TÌnh hình và xu thế phát triển giáo dụC ĐẠi họC Ở MỘt số NƯỚc thuộc khu vực châU Á thái bình dưƠNG



tải về 344.95 Kb.
trang4/4
Chuyển đổi dữ liệu19.07.2016
Kích344.95 Kb.
#2074
1   2   3   4

3.6. Thái Lan:

3.6.1. Sơ lược lịch sử phát triển30

Giáo dục đại học Thái Lan bắt đầu từ năm 1917 khi trường Đại học CHulalongkorn theo sắc lệnh của nhà vua, thực hiện quy chế một trường đại học. Thực ra trường này đã tồn tại từ thế kỷ trước dưới hình thức Trường Thiếu sinh hoàng gia và là trường phục vụ dân sự. Ngay sau cuộc cách mạng năm 1932, Thái Lan chuyển từ một đế chế sang một nền dân chủ đã xuất hiện phương pháp quản lý dân chủ. Vì thế, trường đại học khoa học chính trị và đạo đức ra đời năm 1933 gọi là ĐH Thamnasat để đào tạo những người lãnh đạo chính trị và phục vụ dân sự kiểu mới. Tiếp đến năm 1942, thành lập đại học y khoa, ĐH nông nghiệp, ĐH Mỹ thuật, khi kết thúc đại chiến thế giới thứ 2 Thái Lan đã có 5 trường ĐH làm cơ sở cho sự phát triển sau này.

Từ năm 1945, bắt đầu sự giao lưu văn hóa với thế giới, các cố vấn nước ngoài bắt đầu tràn vào, công nghiệp tư nhân muốn phát triển nhưng thiếu những chuyên gia kỹ thuật, cuộc chiến tranh Đông Dương ngày càng mở rộng, nhiều nhu cầu đang dạng phát sinh đã tác động mạnh mẽ vào giáo dục ĐH, làm cho nó thay đổi cả về vị trí và chức năng: GD ĐH không chỉ đào tạo ra lớp viên chức nhà nước mà còn cung cấp đội ngũ cán bộ chuyên môn cho cả hai khu vực kinh tế công và tư; GD ĐH trở thành động lực quan trọng nhất trong sự phát triển đất nước. Từ cuối những năm 60 đến đầu những năm 70 các trường ĐH với nhiều ngành chuyên môn hóa đã liên tiếp ra đời, trung bình cứ mỗi năm thêm 1 trường mới. Năm 1969, Luật về Đại học tư được ban bố. Nhiều trường ĐH tư được thành lập, đào tạo kỹ thuật và kinh doanh đáp ứng nhu cầu nhân lực của nền kinh tế. Năm 1971, thành lập trường đại học ở Ramkhamhaeng với hệ thống dạy – học từ xa, số lượng học viên trường này phát triển rất nhanh, đến năm 1979 đạt tới 110.000 học viên, Chính phủ lại mở thêm 1 trường nữa – Trường ĐH mở Sukhothai thammathirat – hai trường này đã mở ra cơ hội học tập cho rất nhiều người, đáp ứng yêu cầu giáo dục suốt đời.

3.6.2. Hệ thống GD ĐH mới31

Hệ thống giáo dục mới của Thái Lan được hoàn chỉnh chính thức từ năm 1977, với quan niệm giáo dục là “giáo dục sau trung học”. Do đó, các trường đạo tạo sau trung học ở mọi trình độ và mọi loại hình đều là bộ phận của GD ĐH. Cả trường công và trường tư đều chịu sự thanh tra của Chính phủ.

Các cơ sở đào tạo đại học có thể chia làm 4 nhóm:

- Các viện đại học, trường đại học nhà nước, các trường ĐH tư do Bộ Đại học quản lý.

- Các trường kỹ thuật hoặc dạy nghề, nông học và các trường cao đẳng và trung học đào tạo giáo viên do Bộ Giáo dục quản lý.

- Các trường đào tạo chuyên nghiệp khác thuộc các bộ hoặc cơ quan nhà nước khác quản lý, ví dụ các trường y tế, trường phật giáo, học viện quân sự và an ninh.

- Học viện kỹ thuật châu Á có hiến chương riêng do nhà nước Thái Lan tài trợ.

Hệ thống giáo dục có cấu trúc 6-3-3-4 (tiểu học, sơ trung, cao trung, đại học). Thời gian học đại học từ 4 đến 6 năm để lấy bằng cử nhận, thêm 2 năm nữa để đạt bằng cao học, 3 năm nữa để đạt bằng tiến sỹ.

3.6.3. Những phương hướng hoạt động của GD ĐH trong kế hoạch 1987-1991.

Kế hoạch 5 năm (1987-1991) về phát triển GD ĐH gồm các hướng sau đây:

3.6.3.1. Về mặt quản lý

- Tăng cường việc tuyển chọn cán bộ quản lý ở mọi cấp, điều kiện cho các trường ĐH công huy động được nhiều nguồn tài liệu phục vụ cho hoạt động của trường, trong đó có sự đóng góp của người học để giảm bớt gánh nặng tài chính cho nhà nước.

- Tăng cường liên kết giữa các thành phần công và tư thông qua các đề án hợp tác và thúc đẩy việc hoạch định kế hoạch dài hạn trên cơ sở các nguồn lực hiện có, các nhu cầu kinh tế xã hội và sự tham gia của địa phương.

3.6.3.2. Về mục tiêu hoạt động

Nhằm đào tạo ra những người tốt nghiệp có chất lượng đạo đức và tín ngưỡng cao, có khả năng thích nghi vứi sự biến đổi của kinh tế - xã hội và có khả năng tạo ra việc làm trong phạm vi sở hữu của họ. Đặc biệt lưu ý bảo vệ bản sắc dân tộc và sự phát triển khoa học khuyến khích đại học tư và tăng cơ hội tiếp thu học vấn đại học thông qua các trường đại học mở.

3.6.3.3. Về mặt chất lượng:

Làm cho các khung kế hoạch học tập thêm uyển chuyển, phù hợp với tiến bộ KHKT, cân đối giữa lý luận và thực tiễn, đặc biệt lưu ý đến hiệu quả giảng dạy và nghiên cứu của đội ngũ giáo chức, đội ngũ này phải có tỷ lệ học vị cân đối, tăng cường sách giáo khoa và phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại, mở rộng hệ thống thông tin, thư viện phục vụ nghiên cứu và đào tạo, tăng cường hỗ trợ tài chính cho những đối tượng gặp khó khăn.

3.6.3.4. Về mặt nghiên cứu, dịch vụ xã hội và phát triển văn hóa nghệ thuật

Tăng cường nghiên cứu cơ bản để phát triển khoa học và nghiên cứu ứng dụng để phục vụ đất nước, đặc biệt lưu ý việc đưa kết quả nghiên cứu phục vụ nông thôn và công nghiệp, khuyến khích các trường ĐH làm các dịch vụ văn hóa khoa học phục vụ xã hội, thực hiện giáo dục thường xuyên.

3.6.3.5. Về sinh viên

Khuyến khích sinh viên tham gia vào hoạt động giáo dục và dịch vụ xã hội, phát triển nhân cách và sự thích nghi của họ với môi trường xã hội, mở rộng các dịch vụ hướng nghiệp, giới thiệu việc làm, theo dõi tình trạng thất nghiệp và chuyển nghề của sinh viên ra trường.

3.6.4. Hệ thống các trường đại học công lập và tư lập:

Mỗi trường ĐH đều được thành lập theo luật về các trường ĐH công hoặc luật về các trường ĐH tư. Thái Lan có 16 trường ĐH công, trong đó có 2 ĐH mở. Mỗi trường có điều lệ riêng, có hội đồng nhà trường hoạt động như một cơ quan quyền lực. Dưới hội đồng trường là hiệu trưởng chịu trách nhiệm quản lý nhà trường. Dưới hiệu trưởng có các khoa, trung tâm, viện, đơn vị liên ngành. Hội đồng nhà trường gồm chủ tịch, hiệu trưởng, các chủ nhiệm khoa, giám đốc các viện trong trường và các nhân vật có uy tín khác ngoài ĐH. Các Hội đồng khoa trưởng và Hội đồng giáo dục là 2 cơ quan tư vấn cũng tham gia vào việc điều khiển trường ĐH.

Đại học tư phát triển mạnh từ 1969 nhờ luật ĐH tư. Luật này được sửa đổi vào năm 1978. Tính đến tháng 6/1988, ở Thái Lan có 25 trường ĐH tư, 6 viện đại học, 1 viện và 18 trường cao đẳng. Theo luật 1979, Bộ Đại học là cơ quan điều phối giữa nhà nước và các ĐH tư.

Hội đồng các ĐH tư là cơ quan đề xuất chính sách. Thư ký thường trực của Bộ ĐH là chủ tịch Hội đồng.

Mỗi ĐH tư có một hội đồng riêng để quản lý giám sát mọi hoạt động của học viên, cũng có thể có bộ máy quản lý bên trong học viên.

3.6.5. Vấn đề tuyển sinh đại học

Mọi học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học, khỏe mạnh, có đảm bảo về tài chính, có hạnh kiểm tốt, đều được dự tuyển vào đại học.

- Kỳ thi liên kết chung: thực hiện cho 11 trường đại học, mỗi học sinh được phép gửi đơn về 6 khoa khác nhau của nhiều trường ĐH. Thí sinh nào được chọn sẽ được trường ĐH thông báo, sau đó có thẩm vấn và khám sức khỏe, một số khoa đòi hỏi phải trắc nghiệm về năng khiếu.

- Kỳ thi riêng cho một số trường ĐH, thực hiện cho 3 trường ĐH ở các tỉnh và các cơ sở của trường ĐH Băngkok đặt ở các tỉnh được tổ chức kỳ thi riêng để tuyển chọn. Riêng trường ĐH công nghệ Keng Mongkut nhận những người có bằng TN chuyên nghiệp vào năm thứ 1. Đối với 1 số ngành nghề các trường ĐH có thể nhận người có bằng cao hơn vào các năm trên.

3.6.6. Đánh giá và thang điểm:

Việc đánh giá ở mọi trường ĐH đều dựa trên hệ thống, tín chỉ. Mỗi trường đều có công bố số học kỳ, số tín chỉ đòi hỏi, điểm trung bình chung và điểm tích lũy để tốt nghiệp. Đại đa số các trường quy định thang điểm như sau:



  • Excellent – A – 4.00

  • Very Good – B+ - 3.50

  • Good – B – 3.00

  • Fairly good – C+ - 2.50

  • Fair – C – 2.00

  • Poor – D+ - 1.50

  • Very poor – D – 1.00

  • Failure – E – 0.00

Thông thường sinh viên phải có được điểm trung bình chung ít nhất 2.00 để đạt bằng cử nhân (bachelor) và đòi hỏi phải có mặt 80% thời gian lên lớp mới được thi kết thúc.

3.6.7. Học phí:

Có sự khác nhau giữa các trường:


  • Ở các ĐH công học phí trung bình như sau:

Tiền học tính thieo giờ (1 Baht 1/25 USD)

Môn học lý thuyết: tháng 50 baht

Môn học thí nghiệm: tháng 100 baht

Học phí theo năm: 1000-7000 baht

Master Programm: 14000 bath/năm


  • Ở các ĐH tư:

Tiểu học theo giờ: 150-750 baht

Tiểu học theo năm: 500-2000 baht

Với master:

Tiền học theo giờ: 750-1500 baht

Học phí theo năm: 1000-2000 baht

3.6.8. Về sự phát triển số lượng sinh viên:

Tổng số sinh viên đại học công từ 1983-1987

Năm

Loại trường

1983

1984

1985

1986

1987

14 trường ĐH

101.883

104.958

107.557

113.450

115.892

2 trường ĐH mở

656.725

563.823

569.869

565.453

521.747

Tổng cộng

758.608

668.781

677.426

678.903

637.639

3.6.9. Vài nhận xét

Trong hơn 20 năm qua, GD ĐH Thái Lan đã có những thay đổi quan trọng và đã trưởng thành vượt bậc, xuất phát từ hai sức ép mạnh mẽ nhu cầu nhân lực và nhu cầu xã hội. Mặc dù ĐH Thái Lan có chức năng là “giảng dạy, nghiên cứu, phục vụ xã hội, phát triển và bảo tồn văn hóa dân tộc”. Trên thực tế, các trường ĐH, chủ yếu hơn cả là nơi cung cấp cán bộ có trình độ cao. GD ĐH ngày càng có vai trò tích cực hơn trong sự nghiệp phát triển đất nước và đã trở thành “ngành công nghiệp sản sinh kiến thức” để thúc đẩy sự tiến bộ chung, sự tiến bộ kỹ thuật và “sức mạnh trí tuệ” của đất nước là thành quả quan trọng của Đại học Thái Lan.



4. Những xu thế chung về sự phát triển GD ĐH trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương:

Qua khảo sát một số nước, ta thấy nổi bật những nét đặc thù của mỗi nước như sau: Ở Nhật Bản, GD ĐH phát triển sớm với tốc độ nhanh: Từ thời Minh Trị (cuối thế kỷ 19) người dân Nhật đã ý thức được 3 nghĩa vụ đối với quốc gia là đóng thuế, đi học và đi lính. Ngày nay, quốc sách hàng đầu của Nhật là “Giáo dục khoa học và mở cửa” thì cuộc tranh đua vào trường ĐH để đạt được tấm bằng là phương tiện tiến thân hữu hiệu nhất của người dân Nhật. Kỷ luật học đường nghiêm ngặt với những thể chế thi cử khắc nghiệt làm tổn hại đến sự phát triển đa dạng cá tính cuả lớp thanh niên đang là nhược điểm của nền giáo dục nước này. Ở Trung Quốc, GD ĐH bị gián đoạn mất 10 năm (thời kỳ CMVH), ngày nay đang tăng tốc với nhiều biện pháp hữu hiệu: tăng đầu tư, cải cách căn bản nội dung, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, chú ý đúc kết kinh nghiệm và học tập nước ngoài... Ở Nam Triều Tiên, giáo dục năng khiếu và đào tạo nhân tài được đặc biệt coi trọng, đào tạo giáo viên được ưu tiên, gửi sinh viên đi học ở nước ngoài được đặc biệt chú ý, mọi hoạt động của giáo dục được thể chế hóa bằng luật pháp một cách đầy đủ. Ở Ấn Độ, GD ĐH vốn có một lịch sử phát triển lâu đời, có những thành tựu nổi tiếng từ trước thời Trung cổ. Nhưng do nhiều thăng trầm của lịch sử, giáo dục bị đình trệ cho tới sau ngày giành được độc lập (1947), giáo dục Ấn Độ mới lại phát triển. Nền đại học ngày nay khá đa dạng và gắn liền với cộng đồng xã hội. Nhà trường đại học và sinh viên đều tham gia trực tiếp vào các chương trình phát triển nông thôn phát triển cộng đồng trong một cơ chế phối hợp điều hành chặt chẽ. Nền đại học Indonesia và Thái Lan tuy mới phát triển nhưng cũng đã thích nghi nhanh chóng với nền kinh tế thị trường phát triển vừa đáp ứng nhu cầu nhân lực cho công, nông nghiệp vừa tham gia vào việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc.

Bên cạnh một số nét đặc thù của mỗi nước, nhìn khái quát về sự phát triển GD ĐH hiện đại của nhiều nước trong khu vực, ta có thể rút ra những xu thế chung sau đây:

1. Sự mở rộng liên tục về quy mô phù hợp với xu thế chung của các nước đang phát triển trên thế giới, tốc độ tăng số lượng sinh viên hàng năm ở khu vực này là 4%. Đặc biệt từ giữa thập kỷ 60 đến đầu thập kỷ 80, có thể coi là giai đoạn bành trướng của GD ĐH, hàng loạt cơ sở đào tạo mới ra đời, số lượng sinh viên tăng nhanh, đội ngũ giáo viên cũng tăng đáng kể. Từ giữa những năm 80, tốc độ tăng có chững lại nhưng số lượng vẫn tiếp tục tăng. Và nhìn về tương lai đến năm 2000, xu thế chung vẫn tiếp tục tăng về số lượng đồng thời với những biện pháp củng cố và tăng cường chất lượng.

2. Sự chuyển hướng về mục tiêu giáo dục: Mục tiêu giáo dục đã chuyển từ một nền giáo dục ĐH phục vụ thiểu số - đào tạo tầng lớp thượng lưu trí thức, đào tạo đội ngũ viên chức quản lý bộ máy nhà nước sang một nền giáo dục đại chúng đáp ứng nhu cầu nhân lực phục vụ phát triển KT-XH, đào tạo nhân tài phục vụ đất nước, truyền thụ kiến thức để nâng cao dân trí. Hội nghị UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương tháng 10/1990 họp tại Australia đã xác nhận GD ĐH ở đây đã phục vụ rộng rãi cho xã hội đến mức chưa từng thấy. Nó đã giải đáp được nhiều vấn đề của xã hội của nghiên cứu khoa học và phục vụ cho cộng đồng.

3. Về tính chất của GD: Đã chuyển từ một nền giáo dục mang tính đặc quyền, đặc lợi sang một nền giáo dục mang tính dân chủ, bình đẳng, công bằng xã hội, giáo dục suốt đời.

4. Về chức năng của giáo dục: Ngoài chức năng giáo dục đào tạo, GD ĐH còn làm chức năng nghiên cứu phát triển khoa học, kỹ thuật bảo tồn và phát triển văn hóa xã hội.

5. Về phương châm giáo dục: Từ mô hình Đại học “Tháp Ngà”, giáo dục ĐH ngày nay gắn liền với xã hội, với sản xuất và đời sống, đào tạo gắn với việc làm, giáo dục gắn liền với phát triển.

6. Về nội dung giáo dục: Hướng mạnh vào các ngành khoa học phục vụ công nghiệp hóa đất nước, phát triển các công nghệ mũi nhọn, chú ý đào tạo nhân tài khoa học kỹ thuật, thương nghiệp và quản lý nhằm tăng khả năng cạnh tranh quốc tế trong nền kinh tế thị trường đang được quốc tế hóa.

7. Về phương pháp giáo dục: Chuyển từ truyền thụ kiến thức là chính sang phát triển tư duy là chính (đối với người dạy), từ tiếp thu thụ động sang lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, sáng tạo (đối với người học) với các phương châm “tích cực hóa”, “cá nhân hóa” với sự trợ giúp của các phương tiện kỹ thuật hiện đại.

8. Về loại hình đào tạo: Đa dạng hóa theo hướng hình thành một hệ thống giáo dục nhiều bậc với cơ chế mềm dẻo, đã chuyển đổi; Phát triển mạnh loại hình đại học ngắn hạn, đào tạo tại chức, đào tạo từ xa, đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhiều đối tượng người học. Đặc biệt các đại học tư được phát triển mạnh ở nhiều nước (Philipin, Nam Triều Tiên, Nhật, Indonesia...).

9. Về quản lý: Tổ chức lại mạng lưới trường phù hợp với quy hoạch vùng kinh tế, với phương hướng phát triển nông thôn. Phân cấp quản lý mạnh cho địa phương và cơ sở, một số trường thực hiện quy chế tự trị đại học. GD ĐH tại nhiều nước đã được thể chế hóa bằng luật giáo dục. Hệ thống quản lý cũng được hiện đại từng bước với sự hỗ trợ của máy tính điện tử. Nhiều trung tâm máy tính ra đời thực hiện việc lưu giữ và cập nhật hồ sơ cán bộ, giáo viên, sinh viên và phục vụ công tác tuyển sinh. Một số nước đã hình thành mạng lưới thông tin KHGD vừa phục vụ công tác quản lý vừa góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.

10. Chính sách đầu tư: Đầu tư cho GD ĐH cũng được thay đổi quan trọng: vừa tăng tỷ lệ ngân sách giành cho GD, vừa đa dạng hóa các nguồn đầu tư nhằm huy động nhiều nguồn lực khác nhau trong xã hội đóng góp cho giáo dục.

11. Mở rộng giao lưu quốc tế nhưng không quên bảo tồn bản sắc dân tộc. Hệ thống giáo dục của nhiều nước trong khu vực chịu ảnh hưởng của giáo dục các nước Âu, Mỹ. Số lượng sinh viên phải đi học ở nước ngoài về như Anh, Hà Lan... cũng khá đông.

Tuy nhiên, song song với những xu thế phát triển trên đây GD ĐH trong khu vực cũng luôn luôn tồn tại, một mâu thuẫn lớn đó là nhu cầu học tập ngày càng tăng, đòi hỏi của xã hội đối với GD ĐH ngày càng nhiều, nhưng các nguồn lực giành cho đại học không thể đáp ứng. Ngân sách giáo dục tăng chậm, cán bộ giảng dạy có trình độ cáo thiếu nhiều, cơ sở vật chất, trang bị kỹ thuật cho dạy và học không đủ. Vì vậy, hệ thống đại học cần được cấu trúc lại tối ưu để phát triển, tăng cường đào tạo từ xa, phát triển nghiên cứu khoa học định hướng phục vụ xã hội, ưu tiên đào tạo cán bộ giảng dạy, tăng cường hợp tác giữa các nhà khoa học, các tổ chức đào tạo, quan hệ chặt chẽ giữa nhà trường với nơi sử dụng, củng cố hệ thống đánh giá để đảm bảo chất lượng. Đó là những nhận định đã được nêu lên tại Hội nghị UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương, họp tại Australia tháng 10/1990.

IV. PHẦN KẾT LUẬN

Châu Á - Thái Bình Dương, một khu vực mà nền kinh tế đang có tốc độ tăng trưởng nhanh. Cuộc tranh đua khốc liệt trong nền kinh tế thị trường hàng hóa đang đòi hỏi sự thay đổi sâu sắc, về tổ chức sản xuất, về hoạt động tư duy của người quản lý, về trình độ kiến thức và kỹ thuật của những người lao động.

Châu Á - Thái Bình Dương, một khu vực đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Những tiến bộ khoa học kỹ thuật, những công nghệ mới đang đòi hỏi đội ngũ những người kỹ sư, những người thiết kế, những nhà quản lý phải nắm bắt nhanh để đưa vào thực tiễn sản xuất. Không những thế, yêu cầu phát triển đất nước và cạnh tranh quốc tế còn đòi hỏi nhiều quốc gia phải đầu tư mạnh hơn về nghiên cứu cơ bản, phát triển khoa học và công nghệ nhằm tạo thế đi lên vững chắc vào thế kỷ 21.

Châu Á - Thái Bình Dương, khu vực có tốc độ gia tăng dân số thuộc loại cao trên thế giới, số người trong độ tuổi đại học liên tục tăng lên, trình độ phổ cập giáo dục cũng ngày càng tăng hơn, đồng thời những xu thế tiến bộ xã hội, những yêu cầu về dân chủ hóa, nhân văn hóa, những đòi hỏi bình đẳng về quyền sống lao động, học tập, sáng tạo và hưởng thụ văn hóa ngày càng tăng lên ở mọi tầng lớp.

Tất cả những cái đó đang tạo ra nhu cầu học tập ngày càng lớn, làn sóng vào đại học vẫn luôn luôn là một thách thức đối với hệ thống giáo dục của phần lớn các nước trong khu vực. Đó là nguyên nhân dẫn tới sự phát triển nhanh chóng hệ thống giáo dục, trong đó GD ĐH chịu tác động mạnh mẽ nhất. Điển hình về một hệ thống giáo dục phát triển đó là Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Thái Lan...

Sự phát triển của GD ĐH thể hiện ở 11 xu thế đã nêu ở phần trên. Có thể coi đó cũng là những kinh nghiệm tốt cho Việt Nam ta nghiên cứu, tham khảo.

Ở Việt Nam, Đại hội Đảng lần thứ VII đã chỉ rõ phát triển giáo dục và khoa học được coi là quốc sách hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. GD ĐH phải đáp ứng được ba mục tiêu: nhân lực, dân trí và nhân tài. Hệ thống giáo dục đang được cấu trúc lại theo hướng đa dạng, mềm dẻo, dễ chuyển đổi, liên thông giữa các loại hình trường và cấp bậc học. Đó là những chuyển biến phù hợp với xu thế chung của khu vực. Tuy nhiên, so sánh với nhiều nước trong khu vực, giáo dục đại học của ta còn những mặt yếu kém thể hiện như sau:

- Tỷ lệ sinh viên trên 10.000 dân còn quá thấp 22/10.000 trong khi đó bình quân của các nước trong khu vực là 60-80/10.000.

- Đào tạo chưa gắn với sử dụng: phần lớn sinh viên tốt nghiệp khó tìm việc làm, phải chờ đợi quá lâu học phải làm việc trái với ngành nghề đã được đào tạo, gây ra hiện tượng vừa thừa vừa thiếu, trong khi đó ở các nước trong khu vực đào tạo được gắn với việc làm. Có nơi thành lập bộ phận hướng nghiệp ngày trong trường đại học (Triều Tiên), thiết lập quan hệ với các cơ sở công nghiệp, các xí nghiệp sản xuất để giải quyết việc làm cho sinh viên tốt nghiệp. Có nơi thành lập những bộ phận theo dõi việc sử dụng sinh viên sau tốt nghiệp và tình trạng thất nghiệp của họ (Thái Lan).

- Loại hình đại học ngắn hạn ở ta còn có quá ít trong khi đó ở các nước trong khu vực đây là hướng phát triển mạnh nhất vì đào tạo rẻ hơn, đáp ứng nhanh hơn nhu cầu người học, phát huy hiệu quả đào tạo nhanh chóng hơn.

- Về đào tạo và bồi dưỡng giáo viên ta chưa có những chế độ chính sách thích ưng: lương thấp, đời sống khó khăn, chưa thực hiện được chế độ định kỳ hoặc luân phiên đi bồi dưỡng ở trong nước hoặc nước ngoài, thiếu những chính sách ưu tiên cần thiết. Nói chung ta chưa đào tạo tốt đội ngũ giáo viên các trường sư phạm ít, nghèo nàn, chương trình đào tạo lạc hậu...

- Về quản lý ta cũng đã phân cấp mạnh cho cơ sở, dân chủ bầu cử và cán bộ lãnh đạo trường, khoa... Tuy nhiên, việc quản lý và chỉ đạo điều hành mặt hoạt động của trường chưa được thể chế hóa thành luật như ở Triều Tiên, Nhật Bản. Về đội ngũ quản lý giáo dục, ta cũng chưa có quy hoạch đào tạo bồi dưỡng.

- Việc đào tạo nhân tài ta chưa có chính sách quy hoạch tổng thể, thể hiện sự quan tâm đầy đủ như ở Triều Tiên, Nhật Bản là những nước coi trọng việc đào tạo người tài, những chuyên gia giỏi về khoa học, công nghệ, quản lý, kinh doanh, thương mại... là chính sách ưu tiên hàng đầu. Về đầu tư cho giáo dục ở nước ta còn quá thấp.

Tóm lại, qua kinh nghiệm của các nước trong khu vực, ta thấy rõ việc phát triển sự nghiệp giáo dục, nhất là GD ĐH là cả một quá trình dài, liên tục phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và là tiền đề cho sự phát triển đó. Ngược lại KT-XH phát triển sẽ là tiền đề cho sự phát triển nhanh chóng sự nghiệp GD. Những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển thường biểu hiện tập trung ở sự mất cân đối giữa quy mô và chất lượng. Sự thiếu hụt về tài chính, về đội ngũ giáo viên có trình độ cao, về cơ sở vật chất kỹ thuật cho đào tạo vẫn luôn luôn là mối quan tâm của ngành giáo dục và toàn xã hội. Nhưng các quốc gia ở châu Á - Thái Bình Dương (đặc biệt là Nhật Bản; Nam Triều Tiên, Australia...) đều nhận thức rằng, đầu tư cho GD là đầu tư vào con người, vào nguồn lực quan trọng nhất để giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh quốc tế hết sức sôi động hiện nay, và GD chỉ có một con đường tất yếu là phát triển.



V. KIẾN NGHỊ

Căn cứ vào những phân tích so sánh trên đây, chúng tôi xin kiến nghị một số giải pháp nhằm phát triển nền GD ĐH của ta như sau:

1. Sắp xếp lại mạng lưới các trường Đại học và Cao đẳng không chỉ về mặt địa lý, dân cư mà quan trọng hơn là về mặt ngành nghề đào tạo, về quy mô hợp lý nhằm tạo điều kiện gắn đào tạo với sử dụng, phục vụ có hiệu quả cho các mục tiêu kinh tế - xã hội.

2. Mở thêm một số trường đại học ngắn hạn tại các địa phương theo kiểu “Đại học cộng đồng” như ở Hoa Kỳ hay miền Nam Việt Nam trước đây nhằm phục vụ sát nhu cầu phát triển địa phương và đáp ứng được nhu cầu của đông đảo người học một cách thuận lợi.

3. Cải cách mục tiêu và nội dung đào tạo theo hướng phục vụ nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có điều tiết. Bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu cán quốc gia, phải chú ý phục vụ các mục tiêu kinh tế đa dạng của các địa phương, phục vụ phát triển nông, lâm, ngư nghiệp với ứng dụng các công nghệ hiện đại trong sản xuất, khai thác và chế biến, tạo mặt hàng mới có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Trong bước đầu đổi mới, nền kinh tế phải ưu tiên đào tạo cán bộ quản lý, quản trị kinh doanh. Trong nội dung đào tạo phải tăng cường kiến thức kinh tế, luật pháp, môi trường sinh thái, phổ cập kiến thức về sử dụng máy tính, kỹ năng thu thập và xử lý thông tin.

4. Sớm nghiên cứu một kế hoạch tổng thể về phát hiện và đào tạo người tài kèm theo những chính sách, những sắc luật đặc biệt nhằm thể chế hóa việc thực thi kế hoạch trên.

5. Sớm ban hành những chính sách cụ thể về xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy đại học, bao gồm việc tiêu chuẩn hóa đội ngũ, chính sách đào tạo bồi dưỡng, và chế độ đãi ngộ sử dụng.

6. Cùng với việc đa dạng hóa các nguồn đầu tư cho giáo dục cần tăng cường hơn nữa phần ngân sách nhà nước cho giáo dục đại học nhằm khẩn trương hiện đại hóa một bước một số trường trọng điểm trên cả hai chức năng đào tạo và nghiên cứu khoa học. Đó là tiền đề để tạo bước nhảy vọt trong kinh tế.

7. Trong quản lý giáo dục, cần phân cấp mạnh hơn nữa cho địa phương và cơ sở, nhất là trong tình hình thống nhất hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay, song phải thể chế hóa sâu hơn công tác thanh tra giáo dục và từng bước xây dựng hệ thống quản lý bằng phương tiện hiện đại. Cần nghiên cứu xây dựng ngay Luật Giáo dục.

8. Phát triển nhanh quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực nhằm sử dụng kinh nghiệm và sự hỗ trợ quốc tế, đồng thời phát huy ảnh hưởng của ta trong khu vực./.



PHAN TẤT GIÁ

Viện Nghiên cứu Đại học và GDCN

1 Vladimer Lukin. Ai đe dọa Châu Á? XNB APN Matscova 1987

2 Sức lực nhường chỗ cho trí tuệ, Sputnhic số 5/1988

3 Kinh tế Châu Á-TBD đến năm 2000-Tổng luận KHKT và kinh tế số 1-1990, TTTT KH và CN quốc gia.

4 Kinh tế thế giới 1990- Tạp chí quan hệ quốc tế số 2/1991

5 Tạp chí quan hệ quốc tế số 7/1990

6 Tạp chí quan hệ quốc tế số 7/1990

7 Amrik Singh – GD Sharma, Higher Education in India the social context, Dehli, 1988.

8 Wang cheng xu và Heping – Tham luận tại hội nghị UNESCO khu vực châu Á – TBD, Băngkok 1983

9 Phan Văn Các – tiến trình cải cách thể chế giáo dục ở Trung Quốc, tổng luận, TT Thông tin KHGD 1990.

10 Wang cheng xu và Heping – Tham luận tại hội nghị UNESCO khu vực châu Á – TBD, Băngkok 1983

11 Phan Văn Các – tiến trình cải cách thể chế giáo dục ở Trung Quốc, tổng luận, TT Thông tin KHGD 1990.

12 Phan Văn Các – tiến trình cải cách thể chế giáo dục ở Trung Quốc, tổng luận, TT Thông tin KHGD 1990.

13 Phan Văn Các – tiến trình cải cách thể chế giáo dục ở Trung Quốc, tổng luận, TT Thông tin KHGD 1990.

14 Wang cheng xu và Heping – Tham luận tại hội nghị UNESCO khu vực châu Á – TBD, Băngkok 1983

15 M.R. Kolhatkar – tham luận tại Hội nghị UNESCO khu vực châu Á-TBD 1983

16 M.R. Kolhatkar – tham luận tại Hội nghị UNESCO khu vực châu Á-TBD 1983

17 M.R. Kolhatkar – tham luận tại Hội nghị UNESCO khu vực châu Á-TBD 1983

18 Trần Thúc Trình – sự nghiệp giáo dục trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Nhật Bản, tổng luận – trung tâm TT viện KHGD VN 1990.

19 Phan Tất Giá – Về sự phát triển giáo dục đại học ở Nhật Bản, thông tin chuyên đề, Viện NC ĐH và GD CN tháng 7/1987.

20 Trần Thúc Trình – sự nghiệp giáo dục trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Nhật Bản, tổng luận – trung tâm TT viện KHGD VN 1990.

21 Phan Tất Giá – Về sự phát triển giáo dục đại học ở Nhật Bản, thông tin chuyên đề, Viện NC ĐH và GD CN tháng 7/1987.

22Phan Tất Giá – Về sự phát triển giáo dục đại học ở Nhật Bản, thông tin chuyên đề, Viện NC ĐH và GD CN tháng 7/1987.

23 Hội thảo Việt Nam – Canada về quản lý chương trình đào tạo đại học theo học phần tại Hà Nội tháng 8/1991.

24 Akimasa Mitsuta – Tham luận tại Hội nghị UNESCO khu vực châu Á – TBD.

25 Muniaki-Asomura – Nền giáo dục Nhật Bản, những điểm mạnh và yếu – bài nói chuyện của ngài Đại sứ Nhật Bản tại TP.HCM tháng 12-1990.

26 Kim Chan Man – Tham luận tại Hội nghị UNESCO khu vực châu Á – TBD.

27 Hoàng Đức Nhuận – Nền giáo dục Nam Triều Tiên, tổng luận, TT Thông tin, Viện KHGD VN.

28 Giáo dục đại học ở Indonesia-TTCĐ, Viện NC ĐH và GDCN 7/1987

29 Giáo dục ĐH ở 1 số nước châu Á –TBD, Viện NC ĐH và GDCN 8/1984.

30 Wechic Srisa-an – Tham luận tại Hội nghị UNESCO khu vực châu Á-TBD.

31 GD Đại học Thái Lan – hội thảo Việt Nam – Canada, Hà Nội 1991.





tải về 344.95 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương