TẬp hợp kết quả giải quyếT, trả LỜI Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri gửi tới kỳ HỌp thứ 11, quốc hội khoá XI bộ NÔng nghiệp và phát triển nông thôN


/ Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị



tải về 1.47 Mb.
trang10/21
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích1.47 Mb.
#20046
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   21

6/ Cử tri tỉnh Tiền Giang kiến nghị: Đề nghị nâng mức quy định đóng bảo hiểm y tế theo tinh thần là bệnh nhân mua bảo hiểm y tế được điều trị bệnh không giới hạn danh mục thuốc và không phải nộp thêm tiền theo phương thức cùng chi trả.

Trả lời (Công văn số 2332/BHXH-TN ngày 29/6/2007 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam):

Bảo hiểm xã hội Việt Nam cũng như các Bộ quản lý Nhà nước xin tiếp thu ý kiến đóng góp này để nghiên cứu và xem xét trong thời gian tới. Trong hoàn cảnh, điều kiện kinh tế – xã hội của nước ta hiện tại, một bộ phận nhỏ dân cư có thể đóng được bảo hiểm y tế với mức phí cao, nhưng đa số người dân có mức thu nhập trung bình thấp, họ có thể đóng mức phí cao để hưởng các dịch vụ y tế và danh mục thuốc không có giới hạn. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới để giải quyết mong muốn của các nhóm dân cư có thu nhập khác nhau, người ta tổ chức thêm một loại hình bảo hiểm xã hội theo chế độ cơ bản, mua thêm bảo hiểm y tế bổ sung để được khám chữa bệnh theo yêu cầu riêng, vấn đề này đang được nghiên cứu ở Việt Nam.

Việc thực hiện phương thức cùng chi trả chi phí khám chữa bệnh không đơn thuần giải quyết vấn đề giảm chi của Quỹ bảo hiểm y tế, mà là một giải pháp hữu hiệu giúp kiểm soát chi phí khám chữa bệnh, phòng ngừa việc lạm dụng quỹ từ phía người bệnh và phía cơ sở cung cấp dịch vụ y tế, đây là giải pháp được thực hiện phố biến ở hầu hết các nước trên thế giới.

7/ Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị: Có quy định về mức tiền mua bảo hiểm y tế năm 2007 vì đến nay chưa thể mua thẻ khám chữa bệnh được.

Trả lời (Công văn số 2333/BHXH-TN ngày 29/6/2007 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam):

Ngày 30/3/2007 liên Bộ Y tế – Tài chính đã ban hành Thông tư liên tịch số 06/2007/TTLT-BYT-BTC hướng dẫn thực hiện Bảo hiểm y tế tự nguyện thay thế thông tư liên tịch số 22/2005/TTLT-BHYT-BTC ngày 24/8/2005 tại điểm b, khoản 1, mục II Thông tư số 06/2007/TTLT-BTC quy định: “Căn cứ khung mức đóng bảo hiểm y tế tự nguyện quy định tại điểm a, khoản 1 mục này giao bảo hiểm xã hội Việt Nam quy định mức đóng cụ thể cho các khu vực và các nhóm đối tượng đối với mỗi tỉnh, thành phố trên cơ sở đề nghị của bảo hiểm xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”. Ngày 20/4/2007, bảo hiểm xã hội Việt Nam có quyết định số 612/QĐ-BHXH quy định mức đóng bảo hiểm y tế tự nguyện đối với từng nhóm đối tượng của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó có mức đóng bảo hiểm y tế tự nguyện được áp dụng trên địa bàn của tỉnh Trà Vinh. Mức đóng này có hiệu lực thực hiện từ ngày 1/5/2007.



8/ Cử tri các tỉnh Bình Thuận, Tây Ninh kiến nghị: Bảo hiểm y tế tự nguyện nhưng lại quy định cụ thể chỉ tiêu ở từng xã, phường, thị trấn mới bán. Cử tri cho rằng quy định như vậy không hợp lý, đề nghị Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần sửa đổi hợp lý hơn.

Trả lời (Công văn số 2331/BHXH-TN ngày 29/6/2007 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam):

Bảo hiểm y tế tự nguyện được thực hiện theo Thông tư liên tịch số 06/2007/TTLT-BYT-BTC ngày 30/3/2007 của liên Bộ Y tế – Tài chính theo đó điều kiện triển khai Bảo hiểm y tế tự nguyện được quy định như sau:

“Mỗi đợt phát hành phải có ít nhất 10% số hộ gia đình trong phạm vi địa bàn xã tham gia (trừ các hộ thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc). Đối với những hộ gia đình đã tham gia Bảo hiểm y tế tự nguyện nếu tiếp tục tham gia thì không phụ thuộc vào tỷ lệ quy định tại khoản này”.

Bảo hiểm xã hội Việt Nam là đơn vị tổ chức thực hiện chính sách theo hướng dẫn của các Bộ quản lý Nhà nước, việc quy định các điều kiện tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện như trên là cần thiết, nhằm đảm bảo sự chia sẻ rủi ro trong cộng đồng xã hội, tránh tình trạng trong mỗi gia đình chỉ chọn người già yếu, ốm đau tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện, khi đó quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện sẽ không có khả năng đảm bảo quyền lợi cho những người tham gia bảo hiểm y tế theo quy định. Bất kỳ chế độ bảo hiểm nào, kể cả Bảo hiểm y tế bắt buộc khi triển khai cũng phải có các điều kiện nhất định, đối với Bảo hiểm y tế tự nguyện người dân có quyền lựa chọn tham gia hay không, nếu tham gia thì cũng phải tuân thủ các điều kiện như hướng dẫn của liên Bộ Y tế – Tài chính nêu trên.



9/ Cử tri tỉnh Cao Bằng kiến nghị: Đề nghị có chính sách xét cấp thẻ bảo hiểm y tế cho cả những đối tượng không phải là dân tộc thiểu số nhưng họ đã sinh sống ở các xã vùng 3 từ lâu không còn thuộc diện nghèo.

Trả lời (Công văn số 2329/BHXH-TN ngày 29/6/2007 của Bảo hiểm xã hội Việt Nam):

Vấn đề này thuộc trách nhiệm nghiên cứu của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội và các Bộ quản lý Nhà nước có liên quan khác. Bảo hiểm xã hội Việt Nam sẽ tổ chức thực hiện sau khi có hướng dẫn của các Bộ.




BỘ Y TẾ
1/ Cử tri thành phố Hải Phòng kiến nghị: Đề nghị Nhà nước nghiên cứu trao trách nhiệm quản lý trạm y tế xã phường cho Uỷ ban nhân dân quận, huyện.

Trả lời (Công văn số 4328/BYT-VP1 ngày 26/6/2007 của Bộ Y tế):

Theo quy định tại Nghị định số 172/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ thì Phòng Y tế là cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Để triển khai Nghị định này, ngày 12/4/2005, Bộ Nội vụ và Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 11/2005/TTLT-BNV-BYT hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về y tế ở địa phương. Theo Thông tư này, Phòng Y tế chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của UBND cấp huyện và Phòng Y tế có trách nhiệm quản lý các trạm y tế xã, phường, thị trấn.

Hiện nay, Bộ Y tế đang tiến hành khảo sát, đánh giá việc tổ chức triển khai thực hiện Thông tư số 11/2005/TTLT-BNV-BYT ở các địa phương để kiến nghị, sửa đổi, bổ sung những nội dung cho phù hợp với tình hình thực tế. Bộ Y tế xin ghi nhận ý kiến, kiến nghị của cử tri thành phố Hải Phòng sẽ bổ sung vào nội dung đánh giá Thông tư số 11/2005/TTLT-BNV-BYT trong thời gian tới.

2/ Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị: Cử tri cho rằng không nhất thiết mỗi xã, phường đều có trạm y tế mà tuỳ theo tình hình thực tế của từng địa phương, căn cứ vào số dân, vị trí địa lý để xây dựng một số trung tâm y tế hay bệnh viện khu vực để được đầu tư tập trung, đúng mức cả cơ sở vật chất và đội ngũ y bác sĩ.

Ninh Thuận là một tỉnh nghèo, cơ sở Bệnh viện đa khoa tỉnh còn thiếu thốn, lạc hậu, gây rất nhiều khó khăn cho bệnh viện cũng như bệnh nhân trong khám chữa bệnh. Cử tri đề nghị Chính phủ, Bộ Y tế quan tâm, sớm đầu tư xây dựng bệnh viện mới cho tỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng nhiều của nhân dân.

Trả lời (Công văn số 4328/BYT-VP1 ngày 26/6/2007 của Bộ Y tế):

+ Về ý kiến không nhất thiết mỗi xã, phường đều phải có trạm y tế xã:

Trạm y tế xã, phường có nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, theo dõi tình hình bệnh dịch ngay tại địa bàn xã, phường, là cơ sở y tế gần dân nhất, sát dân nhất nên việc mỗi xã, phường có 1 trạm y tế là hết sức cần thiết. Ban Bí thư Trung ương đã ban hành Chỉ thị số 06/CT-TW về củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, trong đó đã nêu rõ việc nâng cấp cơ sở vật chất và thiết bị của các trạm y tế xã không chỉ là nhiệm vụ của ngành y tế mà phải có sự chỉ đạo tập trung của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, sự phối hợp giữa các ban ngành và toàn thể nhân dân.

Thực hiện chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Bộ y tế đã và đang chỉ đạo các địa phương đầu tư, nâng cấp các Trạm y tế xã, phường để đạt tiêu chuẩn quốc gia về y tế xã nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, truyền thống giáo dục nhân dân trong công tác phòng bệnh, chữa bệnh. Năm 2006, Bộ Y tế đã xây dựng đề án nâng cấp trạm y tế xã, hiện nay, đề án này đang được hàn chỉnh để trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 7/2007.

+ Đối với các bệnh viện huyện, bệnh viện đa khoa khu vực: Bộ Y tế đã trình và được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 225/2005/QĐ-TTG ngày 15/9/2005 phê duyệt đề án “Nâng cấp bệnh viện huyện và bệnh viện đa khoa giai đoạn 2005 – 2008” với mục tiêu nâng cấp các bệnh viện huyện, bệnh viện đa khoa khu vực về cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, con người nhằm đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân ngay trên địa bàn, khu vực. Trong năm 2005- 2006, Chính phủ đã đầu tư được khoảng 800 tỷ đồng cho dự án này. Số kinh phí này đã được phân bổ cho các tỉnh để trước mắt nâng cấp các bệnh viện hiện đang gặp nhiều khó khăn.

+ Đối với việc cử tri đề nghị xây dựng mới bệnh viện đa khoa tỉnh:

Thực hiện Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg ngày 30/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 và chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Nghị quyết 46-NQ/TW ngày 23/2/2005 về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ của nhân dân, Bộ Y tế đã xây dựng và đang trình Thủ tướng Chính phủ Đề án “Đầu tư xây dựng, nâng cấp các bệnh viện đa khoa vùng và một số bệnh viện đa khoa tỉnh giai đoạn 2007 - 2012”. Bộ Y tế cũng đã trao đổi với UBND tỉnh Ninh Thuận và thống nhất đưa Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận vào danh sách các tỉnh ưu tiên đầu tư từ ngân sách Trung ương để nâng cấp cơ sở hạ tầng và trang thiết bị cho Bệnh viện đa khoa tỉnh.

Bộ Y tế sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành đề nghị Chính phủ ưu tiên đầu tư xây dựng và nâng cấp các cơ sở y tế cho những tỉnh khó khăn, trong đó có Ninh Thuận.



3/ Cử tri thành phố Cần Thơ kiến nghị:Bệnh viện đa khoa 700 giường ở Cần Thơ được triển khai thi công cách đây gần 10 năm, qua nhiều lần thay đổi thiết kế, chỉnh sửa các hạng mục, phát sinh thêm kinh phí... Địa phương đã bàn giao lại cho Bộ y tế quản lý từ hơn 1 năm nay nhưng vẫn chưa được đưa vào sử dụng; trong khi đó, các bệnh viện khác trong nội ô thành phố Cần Thơ hiện luôn trong tình trạng quá tải, mất vệ sinh nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân. Đề nghị Bộ y tế chính thức cho bà con cử tri được biết đến bao giờ thì bệnh viện này được đưa vào hoạt động ?

Trả lời (Công văn số 4328/BYT-VP1 ngày 26/6/2007 của Bộ Y tế):

Việc chưa di dời Bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ về địa điểm mới là nỗi băn khoăn, bức xúc của Bộ Y tế. Để tiến hành việc di chuyển bệnh viện, Bộ Y tế đã thành lập Tổ công tác và xây dựng kế hoạch di chuyển bệnh viện. Trong thời gian qua, bên cạnh việc tăng cường một số biện pháp khẩn trương hoàn thành những công việc còn tồn đọng, lãnh đạo Bộ Y tế đã cử hai đồng chí Thứ trưởng trực tiếp chỉ đạo vấn đề này. Mặc dù ngành y tế đã tích cực thực hiện những biện pháp chỉ đạo giải quyết, song công tác di chuyển bệnh viện sang địa điểm mới chậm hơn dự kiến do một số nguyên nhân khách quan và chủ quan.

- Công tác tổ chức cán bộ: Ban lãnh đạo còn thiếu, có một số hạn chế nhất định và thiếu kinh nghiệm nên chưa tích cực, chủ động phối hợp với các đơn vị liên quan của thành phố để giải quyết những vướng mắc, khó khăn tồn tại. Để giải quyết vấn đề này, Bộ Y tế đã cùng với Thành uỷ, UBND thành phố Cần Thơ củng cố lại Ban Giám đốc bệnh viện và chuẩn bị lực lượng cán bộ y tế cho bệnh viện.

- Công tác xây dựng cơ sở vật chất: Đến thời điểm bàn giao, công trình bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ đã hoàn thiện xong toàn bộ mặt ngoài công trình và mặt trong từ tầng 3 đến tầng 7. Hiện nay, công trình đang hoàn thiện phần bên trong từ tầng trệt đến tầng 2. Như vậy, toàn bộ các hạng mục từ tầng 3 đến tầng 7 có thể đưa vào sử dụng.

- Nguyên nhân chậm bàn giao toàn bộ công trình xây dựng bệnh viện do: thay đổi quy mô giường bệnh từ 500 giường năm 1995 lên 700 giường năm 1998, do đó, phải mất thời gian trình Chính phủ phê duyệt lại; đồng thời, thiết kế bệnh viện cũng phải thay đổi cho phù hợp với quy mô và đáp ứng với công nghệ và quy trình khám chữa bệnh mới của bệnh viện tuyến cuối (kỹ thuật cao). Bên cạnh đó, do thời gian thi công kéo dài nên phải làm các thủ tục xin điều chỉnh, bổ sung kinh phí vì giá nhân công lao động, vật liệu thời điểm hiện tại tăng không phù hợp với dự toán ban đầu.

- Công tác khám chữa bệnh: Bộ Y tế đã chỉ đạo chuyển giao công tác chuyên môn một cách nhanh chóng, đảm bảo an toàn cho người bệnh. Tiếp nhận cấp cứu kịp thời người bệnh đang điều trị nội trú và người bệnh đến khám hàng ngày. Các khoa cấp cứu điều trị tích cực di chuyển gọn trong một ngày để ổn định và tiếp nhận được bệnh nhân ngay, đồng thời kiện toàn lại các khoa, phòng phục vụ cho công tác khám chữa bệnh theo các Quy chế bệnh viện được ban hành kèm theo Quyết định số 1895/1997/BYT-QĐ ngày 19/9/1997 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Đảm bảo đủ thuốc cho người bệnh, thực hiện tốt quy chế công tác khoa dược về cung ứng, quản lý, bảo quản, cấp phát thuốc và thông tin thuốc, tư vấn sử dụng thuốc và các quy định về đấu thầu mua thuốc.

Bộ Y tế đang chỉ đạo quyết liệt các đơn vị trực thuộc và Bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ để hoàn thành việc di chuyển bệnh viện về địa điểm mới vào đầu tháng 9/2007.

4/ Cử tri tỉnh Quảng Bình kiến nghị: Hiện nay, bệnh “đái tháo đường” có chiều hướng phát triển rộng, khó chữa trị, nguy cơ tử vong nhiều. Nhiều cử tri đề nghị coi bệnh “đái tháo đường” như một bệnh xã hội và đề nghị cấp thuốc miễn phí cho người bệnh.

Trả lời (Công văn số 4328/BYT-VP1 ngày 26/6/2007 của Bộ Y tế):

Theo điều tra của bệnh viện nội tiết năm 2002, tỷ lệ đái tháo đường là 2,7%, riêng ở các thành phố lớn là 4%. Tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường có xu hướng ngày càng tăng. Bệnh đái tháo đường có liên quan đến chế độ dinh dưỡng và tập luyện thể thao, nếu được phát hiện sớm, điều trị kịp thời và tuân thủ tốt chế độ điều trị, dinh dưỡng sẽ giảm biến chứng, giảm tỷ lệ tử vong.

Bộ Y tế đã và đang triển khai nhiều hoạt động về phòng chống bệnh đái tháo đường, như truyền thông, giáo dục sức khỏe, nâng cao nhận thức cộng đồng, giảm thiểu yếu tố nguy cơ. Tuy nhiên, việc phòng chống bệnh đái tháo đường cần phải có sự tham gia của cả cộng đồng, từ ý thức của người dân đến sự hỗ trợ của các ngành, các cấp kết hợp với sự chủ trì về chuyên môn của Bộ Y tế. Chính vì vậy, Bộ Y tế đã xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống một số bệnh không lây nhiễm bao gồm bệnh tim mạch, ung thư và đái tháo đường, dự kiến sẽ trình Chính phủ vào quý IV/2008. Bộ Y tế rất mong kế hoạch này được các Bộ, ngành liên quan ủng hộ và Chính phủ phê duyệt để có thể triển khai, đem lại lợi ích về sức khoẻ, kinh tế và xã hội cho cộng đồng.

5/ Cử tri tỉnh Tuyên Quang kiến nghị: Mức phụ cấp đối với cán bộ y tế thôn bản như hiện nay là quá thấp. Đề nghị tăng mức phụ cấp cho cán bộ y tế thôn, bản lên mức 150.000 đồng/tháng.

Trả lời (Công văn số 4328/BYT-VP1 ngày 26/6/2007 của Bộ Y tế):

Nhận thức được vai trò quan trọng của y tế thôn, bản trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, Bộ Y tế đã thường xuyên chỉ đạo tăng cường củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của y tế thôn, bản nhằm đưa dịch vụ y tế có chất lượng cao đến gần nhân dân đặc biệt là vùng sâu, vùng xa. Bộ Y tế cũng đã phối hợp với các Bộ, ngành và các địa phương đề xuất với Chính phủ các chính sách, chế độ đối với cán bộ y tế thôn bản.

Năm 1999, Nhà nước quy định chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản ở miền núi, vùng cao, hải đảo được trợ cấp 40.000 đồng/người/tháng; đồng thời cũng quy định các xã, phường tạo nguồn thu để hỗ trợ kinh phí chi trả cho cán bộ y tế thôn bản theo công việc. Từ năm 2001, cử tri đã kiến nghị tăng mức phụ cấp cho y tế thôn, bản. Bộ Y tế đã đề nghị tăng mức phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản những chưa được xem xét, giải quyết. Hiện nay, Bộ y tế đang tiếp tục hoàn thiện văn bản và sẽ trình Thủ tướng Chính phủ quy định chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản vào Quý IV năm 2007.

6/ Cử tri tỉnh Quảng Ninh kiến nghị: Tình trạng thuốc giả không chỉ xuất hiện trên thị trường mà còn tràn cả các bệnh viện lớn rất nguy hiểm cho việc điều trị bệnh. Cử tri đề nghị Chính phủ cần chỉ đạo mạnh mẽ hơn, các cấp chính quyền, các cơ quan chức năng cần có hành động quyết liệt hơn để đảm bảo sức khoẻ cho nhân dân.

Trả lời (Công văn số 4328/BYT-VP1 ngày 26/6/2007 của Bộ Y tế):

+ Thực trạng tình hình thuốc giả:

Năm 2006, hệ thống thanh tra dược từ Trung ương đến địa phương đã tiến hành thanh tra, kiểm tra 17.033 cơ sở sản xuất kinh doanh, sử dụng thuốc trong đó phát hiện và xử lý vi phạm 1.783 cơ sở, với số tiền phạt trên 1,7 tỷ đồng; đình chỉ hoạt động có thời hạn của 81 cơ sở và tước giấy phép hành nghề không thời hạn của 115 cơ sở. Hệ thống kiểm nghiệm nhà nước đã phát hiện 947 mẫu/29.819 mẫu thuốc không đạt chất lượng (chiếm tỷ lệ 3%).

+ Về giải pháp đã can thiệp:

Bộ Y tế đã ban hành theo thẩm quyền các văn bản như văn bản số 8272/BYT-QLD ngày 31/10/2006 gửi UBND các tỉnh, thành phố trực thuọc Trung ương (sau đây xin gọi tắt là tỉnh) đề nghị phối hợp với các ngành, các cấp, các lực lượng chức năng ở địa phương để tăng cường công tác kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các vụ vi phạm về sản xuất, buôn bán, nhập khẩu, vận chuyển, tiêu thụ thuốc giả; chỉ đạo các cơ quan, ngành tại địa phương xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện các chiến dịch truy quét thuốc giả, thuốc nhập lậu, thuốc không rõ nguồn gốc trên địa bàn. Ngày 17/7/2006, Bộ đã có Công văn số 680/TTa-CV4 gửi Giám đốc Sở Y tế các tỉnh, Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế yêu cầu chỉ đạo các cơ sở tăng cường kiểm tra chặt chẽ từ khâu nhập khẩu thuốc vào khoa dược đến việc theo dõi chất lượng thuốc trong quá trình điều trị. Ngày 16/11/2006, Cục Quản lý dược đã có Công văn số 7318/QLD-CL gửi Sở Y tế các tỉnh về việc tăng cường phòng chống thuốc giả, thuốc nhập khẩu, thuốc không rõ nguồn gốc.

Văn phòng Chính phủ cũng đã có các văn bản số 6468/VPCP-V.I ngày 07/11/2006 và số 7504/VPCP-V.I ngày 22/12/2006 thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn Sinh Hùng giao cho Ban chỉ đạo 127 Trung ương phối hợp chặt chẽ với Bộ Y tế, các cơ quan, hiệp hội liên quan tiến hành đánh giá thực trạng của công tác phòng chống thuốc giả, triển khai các hoạt động thanh kiểm tra liên ngành; đồng thời để xuất các giải pháp cụ thể đồng bộ lên Thủ tướng Chính phủ nhằm tăng cường hiệu quả của công tác phòng chống hàng giả, gian lận thương mại trong lĩnh vực y tế.

+ Kết quả ban đầu:

Việc kiểm tra, kiểm soát thuốc giả cũng đã được tăng cường và các hành vi vi phạm đã được kịp thời xử lý. Nhờ áp dụng những biện pháp cứng rắn và có hiệu quả, nhìn chung tỷ lệ thuốc giả đã giảm trong những năm gần đây, từ trên 7% năm 1990 xuống còn khoảng 0,1% năm 2005 và 2006.

Năm 2007, theo báo cáo nhanh của một số địa phương, đã phát hiện một số vụ việc buôn bán thuốc không rõ nguồn gốc, thuốc không có hoá đơn chứng từ hợp pháp, trong đó điển hình là vụ việc 03 nhà thuốc Mỹ Châu – tp Hồ Chí Minh kinh doanh trên 500 khoản thuốc phi mậu dịch, hàng xách tay, thuốc mua không có hoá đơn chứng từ. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa phát hiện thêm các vụ việc thuốc giả lưu hành tại các cơ sở chữa bệnh.

+ Các giải pháp trong thời gian tới:

- Bộ Y tế sẽ tiếp tục rà soát để hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động, kiểm tra giám sát chất lượng thuốc, phòng chống thuốc giả như: sẽ sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Nghị định số 45/2005/NĐ-CP ngày 6/4/2005 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, trong đó sẽ quy định rõ các hình thức xử phạt hành chính nghiêm khắc (về tài chính và chuyên môn) đối với những hành vi buôn bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng thuốc giả, thuốc nhập lậu ở bất kỳ mức độ vi phạm nào;

- Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành giữa Công an, Hải quan, Quản lý thị trường, Y tế, Thanh tra các cấp, UBND các cấp... để giải quyết tận gốc vấn đề thuốc giả;

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước về dược đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng thuốc và xử lý kịp thời các vi phạm;

- Đầu tư, nâng cao năng lực hệ thống kiểm tra chất lượng thuốc, trong đó có đầu tư xây dựng các trung tâm kiểm nghiệm khu vực (năm 2008) trang bị hiện đại, đủ khả năng cung cấp kết quả phân tích kiểm nghiệm chính xác, nhanh chóng, phục vụ công tác giám sát thị trường và điều tra phòng chống thuốc giả.

- Tăng cường công tác tuyên truyền sự nguy hại của thuốc giả, thuốc không rõ nguồn gốc và các biện pháp phòng tránh cho cán bộ y tế và nhân dân; tăng cường hợp tác, trao đổi thông tin về thuốc giả với các tổ chức quốc tế, các cơ quan quản lý dược các nước.

- Bộ Y tế sẽ đề xuất Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành để thành lập tổ công tác liên ngành chuyên trách về phòng chống thuốc giả; chỉ định Bộ, ngành giữ vai trò đầu mối trong việc xây dựng phương án khả thi cho công tác phòng chống thuốc giả; chỉ đạo UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường chỉ đạo, điều phối và tổ chức phối hợp các hoạt động của các ban ngành chức năng địa phương trong công tác phòng chống thuốc giả.



7/ Cử tri tỉnh Vĩnh Long kiến nghị: Cử tri đã được trả lời của Bộ Y tế về việc quản lý hành nghề y, dược tư nhân và các giải pháp nhưng thực trạng hiện nay việc bác sĩ khám bệnh vừa kê đơn, vừa bán thuốc thậm chí bán thuốc đã bóc hết nhãn hiệu đồng thời giá cả khám chữa bệnh lại đắt vẫn còn tồn tại rất nhiều, cử tri kiến nghị Bộ trưởng Bộ Y tế có những biện pháp hữu hiệu hơn để không còn tình trạng này.

Trả lời (Công văn số 4328/BYT-VP1 ngày 26/6/2007 của Bộ Y tế):

Về mặt pháp lý, căn cứ Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân và Nghị định số 45/2005/NĐ-CP ngày 06/4/2005 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế thì nếu vi phạm về niêm yết giá khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở hành nghề; người hành nghề y tư nhân được kê đơn nhưng không được bán thuốc sẽ: Phạt tiền từ 2 triệu đồng đến 5 triệu đồng đối với các hành vi vừa kê đơn vừa bán thuốc; phạt tiền từ 01 triệu đồng đến 03 triệu đồng đối với cơ sở hành nghề không niêm yết giá viện phí.

Bộ Y tế đã phân cấp cho Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý bác sỹ của các phòng khám tư nhân. Để chấn chỉnh công tác khám chữa bệnh của những bác sỹ hành nghề y tư nhân. Bộ Y tế đã có nhiều văn bản gửi các địa phương như: "Công văn số 5759/YT-ĐTr ngày 23/7/2001, Công văn số 384/YT-Ttra ngày 07/8/2002, Công văn số 4405/YT-ĐTra ngày 07/6/2005 để nhắc nhở Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường công tác quản lý nhà nước, công tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở hành nghề y tư nhân. Tuy nhiên, trên thực tế hiện tượng cử tri nêu vẫn tồn tại nguyên nhân là do:

+ Các Sở Y tế chưa chủ động tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật đến các bác sỹ hành nghề khám chữa bệnh tư nhân.

+ Đội ngũ cán bộ thanh tra chuyên trách quản lý hành nghề y tư nhân còn yếu và thiếu ở hầu hết các địa phương, cán bộ đã thiếu còn phải kiêm nhiệm nhiều việc khác, nên việc kiểm tra, phát hiện chưa triệt để.

+ Chưa có chính sách khen thưởng kịp thời tại địa phương cho các cơ sở khám chữa bệnh có thành tích để phát huy và huy động mọi đối tượng thực hiện nghiêm chính sách của nhà nước.

+ Hội nghề nghiệp y tư nhân ở các địa phương đã thành lập nhưng chưa hoạt động tích cực, chủ động để trở thành cơ quan tư vấn, giám sát chuyên môn nghề nghiệp tại địa phương.

Để giải quyết vấn đề trên, cần có sự phối kết hợp chặt chẽ của các sở, ban ngành địa phương để thanh kiểm tra thường xuyên dưới sự chỉ đạo của UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Sở Y tế cần chủ động tích cực chỉ đạo Trung tâm y tế huyện, y tế xã, phường kết hợp chặt chẽ với các cơ quan đoàn thể tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho các đối tượng hành nghề khám, chữa bệnh, đặc biệt phòng khám chuyên khoa; đồng thời tăng cường cán bộ chuyên trách quản lý hành nghề y tư nhân, cán bộ thanh tra, tổ chức thường xuyên thanh tra, kiểm tra và xử phạt nghiêm minh đối với các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân nếu có vi phạm. Sở Y tế cần trình UBND tỉnh các chính sách khen thưởng đối với các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân có thành tích trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân và tạo điều kiện cho Hội nghề nghiệp y tư nhân phát triển mạnh cả về số lượng, chất lượng. Về phía Bộ Y tế sẽ củng cố, tăng cường đội ngũ thanh tra chuyên ngành và tích cực chỉ đạo việc thanh kiểm tra thường xuyên ở các địa phương.



Каталог: UserControls -> ckfinder -> userfiles -> files
files -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> UỶ ban thưỜng vụ quốc hội ban dân nguyện kỳ HỌp thứ SÁU quốc hội khoá XII
files -> Phụ lục số 1 danh mục các văn bản hưỚng dẫn thi hành pháp luật về giao thôNG
files -> PHỤ LỤC 1 KẾt quả XỬ LÝ ĐƠN, thư CỦa uỷ ban tư pháp từ sau kỳ HỌp thứ SÁU ĐẾn truớc kỳ HỌp thứ BẢy quốc hội khóa XII
files -> Phần I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
files -> II. Các kiến nghị về chính sách đối với giáo viên
files -> BÁo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và đảm bảo chất lượng đào tạo trong giáo dục đại học

tải về 1.47 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương