Tổng quan về thương mại quốc tế


Trường hợp 1-1 : Tổng công ty ARIZONA SUNRAY



tải về 4.58 Mb.
trang4/48
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích4.58 Mb.
#11690
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   48

Trường hợp 1-1 : Tổng công ty ARIZONA SUNRAY


ARIZONA SUNRAY là một trong những công ty tiên phong về năng lượnh mặt trời ở bang ARIZONA .Những người sáng lập công tybao gồm những người ARIZONA ở thế hệ ba ,con cháu của những người sáng lập ra bang. Những người sáng lập rất kiêu hãnh về di sản của tổ tiên, thường tự hào rằng sự thịnh vượng tương đối mà họ đạt được là kết quả của việc nghĩ tới ARIZONA đối với họ điều đó có nghĩa là một sự tìm kiếm không ngừng các cơ hội kinh doanh ở trong bang.

Vào cuối những năm 50 một thành viên của thế hệ này nổi lên như một kiểu tiên phong mới- 1 người trong nhóm các nhà khoa học và các doanh nhân người đã hy vọng phát triển sự ứng dụng thưc tế đầu tiên của nănglượng mặt trời trên phạm vi mà Mỹ có thể đáp ứng. Vào đàu những năm 60, ông đã tiên phong trong việc sử dụng năng lượng mặt trời tại các văn phòng và nhà ở, cùng với các thành viên khác của công ty ông đã đưa ARIZONA trở thành một công ty thành công đáng ngạc nhiên.Cuối cùng mang tên là ARIZONA SUNRAY.Sau một vài thử nghiệm công ty đã chọn khẩu hiệu “đi theo hướng mặt trời :đó là con đường của ARIZONA’’.Với lí do để có được những công việc kinh doanh mới là đi theo hướng mặt trời công ty đã mở rộng ra mọi vùng của bang sau đó tới NEVADA và NEW MEXICO.

Thế hệ tiếp theo đã nắm quyền kiểm soát việc kinh doanh vào năm 1965.Kết quả là đưa ra một quyết định để thay thế địa bàn kinh doanh từ khu vực ít dân của các bang phía đong nam chuyển sang các trung tâm đô thị đông dân hơn ở phía tây của bờ biển CALIFORNIA.Khu vực Los Angeles/orange county được đánh giá là khu vực mở rộng đầy tiềm năng với dân cư có mức sống cao có thể mang lại lợi ích đáng kể trong việc sử dụng năng lượng mặt trời trong gia đình họ.Một vài khía cạnh của chương trình Marketing đã được định hướng lại để thu hút trực tiếp hơn các khách hàng vùng biển California:bao gồm việc thay đổi khẩu hiệu của các nhà máy trở thành “ bắt kịp ánh sáng.Đó là con đường của California’’ khẩu hiệu này đã chứng tỏ sự thành công và các công ty tiếp tục được mở rộng.

Vào khoảng 1986, các thành viên của thế hệ tiếp theo đã bắt đầu đạt được những ảnh hưởng và quyền lực tích cực trong công ty.Tuy nhiên những ảnh hưởng của họ cho phép họ hiểu biết thêm cả về lĩnh vực du lịch và giáo dục ở nước ngoài.Kết quả là họ có ý định mở rộng hơn nữa khẩu hiệu “đuổi theo mặt trời’’ ở những phạm vi mà thế hệ trước chưa từng mơ ước đến.Họ đã tranh luận rằng ARIZONA SUNRAY nên mở rộng lĩnh vực hoạt động ra toàn bộ Pacific Rim, đang nắm giữ những lợi thế đáng kể của công nghệ kĩ thuật mới trong thế giới vi mô để đáp ứng đưọc hàng loạt các yêu cầu về năng lượng mặt trời-từ máy tính sử dụng năng lượng mặt trời đến nồi cơm điện sử dụng năng lượng mặt trời-cho phép ARIZONA lấy lại ttên là Pacific Sunray.Để nắm giữ lợi thế tối đa của cả những cơ hội hiện nay và những kế hoạch dài hạn cho việc mở rộng này.

Các thành viên còn lại của thếhệ thành lập công ty đã phản dối kịch liệt ý định này, từ chối xem xét các ý tưởng cấp tiến. “Tại sao lại phiền toái như vậy” chủ tịch đầu tiên của công ty đã đặt ra câu hỏi “chúng ta đang kiểm soát thị trường Mỹ,chúng ta biết sản phẩm của mình,biết khách hàng, biết những người miền tây.Đây là một thị trường lớn.Chúng ta đang thu được lợi nhuận kếch xù.Tất cả các thành viên và các công nhân trong công ty đều đang làm việc tốt.Tại sao chúng ta lại muốn phung phí những đòng vốn vào việc Marketing ở những khu vực mà chúng ta chẳng biết gì cả.Thị trường Mỹ đang đem lại lợi nhuận lớn cho chúng ta, tại sao chúng ta lại phải tìm kiếm ở nước ngoài?.

Các thành viên của cả ba thế hệ đều đang tranh luận về vấn đề này.Mặc dù hiện nay thế hệ đầu tiên đã về hưu nhưng vẫn có ảnh hưởng đáng kể.Mặc dù thế hệ trẻ nhất vẫn còn thiếu quyền lực, nhưng họ lại nắm giữ tiền đồ sáng lạng và rộng lớn hơn.Thế hệ thứ hai mặc dù có quyền đưa ra những quyết định quan trọng, nhưng họ phải dung hoà cả hai trường phai trên và cân nhắc liệu nó có thoả mãn cả hai trường phaí trên không.

Một phương châm của người chủ gia đình là không bao giờ tìm cách tự làm những cái mà tốn nhiều chi phí hơn là mua. Người thợ may thì không tự đóng giày cho mình mà mua chúng từ những người thợ đóng giày “.

(Adam Smith)

2. Các học thuyết thương mại và sự phát triển kinh tế.

Minh hoạ Marketing : Nhật Bản _ Thương mại là sự sống còn.

Là một trong những nước gần như không có gì về tài nguyên khoáng sản . Nhật Bản là nước nhập khẩu tài nguyên khoáng sản lớn nhất thế giới . Nước Nhật nhập khẩu chiếm 1/ 4 tổng sản lượng nguyên vật liệu thô xuất khẩu của thế giới .(*) Hầu hết là nhập khẩu toàn bộ dầu mỏ , quặng kim loại , quặng kim loại , quặng bôxit, niken, cotton và cao su tự nhiên . Ngoài ra Nhật Bản còn nhập khẩu chiếm 92% đồng , 85% than cốc , 40% cá và 30% nông sản trong tổng khối lượng trong nước .

Nhật Bản còn là nước xuất khẩu máy móc và tư bản lớn nhất thế giới . Vì đất nước có rất ít nguồn tài nguyên thiên nhiên nên nó trở nên cần thiết cho Nhật Bản để trở thành một nước chuyên xử lý nguyên liệu , sau đó tạo ra hàng hoá đã tăng thêm về giá trị để xuất khẩu. Một khi được biết đến một cách rộng rãi về sản phẩm kém chất lượng , Nhật Bản sẽ có thể xoá đi hình ảnh về sản phẩm vốn có chất lượng và giá trị cao.

Mặc dù chi phí lao động rẻ đã tạo ra cho Nhật Bản một sức mạnh để cạnh tranh với các nước công nghiệp , nhưng lợi thế cạnh tranh này bị phần nào mất đi do các quốc gia mới nổi lên với lao động rẻ hơn đã trở thành các đối thủ cạnh tranh trong việc sản xuất các sản phẩm có hàm lượng lao động cao. Nhận thấy rằng lợi thế cạnh tranh này ngày một mất đi , Nhật Bản đang chuyển sang lợi thế so sánh tương đối liên quan đến các mẫu mã mới dựa trên các yêu cầu về đầu vào sản phẩm khác nhau . Nó đã chuyển từ việc sản xuất các sản phẩm chủ yếu sang các sản phẩm tinh vi , phức tạp hơn , có hàm lượng kĩ thuật cao hơn hay thời trang hơn. Giá trị thặng dư cộng thêm vào cũng với những sản phẩm như vậy sẽ cho phép Nhật Bản luôn đứng ở vị trí đầu bảng ở các nước như Singapore, Hongkong, Đailoan và Hàn Quốc.

(*): “ Tính đa quốc gia của Nhật Bản” – Tạp chí “ Business Week” 16/6/1980.

Trường hợp Nhật Bản cho thấy rõ sự cần thiết của thương mại , Nhật Bản phải nhập khẩu để tồn tại và nó cũng phải nhập khẩu để tạo ra ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của nó . Nhu cầu nhập khẩu và xuất khẩu là tất nhiên , nhưng không rõ ràng rằng cần thiết các nước khác cũng phải như vậy. Ví dụ như cần phải có một sự giải thích logic đối với một nước có đầy đủ về điều kiện tự nhiên như Mỹ lại vẫn thực hiện buôn bán với các nước khác.

Chương này có nhiệm vụ giải thích các nguyên nhân , cơ sở của buôn bán quốc tế và các nguyên tắc về lợi thế so sánh tuyệt đối và lợi thế so sánh tương đối . Những nguyên tắc này cho biết các quốc gia có thể thu được những gì và thu bằng cách nào từ các quốc gia khác . Tính vững chắc của nguyên tắc này đã được xem xét cũng như những nội dung chính của các nguyên tắc này . Chương này kết thúc với việc đề cập đến vấn đề hội nhập khu vực và những ảnh hưởng của nó đối vơí thương mại thế giới .

Nền tảng của thương mại thế giới

Khi mà người mua và người bán đến với nhau , họ hy vọng sẽ đạt một cái gì đó từ phía người kia . Khi các quốc gia buôn bán với nhau thì họ cũng hy vọng như thế . Một quốc gia rõ ràng là không thể hoàn toàn tự có đầy đủ những thứ cần thiết mà không làm lãng phí chi phí quá mức .

Bởi vậy thương mại là một hoạt động cần thiết mặc dù trong một số trường hợp , thương mại không hoàn toàn tạo ra lợi ích cho các quốc gia có liên quan . Rõ ràng là tất cả các quốc gia đều cảm thấy áp lực chính trị khi họ bị thâm hụt thương mại . Nếu thâm hụt quá lớn thì sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến nền thưong mại mặc dù có thể không biết là những tác hại này có thể nhìn thấy hay không nhìn thấy . Ngược lại những lợi nhuận thương mại hoặc là không thấy rõ hoặc là chúng được chuyển sang cho những người công nhân hay những người tiêu dùng.

Tại sao các quốc gia lại buôn bán với nhau ? Một quốc gia làm ăn buôn bán với các quốc gia khác vì nó hy vọng đạt được cái gì đó từ phía đôí tác làm ăn . Có thể có câu hỏi liệu thương mại có giống như một trò chơi “được ăn cả ngã về không” với nhận thức rằng một nước phải thua lỗ thì nước khác mới có lợi nhuận . Câu trả lời là không phải như vậy vì mặc dù một quốc gia có thể không ngần ngại kiếm lợi nhuận từ sự thua lỗ của nước khác , nhưng không ai lại muốn tham gia vào một thương vụ mà có rủi ro về thua lỗ qúa cao. Như vậy để thương mại được diễn ra cả hai quốc gia phải cùng chia lợi nhuận từ nó . Hay nói cách khác thì “ thương mại là trò chơi tổng các số dương “

Để giải thích làm thế nào để thu lợi nhuận từ thương mại , việc xem xét đường giới hạn khả năng sản xuất của một quốc gia là rất cần thiết . Các lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh ảnh hưởng như thế nào đến các cơ hội thương mại là dựa trên các đường giới hạn khả năng sản suất của các đối tác kinh doanh .

Đường giới hạn khả năng sản xuất



Nếu không có thương mại , một số quốc gia sẽ phải tự sản xuất tất cả những hàng hoá để thoả mãn nhu cầu của quốc gia đó . Hình 2-1 biểu diễn 1 ví dụ giả thuyết về 1 quốc gia với sự xem xét hai sản phẩm máy vi tính và xe ôtô . Hình vẽ này cho ta thấy số lượng máy vi tính và ôtô mà nước đó có khả năng sản xuất . Đường giới hạn khả năng sản xuất cho thấy số lượng lớn nhất khi máy vi tính và ôtô được sản xuất ở những sự phối hợp đầu vào khác nhau khi một sản phẩm có thể được thay thế bằng các sản phẩm khác nhau nằm trong giới hạn nguồn lực hiện có . Quốc gia đó có thể lựa chọn để chuyên môn hoá hay dùng tất cả nguồn lực để sản xuất máy vi tính (điểm A) hoặc sản xuất ôtô (điểm B) . ở điểm C sự chuyên môn hoá sản phẩm đã không được lựa chọn và vì vậy một số lượng hai sản phẩm đã được sản xuất ra .

Hình 2.1: Đường giới hạn khả năng sản xuất với chi phí cơ hội cố định

A
Số máy C

Vi tính


O số xe ôtô B

một loại chi phí liên quan đến sự thay thế một sản phẩm băng sản phẩm khác chi phí thay thế phụ thuộc vào giá trị sản xúât của sản phẩm từ bỏ so với giá trị sản xuất của sản phẩm khác . Hình 2-1 biểu thị tình huống chi phí cơ hội là không đổi . Nước đó thôi sản xuất một máy vi tính để sản xuất một xe ôtô . Trong tình huống này các tình huống là cân xứng giống nhau trong suốt quá trính sản xuất , có ý nghĩa là tỷ lệ trao đổi giữa hai sản phẩm này là không đổi . Nhưng sự giả định này là không thể có vì nhiều lí do .



Số

Hình 2-2: Đường giới hạn khả máy

năng sản xuất với chi phí cơ vi

hội tăng dần tính

số ôtô

Về mặt lý thuyết ,một ngành công nghiệp độc lập ( ví dụ : sản xuất máy tính ) có thể thu được doanh số giảm đi khi nó mở rộng với chi phí sang các ngành công nghiệp khác (ví dụ ; sản xuất ôtô ) . Hơn nữa chi phí cơ hội ngày càng tăng lên vì có thể là mỗi loại hàng hoá thì sử dụng đầu vào sản xuất ở những tỷ lệ khác nhau . Thậm chí nhiều ngành phải chịu chi phí cận biên ngày càng tăng kết quả là số lượng ngày càng nhiều các hàng hoá khác phải bị bỏ đi để sản xuất ra những đơn vị tiếp theo của một hàng hoá nào đó . Điều này có thể giải thích tại sao không quốc gia nào hoàn toàn chuyên môn hoá sản xuât chỉ một loại sản phẩm duy nhất .



Hình 2-2 biểu diễn hình giới hạn khả năng sản xuất khi chi phí cơ hội tăng dần , đường cong cho thấy ngày càng trở nên tốn kém hơn khi thay thế sản xuất một sản phẩm này thay cho một sản phẩm khác . Phần lợi nhuận ngày càng giảm khi số lượng của một sản phẩm giảm đi để tăng số lượng của sản phẩm khác . Hình 2-3 biểu diễn trường hợp ngược lại , chi phí cơ hội giảm dần . Cùng với việc chuyển sản xuất từ một sản phẩm khác sang các sản phẩm khác việc sản xuất ra một sản phẩm thay thế trở nên rẻ hơn khi tăng số lượng sản phẩm thay thế .

Một khả năng khác là chi phí cơ hội sẽ thay đổi khác nhau theo số lượng sản phẩm ; có nghĩa là đối với hai sản phẩm bất kỳ đưa ra , chi phí cơ hội có thể tăng hoặc giảm khi mức sản xuất kế tiếp đạt được . Ví dụ chi phí cận biên ban đầu có thể giảm do chuyên môn hoá và sản xuất ở quymô lớn . Nhưng đến một điểm nhất định , việc sản xuất tiếp tục sẽ có thể gây nên tình trạng không hiệu quả và chi phí cận biên sẽ lại bắt đầu tăng lên .

Vì môĩ quốc gia có một nguồn tài nguyên duy nhất nên chúng sở hữu một nguồn giới hạn khả năng sản xuất duy nhất . Khi phân tích đường cong này sẽ đem lại một lời giải thích lôgíc bản chất của thương mại quốc tế . Bất kể chi phí cơ hội là cố định hay biến đổi , một quốc gia phải quyết định sự kết hợp lý giữa hai loại sản phẩm bất kỳ và phải quyết định liệu quốc gia đó có muốn chuyên môn hoá một trong hai sản phẩm không . Sự chuyên môn hoá sẽ có thể xảy ra nếu nó không cho phép quốc gia đó tăng lượng của cải qua việc trao đổi buôn bán với các quốc gia khác . Nguyên tắc lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh tương đối có thể giải thích làm thế nào đường giới hạn khả năng sản xuất lại có thể giúp cho một nước quyết định nên xuất nhập khẩu những gì .




Số

Máy


Vi

tính

số ôtô


Hình 2-3: Đường giới hạn khả năng sản xuất :chi phí cơ hội giảm dần .

Nguyên tắc lợi thế tuyệt đối :

Ađam Smith là học giả đầu tiên xem xét một cách chính thức nguyên nhân cơ bản hình thành ngoại thương . Trong cuốn sách của ông “Sự giàu có của các quốc gia ”(1776)(Wealth of Nations), Smith đã sử dụng nguyên tắc lợi thế tuyệt đối như là một căn cứ , một cơ sở cho thương mại quốc tế . Theo nguyên tắc này , một nước nên xuất khẩu một hàng hoá mà nó sản xuất ở chi phí thấp hơn các quốc gia khác . Trái lại , quốc gia đó nên nhập khẩu hàng hoá mà trong nước sản xuất với chi phí cao hơn các quốc gia khác .

Lấy ví dụ hai nước , mỗi nước sản xuất hai sản phẩm . Bảng 2-1 cung cấp những số liệu giả thuyết về sản lượng của Mỹ và Nhật về hai loại sản phẩm máy vi tính và xe hơi . Trường hợp 1 cho thấy rằng khi dưa nguồn lực và lao động nhất định , Mỹ có thể sản xuất 20 máy vi tính hoặc 10 xe hơi hoặc một số sự kết hợp cả hai loại . Trái lại , Nhật thì chỉ có thể sản xuất được một nửa số máy vi tính (Ví dụ : Nhật sản xuất được 10 chiếc trong khi Mỹ sản xuất được 20 chiếc ). Sự khác biệt này có thể là do trình độ công nhân Mỹ làm ra sản phẩm này tốt hơn . Do vậy Mỹ có lợi thế tuyệt đối về sản xuất máy vi tính . Nhưng tình huống này đặt ra đối với xe hơi thì Mỹ chỉ sản xuất được ra 10 chiếc trong khi Nhật sản xuất được ra 20 chiếc với cùng đơn vị nguồn lực . Lúc này Nhật lại có lợi thế tuyệt đối .

Trong trường hợp này thì thương mại diễn ra giữa hai nước là rất hợp lý . Mỹ có lợi thế tuyệt đối về máy vi tính nhưng không có lợi thế tuyệt đối về xe hơi . Đối với Nhật thì ngược lại , Nhật chỉ có lợi thế tuyệt đối về sản xuất xe hơi và không có lợi thế về sản xuất máy vi tính. Nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào sản xuất sản phẩm mà nó có lợi thế tuyệt đối thì sẽ sử dụng nguồn lực có kiệu quả hơn . Khi đó lợi ích khách hàng sẽ tăng lên . Khi Mỹ sẽ sử dụng ít nguồn lực hơn để sản xuất máy vi tính , nó nên sản xuất sản phẩm này để tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu sang Nhật . Cũng với lí do này Mỹ nên nhập khẩu xe hơi từ Nhật hơn là từ sản xuất trong nước . Tất nhiên , đối với Nhật Bản nên xuất khẩu xe hơi và nhập khẩu máy tính .

Bảng 2-1 : Sản lượng vật chất có thể sản xuất.



Sản phẩm Mỹ Nhật

Trường hợp 1 Máy vi tính 20 10

Ôtô 10 20

Trường hợp 2 Máy vi tính 20 10

Ôtô 30 20

Trường hợp 3 Máy vi tính 30 10

Ôtô 40


Một số ví dụ tương tự có thể giúp cho thấy giá trị của nguyên tắc lợi thế tuyệt đối . Một bác sĩ thì hoàn toàn thực hiện phẫu thuật tốt hơn là một thợ máy , trong khi thợ máy sẽ sửa xe tốt hơn . sẽ là khó khăn nếu như vị bác sĩ chữa bệnh cũng như sửa xe khi cần đến . Cũng sẽ rất khó khăn nếu có trường hợp nào đó người thợ máy cố gắng thực hiện phẫu thuật . Vì vậy trên thực tế thì mỗi người nên tập trung chuyên môn hoá vào một nghè mà người đó có chuyên môn . Tương tự , sẽ là không thực tế nếu người tiêu dùng cố gắng sản xuất tất cả những thứ họ muốn tiêu dùng . Mỗi người nên làm cái mà họ làm tốt nhất và để lại việc sản xuất những thứ khác cho những người mà họ sản xuất tốt hơn .

Nguyên tắc lợi thế so sánh tương đối

Một vấn đề của nguyên tắc lợi thế tuyệt đối là nó không thể giải thích liệu thương mại có diễn ra khi một nước hoàn có lợi thế tuyệt đối với toàn bộ sản phẩm xem xét . Trường hợp 2 của bảng 2-1 biểu thị tình huống này . Chú ý thấy rằng trường hợp 2 khác trường hợp 1 là Mỹ ở trường hợp 2 có thể làm ra 30 chiếc ôtô chứ không phải 10 chiếc như ở trường hợp 1 . Trong trường hợp 2 này , nước Mỹ đều có giá trị tuyệt đối với cả hai sản phẩm . Do sản xuất có hiệu quả cho phép nước Mỹ có thể sản xuất cả hai sản phẩm với chi phí thấp hơn .

Với cách nhìn nhận đầu tiên thì có vẻ như là nước Mỹ sẽ không thu được gì nếu buôn bán với Nhật . Nhưng vào thế kỉ XIX nhà kinh tế học người Anh David Ricardo , có lẽ là người đầu tiên đánh giá một cách đầy đủ các chi phí so sánh tương đối như là một nền tảng của thương mại , ông cho rằng các chi phí sản xuất tuyệt đối là không liên quan . Mà chính là chi phí sản xuất so sánh tương đối sẽ quyết định thương mại sẽ diễn ra như thế nào và những mặt hàng nên xuất khẩu hay nên nhập khẩu . Theo nguyên tắc lợi thế so sánh của Ricardo thì một nước cóthể sản xuất nhiều loại sản phẩm tốt hơn so với các nước khác nhưng chỉ nên sản xuất những gì mà nó sản xuất có hiệu quả nhất . Thực chất nước đó nên tập trung sản xuất sản phẩm bất lợi về so sánh là ít nhất . Ngược lại nên nhập khẩu sản phẩm có lợi thế so sánh ít nhất hay bất lợi về so sánh cao nhất .

Trường hợp 2 cho thấy lợi thế so sánh khác nhau như thế nào từ sản phẩm này đến sản phẩm khác . Phạm vi lợi thế so sánh có thể tìm thấy dựa trên sự xác định tỉ số giữa máy vi tính và xe hơi . Tỉ lệ lợi thế của máy tính là 2: 1 (20: 10) nghiêng về phía nước Mỹ . Cũng lợi thế nghiêng về phía nước Mỹ nhưng ở mức độ ít hơn là tỉ lệ về xe hơi 1,5:1 (30: 10) . Hai tỉ lệ này cho thấy nước Mỹ có lợi hơn Nhật 100% về sản xuất máy tính và chỉ vượt 80% lợi thế về sản xuất ôtô . Kết quả là nước Mỹ thì có lợi thế so sánh lớn hơn đối với sản phẩm máy tính .

Đối với Nhật Bản việc có bất lợi về so sánh thấp nhất trong sản xuất ôtô cho thấy rằng nước này nên sản xuất và xuất khẩu ôtô sang Mỹ . Xem xét lại hai ví dụ về bác sĩ và người thợ máy . Người bác sĩ có thể tự sửa ôtô như một sở thích thậm chí có thể ( nhưng khó có thể xảy ra ) là người bác sĩ có thể sửa nhanh hơn người thợ máy trong trường hợp này thì vị bác sĩ có lợi thế so sánh tuyệt đối trong cả việc chữa bệnh và sửa xe , trong khi người thợ máy không có lợi thế tuyệt đối trong cả hai việc này . Nhưng điều này không có nghĩa là tốt hơn nếu vị bác sĩ vừa thực hiện phẫu thuật vừa sản xuất ôtô do có các lợi thế liên quan . Khi so sánh với người thợ máy thì người bác sĩ có thể khá hơn nhiều hơn nhiều khi chữa bệnh nhưng chỉ nhỉnh hơn một chút trong việc sửa xe . Nếu lợi thế lớn nhất của vị bác sĩ là việc chữa bệnh thì người bác sĩ đó nên tập trung vào chuyên môn đó . Và khi người bác sĩ có vấn đề về xe cộ thì nên nhờ người thợ máy sửa vì người bác sĩ có lợi thế tương đối rất ít trong lĩnh vực này . Với việc đưa cho người thợ máy sửa xe thì người bác sĩ sẽ sử dụng thời gian hiệu quả hơn , năng suất hơn và thu nhập sẽ lớn nhất .

Tương tự một người giám đốc cần phải bổ quyền hạn và trách nhiệm cho người dưới quyền mặc dù ông ta biết rõ về tất cả các lĩnh vực của công việc hơn họ . Từ khi chức năng của người giám đốc là quản lí thì không có lí gì người giám đốc lại tiết kiệm những khoản chi phí nhỏ nhặt bằng cách thực hiện các công viêc văn phòng do có kiến thức nổi trội về những công việc này . Nguyên tắc tương tự cũng được áp dụng đối với những người tiêu dùng .. Mặc dù họ có thể tự sửa xe hay thay dầu mỡ một cách dễ dàng nhưng những trung tâm sửa xe hay gara bão dưỡng vẫn làm ăn phát đạt vì người tiêu dùng cho rằng thời gian rỗi của họ còn quý hơn khoản tiền tiết kiệm được từ việc sửa xe hay bảo dưỡng xe . Họ thà trả tiền thuê ai đó thực hiện những công việc kia để họ có thể tận hưởng khoảng thời gian đó .

Tỷ lệ trao đổi , buôn bán và lợi nhuận.

Học thuyết về vốn cung cấp

Mấy lời bình về các học thuyết thương mại

Liên kết kinh tế

Do sự thúc ép từ các phía, chính sách bảo hộ trên khó có thể tồn tại. Các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia buộc phải thay đổi chính sách mới để áp dụng vào thực tế trong thương mại quốc tế. Tự do hoá thơng mại toàn cầu là một ý tởng tốt nhng khó có thể trở thành hiện thực. Học thuyết cho chính sách kinh tế mới này cho rằng chính sách tốt nhất là hình thành các liên kết kinh tế ở qui mô nhỏ. Nhiều quốc gia ở cùng một khu vực địa lý có thể cùng tham gia vào các loại hình liên kết kinh tế khác nhau để đẩy mạnh ngoại thơng và giảm bớt rào cản. Những liên kết lớn đợc liệt kê trong Bảng 2 -7.

Các nhà kinh tế đã xác định 5 loại liên kết kinh tế lớn. Đó là Khu vực mậu dịch tự do, Liên minh thuế quan, Thị trờng chung, Liên minh kinh tế và Liên minh chính trị. Bảng 2-6 so sánh các hình thức liên minh này.

Khu vực mậu dịch tự do, đây là một liên minh kinh tế giữa hai hay nhiều nớc nhằm mục đích tự do hoá buôn bán, biện pháp sử dụng là bãi miễn thuế giữa các nớc thành viên, trong khi đó mỗi nớc thành viên vẫn có biểu thuế nhập riêng áp dụng với các nớc ngoài liên minh. Một số liên minh thuộc hình thức này nh EFTA ( Khu vực mậu dịch tự do Châu Âu), LAFTA (Khu vực mậu dịch tự do Châu mĩ la tinh). Nhợc điểm của mô hình này là thiếu sự hợp tác giữa các nớc thành viên trong việc xác định mức thuế nhập khẩu cho các nớc nằm ngoài liên minh, tạo điều kiện cho các nớc này có thể xuất khẩu hàng hoá vào khu vực mậu dịch tự do thông qua nớc có mức thuế nhập khẩu thấp nhất.

Liên minh thuế quan là một hình thức mở rộng hơn so với khu vực mậudịch tự do trong đó các nớc thành viên cùng thiết lập một biểu thuế quan chung với phần còn lại của thế giới. Ưu điểm của mô hình này đồng đều các quy định thơng mại và tạo nên một rào cản chung với các nớc không phải là thành viên. Liên minh thuế quan Benelux là liên minh cổ nhất thuộc hình thức này trên thế giới.

Thị trờng chung là một hình thức liên minh phức tạp và ở trình độ cao hơn cả Liên minh thuế quan và Khu vực mậu dịch tự do. Trong Thi trờng chung, các nớc thành viên bãi bỏ mọi thuế quan và biện pháp bảo hộ khác bên cạnh đó cho phép di chuyển các nhân tố của sản xuất nh dịch vụ, nguyên liệu, lao động và vốn trong liên minh. Do đó, luật pháp và luật lao động đợc tiêu chuẩn hoá để đảm bảo cạnh tranh bình đẳng. Đối với các nớc không phải thành viên thì mức thuế nhập khẩu se ngay lập tức đợc xác định nh mức thuế của các nớc thành viên, để xâm nhập Thị trờng chung cần lu ý tới rào cản phi thuế quan. Thông thờng nhà xuất khẩu từ bên ngoài sẽ xuất khẩu vào nớc có rào cản phi thuế quan thấp nhất vì hàng hoá có thể di chuyển tự do một khi nó đã vào đến Thị trờng chung. Một ví dụ điển hình cho hình thức này là Thị trờng chung Châu Âu đợc hình thành năm 1957 theo Hiệp ớc Rome ban đầu gồm 6 thành viên. Bảng 2-8 liệt kê những mốc sự kiện quan trọng của EC, bảng 2-9 so sánh Châu Âu với các nền kinh tế khác.

Sự liên kết giữa các nớc còn tăng thêm với hình thức Liên minh kinh tế vì nó thực hiện hài hoà chính sách tài chính, tiền tệ giữa các nớc thành viên. Nếu coi mỗi bang của Mĩ là một nớc độc lập thì Liên bang Mĩ là một ví dụ gần gũi nhất của Liên minh kinh tế.

Liên minh chính trị là hình thức cuối cùng của Liên minh kinh tế vì kinh tế và chính trị luôn gắn liền với nhau. Hiệp ớc liên kết giữa các quốc gia bắt đầu việc xác định một chính sách kinh tế và chính trị chung cho liên minh. Cộng đồng chung Châu Âu EC đang đi theo hớng này, điều đó lý giải vì sao nó đổi tên thành Cộng đồng kinh tế Châu Âu EEC.COMECON hay CMEA (Hội đồng tơng trợ kinh tế) gồm Liên bang Xô viết và các nớc Đông Âu, về cơ bản là một liên minh thuế quan nhng nó có thể trở thành Liên minh chính trị nếu Xô viết không tan rã.

Các liên minh kinh tế theo khu vực không phải lúc nào cũng nhất thiết thuộc 1 trong 5 loại này. ASEAN bao gồm hơn 250 triệu dân nằm trong khu vực có tốc độ tăng trởng cao nhất thế giới....


Bảng 2-8: Những mốc sự kiện quan trọng của Cộng đồng chung Châu Âu
Năm 1950, Ngoại trởng Pháp, ngài Robert Schuman, đề xuất mô hình Cộng đồng Châu Âu đầu tiên (giải quyết các vấn đề than, thép) vào ngày 9 tháng 5. Ngày này đợc coi là ngày khai sinh chính thức của EU.

Năm 1951, Hiệp ớc Pari đợc kí kết ngày 18 tháng 4 thiết lập nên Cộng đồng than thép Châu Âu.

Năm 1957, Kí kết Hiệp ớc Rome ngày 25 tháng 3 thiết lập Cộng đồng năng lợng nguyên tử Châu Âu và Thị trờng chung Châu Âu.

Năm 1958, thành lập các uỷ ban và hội đồng quản lý thị trờng chung Châu Âu.

Năm 1961, cùng với Hy lạp kí kết hiệp định liên kết.

Năm 1962, ra đời chính sách nông nghiệp chung dựa trên từng thị trờng và mức giá chung cho các sản phẩm nông nghiệp.

Năm 1964, thiết lập thị trờng nông nghiệp chung và hỗ trợ các tổ chức marketing, thống nhất giá ngũ cốc có hiệu lực vào năm 1967.

Năm 1967, Hiệp ớc về một Cộng đồng chung Châu Âu và một hội đồng chung Châu Âu có hiệu lực.

Năm 1972, để kiểm soát biến động tỉ giá trao đổi lộn xộn tại các nớc thành viên, Uỷ ban Châu Âu đề ra pham vi biến động 2,25% để duy trì giá trị các đồng tiền một cách tơng đối.

Năm 1973, sát nhập thêm Đan Mạch, Ai-len và Anh nâng số thành viên của EC lên chín,

Năm 1974, thành lập Hôi đồng Châu Âu, quyết định bầu cử Nghị viện bằng bầu cử trực tiếp, phổ thông.

Năm 1975, EU kí kết Hiệp định Lome vói 46 nớc Châu phi, vùng biển Carlbean, Thái Bình Dơng để tăng cờng liên kết thơng mại bằng cách cho các này tự do tiếp cận thị trờng của EU và giành đảm bảo ổn định cho 36 mặt hàng từ các quốc gia này.

Năm 1979, Hội đồng Châu Âu nhóm họp ngày 9 & 10 tháng 3 quyết định đa Hệ thống tiền tệ Châu Âu vào hoạt động.

Năm 1981, Hy Lạp trở thành thành viên thứ 10 của EU.

Năm 1984, Hiệp định Lome III đợc kí kết với 65 nớc ngoài EU tham gia.

Năm 1986, kết nạp thêm Bồ Đào Nha và Tây Ba Nha.

Bảng 2-6: Một sản phẩm tạo nên đợc sự khác biệt
Hỗ trợ tại đờng của Mercedes-Benz: hãy uỷ thác cho một dịch vụ hỗ trợ cha từng xuất hiện trong thế giới ô tô.

Dịch vụ dành cho ô tô đã tiến những bớc đi kì diệu. Chúng tôi xin giới thiệu chơng trình hỗ trợ tại đờng trên toàn quốc đầu tiên cha từng đợc cung cấp bởi bất kỳ một nhà sản xuất ô tô nào khác.

Hỗ trợ tại đờng Mercedes-Benz: gồm một đờng dây nóng trên toàn quốc do các chuyên gia của Mercedes-Benz đảm nhiệm; phụ tùng thay thế miễn phí dành cho chủ nhân của xe Mercedes-Benz.

Sự hỗ trợ này không chỉ là theo qui tắc, nó đợc cung cấp cả ngày lẫn đêm, cuối tuần cũng nh ngày lễ và chỉ bởi Mercedes-Benz.

Nếu chiếc Mercedes của bạn cần dịch vụ hỗ trợ trên bất cứ con đờng nào tại Mĩ. Dịch vụ hỗ trợ tại đờng của Mercedes-Benz luôn sẵn sàng từ 5 giờ sáng cho tới nửa đêm từ thứ 2 đến thứ 6; vào ngày lễ, thứ 7, chủ nhật từ 8 giờ sáng tới 12 giờ đêm. Một đờng điện thoại miễn phí gồm 800 máy sẽ nối bạn với một cố vấn kĩ thuật của Mercedes, ngời qua điện thoại sẽ hớng dẫn bạn để bạn có thể tiếp tục hành trình. Nếu xe của bạn cần sự quan tâm đặc biệt hơn thì một trạm thay thế phụ tùng lưu động do các kĩ sư có tay nghề đảm nhận đến từ một trung tâm điều hành của Mercedes.

Để nhanh chóng có được sự trợ giúp từ chuyên gia, bạn chỉ cần gọi một cú điện thoại miễn phí.

Trên đường cao tốc hay các con đờng phụ, vào đêm tối khi trời ma, khi ngời thân bạn đang ngồi sau tay lái, chúng tôi luôn sẵn sàng phục vụ. Có thể bạn không bao giờ cần đến nhưng bạn biết rằng luôn có chúng tôi. 800 đường điện thoại với đầy đủ thông tin luôn sẵn sàng khi bạn sở hữu một chiếc ô tô Mercedes.

Dịch vụ hỗ trợ tại đờng đã hoạt động hoàn hảo hơn 1 năm qua tại Nam Cali và miền Bắc (những ngời dân ở Califoria và miền Bắcxin lu ý đã có số điện thoại dịch vụ hỗ trợ tại đờng mới cho toàn quốc).

Hàng loạt các biện pháp hỗ trợ

Thật tuyệt diệu khi biết rằng Hỗ trợ tại đường chỉ là một trong các chương trình trợ giúp của Mercedes-Benz, hãng Mercedes đã biến mỗi cá nhân thành một người trợ giúp của khách hàng: ngời bán, quản lý, nhân viên kỹ thuật.

Không cần nói thêm lời nhưng cùng với nó là cả một đội ngũ nhân viên luôn sẵn sàng phục vụ.

Nó không hoàn toàn là một hiệp hội tự do thương mại bởi vì thuế quan giữa các thành viên chỉ được cắt giảm mà không phải là loại bỏ hoàn toàn. Nó giống như một hiệp hội kinh tế do các quốc gia thành viên thoả thuận hạn ngạch sản xuất cho những hàng hoá nhất định. Ngoài ra, ASEAN còn nhằm những mục tiêu kinh tế vì tất cả các thành viên đều mang đặc trưng là những nền kinh tế định hướng thị trường và chống lại sự công kích chủ nghĩa cộng sản Việt Nam trong khu vực.

Người ta nghi ngờ về những hình thức hội nhập kinh tế và hiệp hội chính trị thuần tuý có thể trở thành hiện thực. Ngay cả khi nó xảy ra thì cũng không thể kéo dài lâu bởi vì cuối cùng thì các quốc gia khác nhau đều có những mục tiêu và tỉ lệ lạm phát khác nhau. Quan trọng hơn là không một quốc gia nào sẵn sàng từ bỏ chủ quyền quốc gia vì những lí do kinh tế. Khối EC, mặc dù đã có những bước tiến lớn, cũng đã gặp rắc rối do sự đối đầu giữa các quốc gia thành viên về vấn đề lợi ích quốc gia đối lập nhau.Trên cơ sở nhận thức của các thành viên EC về mức độ hợp tác và hội nhập lí tưởng, người ta thấy rằng có hai tư tưởng chính: tư tưởng của những người theo phe đa số và tư tưởng của những người theo phe thiểu số. Phe đa số bao gồm the Benelux staes, Italia, isrent, muốn cải cách ở mức tối đa. Phe thiểu số bao gồm Pháp, Tây Đức, Vương quốc Anh, là những quốc gia miễn cưỡng thực hiện những hi sinh cần thiết để đạt được mức độ hội nhập cao. Trong bất kỳ đề xuất chung nào, việc các quốc gia thành viên đều có quyền phủ quyết theo đó cần thiết phải có sự nhất trí hoàn toàn chứ không phải đa số phiếu trong quá trình ra quyết định đã làm cho vấn đề trở nên phức tạp. Vì luật lệ của EC đòi hỏi các quốc gia thành viên tham gia các cuộc thảo luận thương mại như một nhóm nên bất kỳ thành viên nào cũng có thể gây trở ngại cho việc đàm phán với các quốc gia không phải là thành viên.

Liên bang Xô viết là một minh chứng khác cho những khó khăn trong việc hình thành một hiệp hội kinh tế hay chính trị thuần tuý. Theo đuổi mục tiêu chính trị của mình, U.S.S.R mong muốn mở rộng CMEA theo hướng hội nhập kinh tế và chính trị trong khi vẫn hạn chế thương mại của khối với phương Tây. Đường lối này đòi hỏi thương mại và việc định kế hoạch kinh tế được thống nhất hơn nữa nhằm phân chia thị trường phía Đông theo các ngành kinh tế. Mặc dù liên bang Sô viết thống trị khối liên minh phía Đông, nó vẫn vấp phải khó khăn trong việc buộc các quốc gia thành viên chấp nhận các quyết định thương mại và kinh tế của khối hay những khó khăn trong việc tạo ra một chính quyền siêu quốc gia nhằm quyết định quốc gia nào sản xuất cáI gì, thương mại được tiến hành ở đâu và các nhà máy sẽ được xây dựng ở đâu?

Người nghiên cứu thị trường phải chú ý đến những ảnh hưởng của hội nhập hay hợp tác kinh tế khu vực bởi vì môi trường cạnh tranh có thể thay đổi mạnh mẽ theo thời gian. Ngay từ khi bắt đầu, các chính sách thương mại mới nói chung phải có xu hướng ưu đãi các hãng kinh doanh trong nước.Thí dụ IBM đã phảI đối mặt với những vấn đề nảy sinh ở châu Âu là nơi mà các thành viên EC đã muốn bảo hộ công nghiệp máy tính của mình. Mặt khác, các hãng bên ngoàI có thể giành được lợi thế từ tình hình trên để vượt qua những rào cản mà một thành viên nhất định trong khối hợp tác kinh tế khu vực dựng nên. Trước thủ tục tiếp nhận phiền hà của Pháp, trước hết Nhật bản có thể chuyên chở VCRs đến Tây Đức trước khi vận chuyển tự do đến Pháp.

Vì môi trường kinh tế ưu đãi trong khu vực hợp tác mà các hãng gia tăng mong muốn môi trường đầu vào và môi trường cạnh tranh được tăng cường hơn nữa. Dường như là các hãng trong khu vực có khả năng cạnh tranh mạnh hơn nhờ có việc mở rộng thị trường trong nước, đưa đến kết quả là những nền kinh tế tốt hơn về qui mô. Các hãng ngoài khu vực đang phải đối mặt với việc vượt qua các rào cản thương mại, có thể thông qua việc hình thành những điều kiện sản xuất dễ dàng trong khu vực. Thí dụ isarent đã cố gắng thu hút đầu tư nước ngoài bằng cách đề cập đến việc nó là một thành viên của EC trong các chương trình quảng cáo. Hãng Nike của Mĩ đã có thể tránh được hàng rào thuế quan của EC bằng cách mở một nhà máy sản xuất ở isarent. Những nhãn mác nước ngoài mà không được hưởng những điều kiện sản xuất dễ dàng đều đã nhanh chóng nhận ra rằng sản phẩm của họ quá đắt ở EC.

Theo thời gian, khu vực sẽ tăng trưởng ngày càng nhanh nhờ những ảnh hưởng thương mại , những chính sách ưu đãi, và môi trường cạnh tranh đã tạo ra nhiều kích thích cho nền kinh tế. Tuy nhiên hợp tác kinh tế có thể đem đến thách thức cũng như cơ hội trong thị trường quốc tế. Thị trường được mở rộng mở ra nhiều tiềm năng có lợi hơn nhưng nó cũng có thể tạo ra một cảm giác về sự thông đồng (câu kết) khi các chi nhánh hay những người được cấp giấy phép được hưởng độc quyền trong những quốc gia thành viên nhất định. Kết quả dàI hạn có thể là sự chống độc quyền khu vực trong số các hãng mới hay những quốc gia không phảI là thành viên mong muốn thương mại trong phạm vi khu vực hội nhập một cách kinh tế.

Hợp tác kinh tế hoặc thúc đẩy hoặc cản trở thương mại quốc tế, tuỳ thuộc vào kết quả hợp tác đựoc nhìn nhận như thế nào? Đối với trường hợp hình thành của EC, người ta nhận thấy một sự gia tăng đáng kể trong số lường và tầm quan trọng tương đối của thương mại trong các ngành kinh tế giữa tất cả các đối tác hơn là sự gia tăng chuyên môn hoá giữa các lĩnh vực công nghiệp.Chiều hướng trên có ảnh hưởng đến mỗi thành viên của nhóm kinh tế trong việc thay đổi từ người cung cấp có hiệu quả nhất trên thế giới cho đến người cung cấp yếu nhất trong một khu vực kinh tế đặc biệt. Tây Ban Nha vào lúc gia nhập EC buộc phảI tăng thuế quan từ 20 lên 150 % đối với thóc lúa cho gia súc được trồng ngoài khu vực kinh tế. Kết quả là hành động trên đã đình chỉ việc nhập khẩu của Tây ban nha đối với ngô và lúa miến từ Mĩ.Do đó, và ảnh hưởng thực có thể là tích cực hoặc tiêu cực.

Liệu hợp tác kinh tế có thể thúc đẩy toàn bộ môI trường thế giới vẫn còn là vấn đề phải bàn cãi. Một mặt, thương mại giữa các quốc gia thành viên tiến hành tự do hơn. Mặt khác, thương mại giữa những quốc gia trong và ngoài khu vực càng hạn chế hơn do các nước bên ngoài nhận thấy khó khăn hơn trong việc thâm nhập khu vực thương mại vì những rào cản thương mại. Nói tóm lại, người ta xem hợp tác khu vực như một dấu hiệu đầy hy vọng vào những khuyến khích thương mại mạnh mẽ hơn nữa sẽ được thực hiện trên toàn thế giới.

Việc lập kế hoạch một cách có hệ thống nhằm xác định những cơ hội xuất khẩu

Do sự hạn chế trong những học thuyết thương mại mà một học thuyết thường được xem như một cơ cấu tổ chức rõ ràng mà đơn thuần vạch ra thương mại trong những hoàn cảnh lí tưởng. Vì những học thuyết thương mại rất có ích cho những người nghiên cứu các cơ hội xuất khẩu nên các cơ cấu tổ chức phải được điều chỉnh nhằm lưu tâm hơn nữa đến những thay đổi trong việc thực hiện một cách rành mạch hơn.

Một bước khởi đầu tốt đẹp cho việc xác định các cơ hội xuất khẩu là việc nhận biết những hàng rào xuất khẩu. áp dụng phép phân tích, Bauerchmidr, Sullivan, và Gillespie đã nhận ra 5 nhân tố đi kèm với các rào cản thương mại, giống quan điểm của những uỷ viên ngành công nghiệp giấy của Mĩ. Đó là chính sách xuất khẩu quốc gia, khoảng cách thị trường cạnh tranh, sự thiếu vắng những cam kết trên lĩnh vực xuất khẩu, sự thúc ép về kinh tế từ phía ngoài (thí dụ như gía trị đồng đô la cao, chi phí vận chuyển cao…) và sự cạnh tranh mạnh mẽ. Bảng 2-7 cho thấy cách thức đối phó lại mỗi dạng của rào cản xuất khẩu. Các hãng của Mĩ ít nhất cũng quan tâm đến môi trường cạnh tranh. Việc các hãng đó đánh giá cao tầm quan trọng của nhân tố về sự thúc ép kinh tế ngoại sinh dường như hàm ý họ tin tưởng rằng họ không thể làm gì nhiều để tác động đến hoạt động xuất khẩu. Cũng không đáng ngạc nhiên khi thấy rằng đang thiếu vắng những cam kết trong hoạt động xuất khẩu.

Một kế hoạch có hệ thống sẽ cung cấp một cách tiếp cận thực tế cho việc đánh giá những cơ hội xuất khẩu đối với nhiều sản phẩm. Một kế hoạch như vậy sẽ đặc biệt có ích cho những quốc gia và những công ty với nhiều chủng loại sản phẩm ( thí dụ các công ty kinh doanh xuất khẩu va những tập đoàn đa quốc gia lớn). Một kế hoạch có hệ thống cũng rất hữu dụng cho các công ty nhỏ hơn trong việc nghiên cứu tính khả thi của việc xuất khẩu những sản phẩm của mình.

Nghiên cứu của Kilpatrick và Miller đã cố gắng xác định những đặc trưng nhằm phân biệt những ngành công nghiệp xuất khẩu thực và nhập khẩu thực ở Mĩ theo một cách thức hợp lí. Dựa trên kết quả đó, những đặc điểm quan trọng rút ra là mức thu nhập cho mỗi lao động cao hơn, giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị sản xuất cao hơn, và qui mô của nền kinh tế lớn hơn.

Avai cũng đã có bước tiếp cận tương tự. Dựa trên những số liệu thu thập trong lĩnh vực xuất khẩu các sản phẩm chế tạo trong 65 ngành công nghiệp ở isarent, Ayal đã cố gắng chứng minh rằng thành công trong lĩnh vực xuất khẩu của isarent có thể dự đoán trước thông qua những đặc trưng cố hữu trong công nghiệp được phản ánh trong cơ sở dữ liệu của các quốc gia phát triển khác ( trong trường hợp này là Mĩ). Những phát hiện đó chỉ ra rằng những nhân tố quyết định đến thành công của isarent trong lĩnh vực xuất khẩu là tỉ lệ kĩ năng cao, vốn trên từng lao động thấp, và qui mô kinh tế nhỏ.

Mối quan hệ giữa rào cản về thuế thấp và cường độ lao động yếu đã tỏ ra là không mạnh lắm.,hơn thế còn có thể dự đoán được, và cả hai thay đổi đó đều nhằm tăng cường sức mạnh dự báo.

Nghiên cứu gần đây của Schneeweis chú trọng đến những nhân tố quyết định trong nền thương mại Hoa kỳ. Theo những kết quả, việc sáng chế, nghiên cứu và phát triển và những giá trị gia tăng trên mỗi công nhân đều ảnh hưởng quan trọng đến tỉ lệ xuất khẩu và nhập khẩu trong các ngành kinh tế. Những đơn vị kinh doanh với tỉ lệ xuất khẩu cao đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp không tiêu dùng được đặc trưng bởi sự phát triển năng suất lao động và sản phẩm. Mặt khác, tỉ lệ nhập khẩu cũng liên quan một cách tiêu cực đến giá trị gia tăng trên mỗi lao động, bằng sáng chế và cường độ vốn. Do đó, các đơn vị kinh doanh với nhiều lao động hoặc vốn, năng suất lao động cao hơn có sự cạnh tranh nhập khẩu thấp hơn và doanh số xuất khẩu tương đối cao. Hơn nữa, nghiên cứu và phát triển thường đi kèm với quảng cáo và độc quyền tạm thời.Cũng như vậy, sự không hoàn hảo của thị trường như bằng độc quyền hay trợ cấp khuyến khích xuất khẩu trong khi cô lập các đơn vị khỏi hoạt động nhập khẩu. Cuối cùng, qui mô kinh tế là một điều kiện ưu đãi cho hoạt động xuất khẩu các sản phẩm được sản xuất.

Ngoài ra còn có những nhân tố mang tính quyết định khác trong quá trình hoạt động. Lecraw đã phân tích những nhân tố xác định đó của 153 công ty xuyên quốc gia trong 6 lĩnh vực sản xuất công nghiệp nhẹ ở Indonexia, Philippin, Malayxia, Singapore, và Thailand. Bài phân tích đã phát hiện ra rằng khả năng thu nhiều lãi của các hãng liên hệ một cách tích cực đến quảng caó, cường độ nghiên cứu và phát triển, thuế quan và thị phần của doanh nghiệp trên thị trường cũng như thị phần của 2 hãng lớn nhất trong ngành kinh doanh. Lãi suất có xu hướng giảm khi tồn tại những đặc trưng sau:(1) sự gia tăng về thị phần của một hãng lớn thứ 3 trong nền kinh tế (2) sự gia tăng trong quá trình thâm nhập thị trường nhập khẩu (3) sự tăng trưởng trong doanh số của các hãng (4) sự gia tăng số lượng các quốc gia nội địa trong các tập đoàn đa quốc gia của nền kinh tế.

Một cách tiếp cận khác liên quan đến việc xem xét tốc độ tăng trưởng doanh thu, không kể tuyệt đối hay tương đối, xem như một chỉ số của cơ hội kinh doanh. Giá trị của phương pháp này nằm ở tinh dễ hiểu của nó. Tuy nhiên vấn đề nảy sinh khi doanh thu của năm lấy làm gốc là nhỏ bởi vì bất cứ một sự gia tăng nào hầu như cũng bị phóng đại về mức độ quan trọng của nó. Kết quả là người ta đã cường điệu những cơ hội kinh doanh cho các sản phẩm được xem xét ở qui mô doanh thu kỳ gốc nhỏ. Do vậy, việc tin cậy mạnh mẽ vào sự thay đổi ròng trong doanh số từng năm riêng lẻ có thể không đáng tin cậy.

Phân tích thị phần thay đổi có thể giải quyết những vấn đề đi kèm với phương pháp mức tăng trưởng doanh số. Phân tích thị phần thay đổi nhấn mạnh đến sự thay đổi trong thị phần thị trường qua thời gian cuả các quốc gia nhập khẩu.Sự thay đổi thực biển hiện sự khác nhau giữa tăng trưởng thực và tăng trưởng dự kiến của mỗi thành viên (tức là liệu tỉ lệ tăng trưởng của một quốc gia thành viên có cân bằng với tỉ lệ tăng trưởng trung bình của nhóm hay không). Nhìn chung, phương pháp phân tích dựa trên sự thay đổi về tỉ lệ có xu hướng loại bỏ những sản phẩm với tỉ lệ tăng trưởng thấp, với điều kiện thị trường chín muồi hoặc bão hoà, với mối quan hệ người bán _người mua hiện tại và sự cạnh tranh gia tăng trong thị trường hiện nay bất kể những sản phẩm đó có thể hứa hẹn triển vọng trong tương lai theo phương pháp tăng trưởng doanh thu.

Mặc dù mỗi cách tiếp cận đều hữu ích cho quá trình xác định những cơ hội xuất khẩu thì một vài dự đoán là hợp lệ. Mỗi phương pháp đều có những hạn chế nhất định và khả năng dự đoán của phương pháp này hay phương pháp khác chỉ có thể áp dụng cho những dữ liệu lịch sử theo thời điểm xem xét hệ thống. Khi áp dụng, các phương pháp này nên được xem xét trong mối tương quan với phương pháp khác vì những kết quả tổng hợp sẽ đáp ứng sự gia tăng độ tin cậy trong các dự đoán về hoạt động thương mại tiền năng.

Tổng kết


Đối với các quốc gia muốn tiến hành buôn bán với một nước khác,hoạt động của quốc gia đó khi có thương mại phải tốt hơn khi không tiến hành các hoạt động thương mại. Những nguyên tắc cơ bản của lợi thế tuyệt đối và tương đối giải thích cách thương mại có thể gíup các quốc gia tăng cường sự thịnh vượng của mình thông qua chuyên môn hoá. Thương mại cho phép một quốc gia tập trung vào sản xuất những sản phẩm với tiềm năng tốt nhất cho quá trình tiêu dùng cũng như xuất khẩu của quốc gia đó, kết quả của việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước.

Chi phí sản xuất tuyệt đối không ảnh hưởng như những chi phí tương đối khác đến quá trình quyết định liệu thương mại có nên tiến hành và sản phẩm nào sẽ xuất khẩu hay nhập khẩu. Về cơ bản, một quốc gia có thể chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm mà nó có lợi thế so sánh tương đối cao nhất. Nếu lợi thế so sánh không tồn tại thì cũng sẽ không có thương mại, vì không có sự khác nhau trong chi phí sản xuất có liên quan giữa hai quốc gia (tức là tình huống cân bằng lợi thế tương đối.

Lợi thế so sánh không phải được xác định duy nhất thông qua lao động mà còn thông qua các nhân tố khác của quá trình sản xuất cần thiết để sản xuất ra sản phẩm được nói tới. Lợi thế này thường được quyết định bởi sự dư thừa một nhân tố sản xuất nhất định của quốc gia. Do vậy, một quốc gia sẽ có lợi thế trong việc xuất khẩu một sản phẩm yêu cầu nhân tố dư thừa như một đầu vào sản xuất chủ yếu.

Các học thuyết thương mại mặc dù mang tính hữu ích song chỉ giải thích đơn giản các quốc gia nên làm gì hơn là miêu tả những hành động mà các quốc gia thực sự phải làm. Một hình mẫu thương mại lí tưởng dựa trên những học thuyết đó có liên quan đến lợi thế so sánh và vấn đề cung cấp vốn thường xa rời mạnh mẽ thực tiễn thương mại . Do đó cần thiết phải điều chỉnh các học thuyết để giải thích sự khác biệt do những thay đôỉ khác thường gây ra. Thí dụ mức thu nhập cao của các nước công nghiệp phát triển có thể tạo ưu đãi cho những sản phẩm chất lượng cao mà LDCs không có khả năng cung cấp. Hơn thế, những hạn chế thương mại, là chuẩn mực hơn là ngoại lệ, ảnh hưởng mạnh mẽ đến qui mô và phương hướng của thương mại, và bất cứ nghiên cứu nào nếu thiếu việc đưa thuế quan, hạn ngạch, và các rào cản thương mại khác vào xem xét thì đều không hoàn chỉnh.



Có thể vấn đề quan trọng nhất trong các học thuyết thương mại cổ điển là sự thất bại của họ trong việc hợp nhất các hoạt động marketing vào quá trình phân tích. Sự không hợp lí là ở chỗ giả định rằng thị hiếu của người tiêu dùng là đồng nhất trên các thị trường của quốc gia và những thị hiếu đó có thể được thoả mãn tối đa bằng những hàng hoá đồng nhất. Những hoạt động marketing như phân phối và xúc tiến kinh doanh bổ sung giá trị cho sản phẩm và thành công của sản phẩm thường được quyết định thông qua việc lập và thực hiện những hoạt động đó.

Câu hỏi

  1. Thương mại có phải là một trò chơi có kết quả bằng 0 hoặc dương?

  2. Hãy giải thích

  1. nguyên tắc cơ bản của lợi thế tuyệt đối

  2. nguyên tắc cơ bản của lợi thế tương đối

  1. Liệu có thể có thương mại nếu

  1. một quốc gia có lợi thế tuyệt đối về tất cả các sản phẩm so với đối tác của nó.

  2. tỉ lệ trao đổi nội địa của một quốc gia hoàn toàn giống so với quốc gia khác?

  1. Học thuyết về vốn cung cấp?

  2. Giải thích Leontief Paradox?

  3. Thảo luận về giá trị và hạn chế của các học thuyết thương mại.

  4. Phân biệt giữa:

  1. khu vực thương mại tự do

  2. liên minh thuế quan

  3. thị trường thông thường

  4. liên minh kinh tế

  5. liên minh chính trị

  1. Hợp tác kinh tế sẽ thúc đẩy hay kiềm chế thương mại?

  2. Giải thích ngắn gọn những phương pháp xác định cơ hội xuất khẩu

  1. Phương pháp tăng trưởng doanh thu

  2. Phương pháp phân tích tỉ lệ thay đổi


Thảo luận

  1. Nêu những sản phẩm hay lĩnh vực công nghiệp mà Mĩ có cũng như không có lợi thế so sánh?

  2. Tại sao lại có lợi cho một nước Mĩ với nguồn vốn rồi rào và nguồn lực giàu có khi tham gia thương mại với các quốc gia khác?

  3. Đối với một quốc gia có chi phí lao động cao, làm thế nào để quốc gia đó có thể chứng tỏ tính cạnh tranh xuất khẩu của mình?

  4. Giải thích cách thức mà Mĩ có thể…trong lợi thế so sánh?

Bảng 2_7. Phản ứng trước vấn đề tầm quan trọng của các rào cản ảnh hưởng đến thương mại Quốc tế



Các rào cản ảnh hưởng đến thương mại Quốc tế

Không đồng tình

Hoàn toàn không quan trọng

Không quan trọng lắm

Hơi quan trọng

Rất quan trọng

Cực kì quan trọng

Đồng tình

Thiếu sự trợ giúp của Mĩ nhằm vượt qua những rào cản xuất khẩu

Thiếu những khuyến khích về thuế của Mĩ cho nhà nhập khẩu

Giá trị đồng đôla cao so với đồng tiền nước ngoài

Việc thực thi mạnh mẽ đạo luật mua chuộc đút lót nước ngoài của Mĩ.

Những rủi ro liên quan đến hành vi bán hàng ra nước ngoài

Quản lí tập trung vào những thị trường nội địa đang phát triển

Sự thiếu hụt vốn hiện có cho việc mở rộng ra thị trường nước ngoài

Sự thiếu hụt năng lực sản xuất giành cho việc duy trì những thị trường nước ngoài

Những khác nhau về ngôn ngữ và văn hoá

Những khác nhau về cách tiêu dùng sản phẩm ở thị trường nước ngoài

Sự thiếu vắng các kênh phân phối nước ngoài

Sự cạnh tranh từ các hãng trong nước trên thị trường nước ngoài

Sự cạnh tranh từ các hãng của Mĩ trên thị trường nước ngoài

Chi phí chuyên chở đến các thị trường nước ngoài cao

Các tiêu chuẩn kĩ thuật ở những thị trường nước ngoài khác nhau

Thuế quan đánh vào các sản phẩm nhập khẩu cao

Những luật lệ và thủ tục nhập khẩu khó hiểu.


114

113


117

111

117

113


113

114

113
112

114
114

113

116


117

113


112



22.8

22.1


6.8

43.2

16.2

15.9


36.3

42.1

37.2
25.9

21.9
32.5

31.0

8.6


23.1

12.4


22.3

33.3

30.1


2.6

29.7

29.9

23.9


35.4

28.1

32.7
26.8

25.4
25.4

31.9

6.0


26.5

19.5


22.3

24.6

23.9


15.4

27.4

27.4

14.2


17.7

19.3

16.8
32.1

23.7
19.3

23.9

22.4


31.6

30.1


31.3

11.4

18.6


29.9

16.2

16.2

37.2


8.6

7.9

10.6
12.5

24.6
15.8

9.7

40.5


14.5

27.4


20.5

7.9

5.9


45.2

5.4

10.3

8.9


1.8

2.6

2.7
2.7

4.4
7.0

3.5

22.4


4.3

10.6


3.6

2.5

2.5


4.0

2.0

2.7

3.0


2.0

2.0

2.1
2.4

2.6
2.4

2.2

3.6


2.5

3.0


2.6

Nguồn: Alan Bauerschmidt, Daniel Sullivan và Kate Gillespie “ Những nhân tố chủ yếu làm nền tảng cho các rào cản xuất khẩu. Những nghiên cứu trong ngành công nghiệp giấy của Mĩ”. Tạp chí nghiên cứu kinh doanh Quốc tế số 16 (năm 1985) trang 116_ in lại đã được sự cho phép.

Trường hợp 2_1 : Những chiến lược thương mại : Hướng nội hay hướng ngoại

Những nhà kinh tế và những nhà hoạch định chính sách ở các quốc gia đang phát triển đã hoàn toàn tán thành vai trò của chính phủ trong việc cung cấp cơ sở hạ tầng, thúc đẩy tính hiệu quả của thị trường, và duy trì các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên họ không đồng ý về các chính sách thương mại có thể giúp các quốc gia giành được tăng trưởng cao và phát triển các tiềm năng công nghiệp.

Các chính sách thương mại có thể được mô tả mang tính hướng nội hoặc hướng ngoại. Một chiến lược hướng ngoại đem đến sự khuyến khích mang tính trung lập giữa sản xuất cho thị trường trong nước và cho xuất khẩu. Vì thương mại quốc tế không hoàn toàn là không có lợi, do vậy mặc dù đôi khi có sự hiểu sai nhưng cách tiếp cận này thường được xem như sự khuyến khích xuất khẩu. Trên thực tế, bản chất của chiến lược hướng ngoại là sự phân biệt đối xử nhằm thúc đẩy xuất khẩu cũng như khuynh hướng chống lại sự thay thế nhập khẩu. Mặt khác chiến lược hướng nội lại là chiến lược trong đó người ta hướng những ưu tiên thương mại và công nghiệp vào sản xuất trong nước và chống lại ngoại thương. Cách tiếp cận này thường được hiểu như chiến lược thay thế nhập khẩu.

Chiến lược hướng nội thường bao hàm sự bảo hộ cao và công khai. Chính điều này làm hàng hoá xuất khẩu không thể cạnh tranh do sự gia tăng chi phí đầu vào của nước ngoài sử dụng trong quá trình sản xuất. Hơn nữa, sự gia tăng trong chi phí tương đối những đầu vào trong nước cũng có thể xảy ra thông qua lạm phát hoặc do việc định giá tỉ giá hối đoái quá cao trong khi các quốc gia đưa ra những hạn chế về số lượng nhập khẩu. Trong khi đó những chính sách khuyến khích công nghiệp lại được điều hành bởi một bộ máy phức tạp và cồng kềnh.

Minh hoạ: Phân loại các quốc gia đang phát triển bằng định hướng thương mại



Chiến lược hướng ngoại

Chiến lược hướng nội

Mạnh mẽ

Vừa phải

Mạnh mẽ

Vừa phải

Hồng kông

Hàn Quốc


Singapore

Braxin

Cameroon


Colombia

Costa Rica

Cóte d’Jvoire

Guatemala

Indonexia

Israel


Malayxia

Thai lan


Bolivia

El Salvador

Honduras

Kenya


Madagasca

Mehico


Nicaragua

Nigeria


Philippin

Senegal



Argentina

Bangladesh

Chile

CH Dominica



Etiopia

Ghana


ấn Độ

Pakistan


Peru

Sri lanka

Sudan

Tanzania


Thổ nhĩ kỳ

Uruguay


Zambia


Hồng kông

Hàn Quốc


Singapore

Braxin

Chile


Israel

Malayxia


Thai lan

Tunisia


Thổ nhĩ kỳ

uruguay


Cameroon

Colombia


Costa Rica

Cóte d’ Jvoire

El Salvador

Guatemala

Honduras

Indonexia

Kenya

Mehico


Nicaragua

Pakistan


Philippin

Senegal


Sri Lanca

Yugoslavia




Argentina

Bangladesh

Bolivia

Burundi


CH Dominica

Etiopia


Ghana

ấn Độ


Madagascar

Nigeria


Peru

Sudan


Tanzania

Zamibia




Những biểu thuế quan đã ủng hộ những chính sách hướng ngoại qua những sự hạn chế về lượng. Những biểu thuế quan này thường kết hợp với những biện pháp khác, bao gồm cả những trợ cấp sản xuất và sự chuẩn bị cho đầu vào tại giá bán sỉ tự do. Các chính phủ luôn tìm cách để giữ tỉ giá hối đoái ở mức thích hợp để duy trì và khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Trong chiến lược hướng ngoại, sự bảo hộ thấp hơn so với chiến lược hướng nội; điều này quan trọng như việc thu hẹp độ rộng của mức bảo hộ cao nhất và thấp nhất.

Exhibit 1 là một sự phân loại 41 nước phát triển dựa trên định hướng thương mại.


Câu hỏi :

  1. Chính sách thương mại nào (hướng nội hay hướng ngoại) đã giúp cho kinh tế phát triển thành công hơn? Câu trả lời dựa vào thực tiễn và sự nghiên cứu căn cứ vào thực tế chứ không dựa vào những tiêu chuẩn lý thuyết.

  2. Đưa ra một lý giải tại sao các chính phủ của những nước phát triển thường do dự khi tiến hành những cải cách thương mại để thực hiện những chính sách hướng ngoại?

Nguồn : Điều này đã được tóm tắt và phỏng theo cuốn “Công nghiệp hoá và ngoại thương”, “Tài chính và phát triển” của Sarath Rajapatirana (Tháng 9 – 1987) : trang 2-



  1. Gerald M. Meter, Kinh tế học quốc tế: Những học thuyết về chính sách (New York: Oxford University Press, 1980), 57.

  2. Peter H. Lindert và Charles P. Kindleberger, Kinh tế học quốc tế, tái bản lần thứ 7 (Homewood, IL: Irwin, 1982), 26.

  3. Adam Smith, Sự giàu có của những quốc gia (1776: Tái bản, Homewood, IL: Irwin, 1963).

  4. David Ricardo, Những nguyên lý về kinh tế học và thuế (1987: tái bản, Baltimore:Penguin, 1971).

  5. H. Robert Heller, Lý thuyết thương mại quốc tế và bằng chứng thực nghiệm, tái bản lần thứ 2 (Englewood Cliffs, N): Prentice- Hall, 1973)

  6. “Sổ tay kinh tế”, Business Week- 1-11-1982, 19.

  7. “Thảo nào nước Mỹ mất những công việc ở nhà máy”. Business Week, 25-11-1985, trang 24, 28

  8. “Sổ tay kinh tế” Business Week, 20-10-1986, trang 18

  9. Eli Heckscher, “Những tác động của Ngoại thương đối với phân phối thu nhập” trong cuốn “Lý thuyết thương mại Quốc tế” tái bản : Howard S. Ellis và Lioyd A. Matzler (Homewood, IL:Iwin, 1949); Bertil Ohlin, Quốc tế và thương mại Quốc tế (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1933)

  10. Wilfred Ethier, “Kinh tế học quốc tế hiện đại” (New York: Norton, 1983) trang 40.

  11. G. D. A. MacDougall, “Xuất khẩu của Anh-Mỹ: Một sự nghiên cứu dựa trên chi phí so sánh” Nhật ký kinh tế (tháng 12-1951): Robert Stern “Năng suất và chi phí so sánh của Anh-Mỹ trong thương mại quốc tế” Oxford Economic Papers (tháng 10-1962); Bela Balassa, “một sự trình bày theo kinh nghiệm của lý thuyết giá so sánh cổ điển”, Tổng quan kinh tế học và những thông tin được thống kê (tháng 8 1963)

  12. Ethier, “Kinh tế học quốc tế hiện đại” trang 24

  13. Jagdish Bhagwati, “Lý thuyết thuần túy của thương mại quốc tế : Một sự khái quát” Nhật ký kinh tế (tháng 3- 1964).

  14. Wassily W. Leontief, “Sản xuất và ngoại thương nội địa: Xem xét lại vị trí của tư bản Mỹ” những tiến trình của xã hội triết học Mỹ, tháng 9 1953; Wassily W. Leontief, “Những hệ số về tỷ lệ và cấu trúc của thương mại Mỹ: xúc tiến sự phân tích lý thuyết và thực nghiệm”, Xét lại kinh tế học và những thông tin được thống kê 38 (tháng 11 1956): trang 386 – 407.

  15. Heller, “Lý thuyết thương mại Quốc tế”, trang 70.

  16. Keith E. Maskus, “Một sự kiểm chứng định lý Heckscher-Ohlin-Vanek: Lý thuyết cũ của Leontief”, nhật ký kinh tế học quốc tế 19 (tháng 11 1985):201-12.

  17. Quỹ tiền tệ quốc tế, Hướng dẫn sử dụng những thông tin thương mại được thống kê, niên giám 1985

  18. Văn phòng điều tra của Mỹ, Điểm sáng của kinh doanh xuất nhập khẩu Mỹ Báo cáo FT 990 (tháng 11 1985) A-3

  19. Heller, Lý thuyết thương mại quốc tế, trang 5

  20. Shujiro Urata, “Những nhân tố đầu vào và cơ cấu ngành sản xuất thương mại của Nhật Bản”, Tổng quan kinh tế học và những thông tin được thống kê 65 (tháng 11 1983): 678-84

  21. Alex O. Williams, “Thương mại quốc tế và đầu tư - một cánh tiếp cận quản lý” (New York: Wiley, 1982) trang 40.

  22. Williams L. Givens, “Nước Mỹ có thể không còn tự do mậu dịch”, Business Week, 22-11-1982, trang 15.

  23. “Hồng Kông không còn theo đuổi chủ nghĩa bảo hộ công nghiệp của Mỹ” Business Week, 26-8-1985, trang 45.

  24. Uỷ ban tiền lương và ổn định giá cả, Một sự nghiên cứu về công nghiệp may mặc (Washington. D.C.. tháng 6-1978).

  25. J. E. Meade, Thương mại và phúc lợi (New YorkLOxford Univerisity Press, 1955); R.G. Lipsey và K. Lancaster, “Lý thuyết chung thứ yếu”, Xét lại những nghiên cứu về kinh tế 24 (1956), 11-32; Meier, Kinh tế học Quốc tế.

  26. Sê Charles P. Kindleberger, Kinh tế học quốc tế, tái bản lần thứ 5 (Homewood, IL: Irwin, 1973), 174-86.

  27. Quản trị thương mại quốc tế, một bài học cho việc kinh doanh trong cộng đồng ASEAN (Washington. D.C.: Bộ thương mại Mỹ : 1981).

  28. David Fouquet, “Cuộc họp của những nhà lãnh đạo thị trường chung để hoạch định tương lai của nhóm”, Diễn đàn Chicago, 3-12-1985.

  29. Một cuộc thảo luận về lịch sử, những khó khăn và những viễn cảnh của cộng đồng Châu Âu, dưới con mắt của Augusto Lopez Claros. Cộng đồng chung Châu Âu trên con đười tiến tới sự hợp nhất” Tài chính và phát triển (tháng 9-1987) trang 35-38.

  30. “Cuộc gặp thượng đỉnh của phương đông: Một cơ hội để tập trung các nước vào hàng ngũ”, Business Week, 18 June 1984, trang 42.

  31. Kindleberger, Kinh tế học Quốc tế, 174-88.

  32. Either, Kinh tế học Quốc tế hiện đại, trang 490.

  33. Alan Bauerschmidt. Daniel Sullivan & Kate Gillespie, “Những nhân tố nằm dưới hàng rào xuất khẩu” nghiên cứu trong ngành công nghiệp giấy của Mỹ, Nhật ký nghiên cứu kinh tế Quốc tế, 16 (Mùa thu 1985) 111-23.

  34. J. A. Kilpatrick & R. R. Miller, “Những yếu tố quyết định cơ cấu thương phẩm của thương mại Mỹ: Một cách tiếp cận phân tích biệt số” Nhật ký nghiên cứu kinh tế Quốc tế 9 (Mùa xuân/hạ 1978):25-33.

  35. Igal Aval, “Sự thực hiện xuất khẩu công nghiệp: Sự ước định và dự đoán”, Nhật ký Marketing, 46 (mùa hè 1982): trang 54-61.

  36. Thomas Schneeweis, “Một ghi chú về thương mại quốc tế và cơ cấu thị trường”, Nhật ký nghiên cứu kinh tế Quốc tế, 16 (mùa hè 1985): 139-52.

  37. Đonal J. Lecraw, “Sự hoạt động của các công ty xuyên quốc gia ở các nước kém phát triển”, Nhật ký nghiên cứu kinh tế Quốc tế, 14 (mùa xuân/hạ 1983): trang 15-33.

  38. Robert T. Green & Arthur W. Allaway, “Sự nhận ra những cơ hội xuất khẩu: chuyển giao – chia sẻ cách tiếp cận”, Nhật ký Marketing, 49 (mùa đông 1985): trang 83-88.

Sự bảo hộ có thể mang lại những lợi ích về kinh tế trong những trường hợp nhất định nếu như chính phủ đủ sáng suốt để phân biệt những trường hợp đó và đủ mạnh để tự kìm hãm chúng nhưng những điều kiện này chưa chắc đã đáp ứng được mục đích ”.

Каталог: 2009
2009 -> Công ty cổ phần Xây dựng Điện vneco3
2009 -> Ủy ban nhân dân cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam thành phố HỒ chí minh độc lập Tự do Hạnh phúc
2009 -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôN
2009 -> Nghị ĐỊnh số 163/2004/NĐ-cp ngàY 07/9/2004 quy đỊnh chi tiết thi hành một số ĐIỀu của pháp lệNH
2009 -> BỘ CÔng thưƠng cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> Mẫu số: 01 (Ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 31 /2009/ttlt-btc –BLĐtbxh ngày 09 tháng 09 năm 2009) CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> BỘ y tế Số: 12/2006/QĐ-byt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam sở TƯ pháP Độc lập Tự do Hạnh phúc
2009 -> CÔng ty cp đIỆn tử BÌnh hòa cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
2009 -> Ủy ban nhân dân thành phố HỒ chí minh

tải về 4.58 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   48




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương