất với Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến chỉ đạo.


Каталог: UserControls -> ckfinder -> userfiles -> files
files -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ SÁU quốc hội khoá XII
files -> Phụ lục số 1 danh mục các văn bản hưỚng dẫn thi hành pháp luật về giao thôNG
files -> PHỤ LỤC 1 KẾt quả XỬ LÝ ĐƠN, thư CỦa uỷ ban tư pháp từ sau kỳ HỌp thứ SÁU ĐẾn truớc kỳ HỌp thứ BẢy quốc hội khóa XII
files -> Phần I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
files -> II. Các kiến nghị về chính sách đối với giáo viên
files -> BÁo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào tạo trong giáo dục đại học

tải về 1.47 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương