Tóm tắt 28 phẩm kinh Pháp hoa. 18/05/2012 phẩM 01 phẩm tựA



tải về 195.36 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu18.08.2016
Kích195.36 Kb.
#22216
Tóm tắt 28 phẩm kinh Pháp hoa. - 18/05/2012

PHẨM 01

PHẨM TỰA




  • Giữa tứ chúng, vì các vị Bồ Tát Đức Phật Thích ca nói kinh ‘Vô lượng nghĩa xứ’ xong liền nhập định Vô lượng nghĩa xứ này, thân và tâm bất động. Mưa hoa, 6 thứ âm thanh vi diệu. Đại chúng chấp tay.

  • Phật phóng hào quang từ giữa lông mày xuyên suốt 18.000 thế giới phương đông, từ địa ngục A Tỳ lên đến các cõi Phật.

  • Bồ Tát Di Lặc (thức phân biệt) hỏi Bồ Tát Văn Thù (trí tuệ) về tướng lạ của Thế Tôn.

  • Bồ Tát Văn Thù nói :

Ta từng ở các Đức Phật quá khứ thấy điềm lành này. Phật hiện điềm lành là sắp nói pháp Đại thừa nghĩa lý sâu xa. Vô lượng vô biên A tăng kỳ[1] kiếp[2] về trước có Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh  nói chánh pháp 3 thời đều lành, nghĩa lý rất sâu xa. Tùy căn cơ chúng sinh mà nói : Tứ đế cho Thanh văn, 12 nhân duyên cho Duyên giác, 6 Ba la mật cho Bồ Tát.

Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh  khi chưa xuất gia có 8 vương tử (đều có chữ Ý sau cùng, tượng trưng cho 8 thức). Khi vua cha xuất gia chứng đạo thì 8 vương tử cũng xúât gia theo (8 thức biến thành trí). Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh   nói kinh và nhập định Vô lượng nghĩa xứ, mưa hoa, phóng hào quang từ giữa chặng mày. Khi đó có 20 ức Bồ Tát (trong ấy có Bồ Tát Diệu Quang có 800 đệ tử) muốn biết lý do. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh   từ trong chánh định dậy, vì Bồ Tát Diệu Quang mà nói kinh Đại thừa tên “Diệu pháp Liên hoa giáo Bồ Tát Pháp Phật sở hộ niệm”[3] trong 60 tiểu kiếp[4] mà hội chúng nghe, tưởng chừng như trong khoảng bữa ăn. Tiếp theo, sau khi thọ ký cho Bồ Tát Đức Tạng xong thì Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh   nhập Vô dư Niết bàn.

Bồ Tát Diệu Quang trì kinh Pháp Hoa, thuyết pháp trong 80 tiểu kiếp, 8 người con vương tử học đạo với Bồ Tát Diệu Quang và đều thành Phật.

Bồ Tát Cầu Danh (1 trong 800 đệ tử của Bồ Tát Diệu Quang) tham ưa danh lợi, cũng tụng đọc kinh điển nhưng phần nhiều quên mất, do trồng căn lành nên sau cũng gặp vô số Đức Phật.

Di Lặc nên biết, Bồ Tát Diệu Quang lúc ấy nay chính là ta, và Bồ Tát Cầu Danh nay chính là ngài đấy.

Nay thấy điềm lành này, cùng với xưa không khác, cho nên ta xét nghĩ, hôm nay Đức Phật sẽ nói kinh Pháp Hoa.

 

[1] Asankhyeya : vô số

[2] Kiếp là chỉ khoảng thời gian rất dài, trái với chữ sát na là chỉ khoảng thời gian rất ngắn.

[3] Từ đây trở đi sẽ được viết tắt là kinh Pháp Hoa.



[4] Tiểu kiếp : Tuổi thọ con người có hai định múc : Thấp nhấtlà 10 tuổi và cao nhất là 84.000 tuổi. Trong đó, từ 10 tuổi, cứ 100 năm tăng 1 tuổi, tăng cho đến 84.000 tuổi, rồi lại cứ 100 năm giảm 1 tuổi, giảm xuống đến 10 tuổi tượng thọ. Trải qua một lần tăng một lần giảm như vậy gọi là 1 Tiểu kiếp khoảng bằng 16.800.000 năm.

PHẨM 02

PHƯƠNG TIỆN



  • Đức Phật xuất định, nói Tri kiến Phật khó hiểu cho Thanh văn, Duyên giác. Pháp Thế Tôn chứng rất sâu, ở thế gian chưa từng có; từ khi thành Phật đến nay, ngài dùng vô số phương tiện dìu dắt chúng sanh, làm cho xa lìa lòng chấp.

  • Chỉ có Phật với Phật mới thấu tột tướng chơn thật của các pháp: Các pháp như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhơn, như thị duyên, như thị qủa, như thị báo, trước sau rốt ráo như thị.

  • Đại chúng Thanh văn, Duyên giác thắc mắc : khi xưa Đức Phật dạy Tứ đế, Mười hai nhân duyên để được Niết bàn, nay sao Phật lại nói Pháp của Phật cao siêu và tất cả Thanh văn, Duyên giác không thể đến được? Xá Lợi Phất ba phen thưa thỉnh và Đức Phật sẽ nói. Ngay lúc ấy 5000 người (chưa chứng mà cho đã chứng) liền đứng dậy lễ Phật mà lui ra. Kẻ tăng thượng mạn cho mình đã chứng A La Hán, Niết Bàn không chịu cầu đạo Vô thượng chánh đẳng giác.

  • Pháp đó không phải suy lường phân biệt mà có thể hiểu được. Đức Phật dùng vô số phương tiện (9 bộ kinh – khế kinh, trùng tụng, bổn sự, bổn sanh, vị tằng hữu, nhân duyên, thí dụ, cô khởi, luận nghị) và chỉ dùng danh từ gỉa dẫn dắt chúng sanh.

  • Chư Phật chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ở đời: khai, thị, ngộ, nhập TKP cho chúng sinh.

  • Vì chúng sinh ở trong đời ngũ trược nên Phật tạm dùng phương tiện nói 3 thừa để dẹp tâm cấu uế. Nhưng thật ra chỉ có một Phật thừa mà thôi. 

  • Người chấp vào 62 tà kiến khó độ.

  • “Ta vì bày phương tiện / Nói các đạo dứt khổ / Chỉ cho đó Niết bàn / Ta dầu nói Niết bàn / Cũng chẳng phải thiệt diệt / Các pháp từ bản lai / Tướng thường tự vắng lặng.”

  • Người tu Lục độ thành Phật

  • Sau khi Phật diệt độ: Những người cúng dường tháp, miếu, nhóm cát thành tháp, tuợng, vẽ, ca ngâm khen, lễ lạy, chấp tay, cúi đầu, một tiếng xưng Nam mô Phật đều đã thành Phật đạo.

  • “Các Phật lưỡng túc tôn / Biết pháp thường không tánh / Chủng Phật theo duyên sanh / Cho nên nói Nhất thừa.”

  • “Để vì nói Phật huệ / Nay chính đã đúng giờ / Chính bỏ ngay phương tiện / Chỉ nói đạo vô thượng.”

  • Xá Lợi Phất, đối với Diệu pháp (Tri Kiến Phật) bí yếu của chư Phật, những ai tham đắm 5 dục sẽ bị đọa, còn những ai quyết chí tu hành thì chỉ vẽ đạo Nhất thừa cho họ.”

PHẨM 03

VÍ DỤ




  • Xá Lợi Phất vui mừng. Nhớ lại khi xưa, tụ trách mình vì căn cơ thấp nên Phật nói pháp nhị thừa. Tin rằng chư Phật đều trước phương tiện nói 3 thừa sau nói Phật thừa, tin rằng mình sẽ thành Phật, dứt các lòng nghi, thân ý thơ thới.

  • Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: Ta xưa từng ở nơi hai muôn ức Phật vì đạo Vô thượng thường giáo hoá ông, dạy ông chí nguyện Phật đạo, nay lại vì  các Thanh văn nói kinh Đại thừa Pháp Hoa. Xá Lợi Phất qua vô lượng kiếp sẽ thành Phật Hoa Quang ở nước Ly Cấu, dạy 3 thừa, thọ ký cho Kiên Mãn Bồ Tát sau sẽ thành Phật Hoa Túc  An Hành.

  • Tứ chúng vui mừng.

  • Xá Lợi Phất bạch Phật vì 1250 Tỳ Kheo thuyết giải rõ hơn. Đức Phật nói ví dụ:

 1)    Ngôi nhà lửa (tam giới)

 2)    Nói ra mà không ra (nói thẳng mà không nghe)

 3)    Dụ 3 xe (phương tiện hươu, trâu (không thật mà nghe): dê,)

 4)    Khi các con ra, trưởng giả cho đồng một loại xe báu do trâu trắng kéo, trước chưa từng có (Phật thừa bình đẳng).



  •  Trưởng giả (Đức Phật) nói dối, hư vọng? – Không.

  • Đức Phật vì từ bi, vào tam giới để cứu chúng sanh chìm trong 5 dục ra khỏi nhà lửa (nguy hiểm của dục):

 (1)  (Dê) Thanh văn thừa: muốn mau ra khỏi 3 giới, chứng NB.

 (2)  (Hươu) Duyên giác thừa: ưa vắng lặng, sâu rõ nhân duyên của các pháp.

 (3)  (Trâu) Đại thừa, Bồ Tát thừa, Phật thừa: cầu Nhất thiết trí, Phật trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí, làm an vui, độ thoát tất cả Chúng sanh.


  •  Như Lai dùng sức phương tiện ở nơi Phật thừa phân biệt nói thành 3:

 1)    “Phật thừa đây vi diệu / Rất thanh tịnh thứ nhất / Ở trong các thế giới / Không còn pháp nào trên.”

 2)    “Nếu có người không tin / Khinh huỷ chê kinh này / Thời là dứt tất cả / Giống Phât ở thế gian.”

 3)    Những ai có lòng mong cầu Phật đạo, trồng các cội đức lành, thường tu tập lòng từ, lìa xa các phàm ngu, gần gũi bạn hiền lành, giữ giới hạnh trong sạch thì nên vì họ nói kinh Pháp Hoa.

 

PHẨM 04



TÍN GIẢI

1.    Bốn Thanh văn: Tu bồ đề, Đại ca chiên diên, Đại ca diếp, Đại mục kiền liên bạch Phật “Chúng con tuổi gìa tự cho đã được Niết bàn, chẳng cầu thêm đạo Vô thượng chánh đẳng giác. Chỉ nhớ nghĩ 3 pháp: Không[1], vô tướng[2], vô tác[3]. Đối với các pháp du hí thần thông, tịnh cõi nước Phật, độ thoát chúng sinh của Bồ Tát lòng chúng con không thích.”

 


  1. Bốn Thanh văn nói ví dụ “Gã cùng tử” để chỉ rõ nghĩa:

                               i.    Đứa bé cùng tử bỏ cha đi hoang (Chúng sinh mê lầm, trôi lăn trong lục đạo luân hồi).

                              ii.    Cha giàu có, luôn nhớ con, sẵn sàng giao của cải (Tánh giác luôn có sẵn, không thiếu mất).

                      iii.    Gã cùng tử tình cờ về nhà thấy ông trưởng gỉa (cha) giàu, sợ hãi bỏ chạy; vị trưởng gỉa cho người bắt lại nhưng thả ra; gã cùng tử kiếm chỗ nghèo để mưu sống (Thanh văn, Duyên giác không dám nghĩ thành Phật).

                            iv.    Trưởng gỉa tuổi gìa, vẫn còn than tiếc, biết con ý chí hạ liệt, dùng phương tiện chẳng nói sự thật là con mình:

 -          Sai hai người dụ gã cùng tử về nhà làm hốt phân: Hạnh đầu đà của Thanh văn; diệt vô minh, tam độc.

 -          Gỉa làm người nghèo khổ để gần con. Trong 20 năm hốt phân, người con dầu được ưu đãi (lương cao, quản lý kho báu) nhưng vẫn còn tự cho mình là khách (Thanh văn tu học theo pháp Phật dạy nhưng chưa dám tin mình tu sẽ thành Phật).

                             v.    Tưởng gỉa biết con ý chí nay đã lớn, khi sắp chết, triệu tập đủ mọi người tuyên bố: gã cùng tử là con ruột. “Kho báu không mong cầu mà tự nhiên đến.”

 3.    Ma ha ca diếp: Ông phú trưởng gỉa là Như Lai, chúng con đều giống như con của Đức Phật. Chúng con vì 3 món khổ, ưa thích pháp tiểu thừa [chúng con diệt bề trong (những kiết sử) tự cho là đủ, thấy các pháp không lặng (bất nhị), không sinh – không diệt, không lớn – không nhỏ, vô lậu và vô vi. Chỉ thích an tịnh trong cái tịch tịnh đó, còn việc độ sinh, tịnh cõi nước Phật, là việc bên ngoài thì không thích], được cái giá Niết bàn một ngày, nhơn trí huệ Phật dạy các Bồ Tát nhưng tự mình lại không thích… Nhưng nay chúng con biết Đức Phật thiệt dùng Đại thừa (Nhất thừa) để giáo hóa, vì thế nay được báu lớn.



[1] Không : Ngã không, pháp hữu.

[2] Vô tướng : Không có hình thức hay dáng vẻ; Niết bàn.

[3] Vô tác : Không tạo ra; không bị tạo; không làm; bất động về vật chất hay tinh thần; không tuỳ thuộc vào hành động của thân – khẩu – ý, tức là tự nhiên, trực giác. 

 

PHẨM 05

DƯỢC THẢO DỤ

(Ví dụ Cây cỏ thuốc)

Đức Phật bảo Ca Diếp và các đại đệ tử :

- “Ca Diếp khéo nói công đức chân thật của Như Lai. Như Lai còn có vô lượng công đức, các ông không nói hết được. Như Lai là vua của các pháp, nói không hư dối, phương tiện diễn nói, pháp Phật nói thảy đều đến bực Nhất thiết trí. Như Lai biết chỗ quy thú[1] của tất cả pháp, cũng biết rõ tâm sơ[2] hành của chúng sinh, và ở nơi các pháp rốt ráo rõ biết hết mà chỉ bày tất cả trí huệ cho Chúng Sanh.”

- “Ca Diếp! Ví như trong cõi tam thiên đại thiên[3], mưa xuống, các giống cây lớn nhỏ, tuỳ hạng thượng – trung – hạ mà hấp thu khác nhau. Dẫu rằng một cõi đất sanh, một trận mưa thấm nhuần mà các cỏ, cây đều có sai khác.

Như Lai cũng như thế, xuất hiện ở đời, biết căn cơ lợi độn và tâm tánh của Chúng Sanh mà thuyết pháp vừa sức, khiến chúng sanh nghe pháp rồi, hiện đời an ổn, đời sau sanh về chỗ lành, lần lần đều được vào đạo. Như mây lớn kia, mưa rưới khắp tất cả cỏ cây lùm rừng, và các cỏ thuốc, theo giống của mỗi thứ đều được đượm nhuần đầy đủ, đều được sanh trưởng.

Như Lai nói pháp một tướng, một vị : Tướng giải thoát – xa lìa – diệt, rốt ráo đến bực ‘Nhất thiết trí.’ Có chúng sanh nghe pháp, thọ trì, đọc tụng, tu hành, được công đức tự mình không hay biết như cỏ cây không biết tánh thượng – trung – hạ của chúng.

Như Lai nói pháp một tướng, một vị : Tướng giải thoát – xa lìa – diệt – rốt ráo Niết bàn thường tịch diệt – trọn về nơi không. Phật xem tâm ưa muốn của chúng sanh mà dắt dìu, không vội nói Nhất thiết chủng trí.”

Đức Phật khen các vị Ca Diếp … vì rõ biết Như Lai tuỳ cơ nghi nói pháp.



Kệ kết luận :

“Ta dùng các nhân duyên, thí dụ để chỉ bày đạo Phật, đó là phương tiện. Các chúng thuộc Thanh văn đều chẳng phải diệt độ, các ông tu đạo Bồ Tát lần lần đều thành Phật.”

 

 



[1] Quy thú : Tự khai ra lỗi lầm của mình.

[2] Tâm sở : Chỉ các hoạt động của tâm như thọ,tưởng, hành, tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến…

[3] Tam thiên đại thiên (thế giới) : Núi Tu Di và 7 đại lục, 8 biển và vòng đai của những núi sắt tạo thành một Tiểu thế giới. 1000 Tiểu thế giới tạo thành 1Tiểu thiên thế giới. 1000 Tiểu thiên thế giới tạo thành 1 Trung thiên thế giới. 1000 Trung thiên thế giới tạo thành tạo thành 1 Đại thiên thế giới (= 1 tỷ Tiểu thế giới). Tam thiên đại thiên (thế giới) giống Đại thiên thế giới tức 1 thế giới Phật.

 

PHẨM 06



THỌ KÝ

Phật nói :

1)    Ma ha ca diếp: Ở đời vị lai sẽ phụng thờ 300 muôn ức các Đức Phật, cúng dường rộng nói vô lượng đại pháp của các Đức Phật, sau thành Phật Quang Minh, nước Quang Đức, thọ 12 tiểu kiếp. Chánh pháp[1] và tượng pháp[2] trụ 20 tiểu kiếp. Cõi nước tốt đẹp. Bồ Tát và Thanh văn đông vô số. Không có ma, dầu có ma thì đều hộ trì Phật pháp.

 Ba vị Mục kiền liên, Tu bồ đề, Ca chiên diên hồi hộp, lo sợ, nếu được Phật thọ ký mới là an vui.

 2)     Tu bồ đề : Ở đời vị lai sẽ phụng thờ 300 muôn ức các Đức Phật, cúng dường rộng nói vô lượng đại pháp của các Đức Phật, sau thành Phật Quang Minh, nước Quang Đức, thọ 12 tiểu kiếp. Chánh pháp[3] và tượng pháp[4] trụ 20 tiểu kiếp, thường ở trên hư không nói pháp, độ vô lượng Bồ Tát, Thanh văn.

3)     Ca chiên diên : Ở đời vị lai sẽ phụng thờ 8000 muôn ức các Đức Phật, dựng tháp miếu bằng lớn bảy báu cúng dường. Sau thành Phật Diêm Phù Na Đề Kim Quang, cõi nước tốt đẹp, thọ 12 tiểu kiếp. Chánh pháp[5] và tượng pháp[6] trụ 20 tiểu kiếp.  

4)    Đại mục kiền liên : Ở đời vị lai sẽ cúng dường 8000 ức Đức Phật, dựng thờ tháp miếu bằng lớn bảy báu cúng dường. Sau thành Phật hiệu Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương, nước Y lạc, cõi nước tốt đẹp, Bồ Tát và Thanh văn đông vô số.  Phật đó thọ 24 tiểu kiếp. Chánh pháp, tượng pháp trụ 40 tiểu kiếp.

Sau khi thọ ký cho 4 đại đệ tử xong, Đức Phật hứa sẽ thọ ký tiếp cho 500 đệ tử.

 

[1] Chánh pháp : Dầu Phật nhập diệt, nhưng pháp nghi chưa đổi. Có giáo, hành, chứng quả.

[2] Tượng pháp : Đạo pháp sai lệch đi. Có giáo, hành, không chứng quả.

   Mạt pháp : Chỉ có giáo, không hành, không chứng quả.

[3] Chánh pháp : Dầu Phật nhập diệt, nhưng pháp nghi chưa đổi. Có giáo, hành, chứng quả.

[4] Tượng pháp : Đạo pháp sai lệch đi. Có giáo, hành, không chứng quả.

   Mạt pháp : Chỉ có giáo, không hành, không chứng quả.

[5] Chánh pháp : Dầu Phật nhập diệt, nhưng pháp nghi chưa đổi. Có giáo, hành, chứng quả.

[6] Tượng pháp : Đạo pháp sai lệch đi. Có giáo, hành, không chứng quả.

   Mạt pháp : Chỉ có giáo, không hành, không chứng quả.



PHẨM 07

HÓA THÀNH DỤ

  

1)    Đức Phật nói : Thuở quá khứ vô lượng A tăng kỳ kiếp[1] có Phật Đại thông trí thắng từ khi diệt đến nay rất lâu – Mực đi 1000 nước chấm 1 chấm bụi cho đến hết; rồi tất cả nước đó nghiền nát ra bụi, 1 bụi là 1 kiếp. Ta dùng sức tri kiến Như Lai xem thời gian lâu xa đó như hiện tại.

2)    Phật Đại Thông Thắng Trí, thọ 540 vạn ức na-do-tha[2] kiếp, ngồi thiền (thân tâm không động) 10 tiểu kiếp mà Phật pháp chưa hiện.

         Trời Đao lợi trải toà sư tử cao 1 do tuần[3] cho đến khi Phật thành đạo Vô thượng chánh đẳng giác.

          Trời Phạm thiên rưới hoa trời rộng 40 do tuần, trong 10 tiểu kiếp cho đến khi Phật diệt.

          Trời Tứ thiên vương đánh trống trời trong 10 tiểu kiếp.

          Các trời khác trỗi nhạc trời trong 10 tiểu kiếp.

 Khi Phật Đại Thông Thắng Trí thành đạo, 16 con (Trí tích đầu) phát tâm tu và vua Chuyển luân thánh vương dẫn quyến thuộc đến chiêm ngưỡng khen ngợi: CHÚNG SANH đau khổ, đui mù nay có Phật; do vậy chúng sanh được lợi lớn, được chỉ bày trí huệ Phật.

 Khi Phật Đại Thông Thắng Trí được quả Vô thượng chánh đẳng giác, trong 10 phương (500 muôn ức nước Phật / 1 phương 6 điện vang động), chỗ tối tăm này sáng rỡ. Tất cả Phạm thiên trong 10 phương đều đến cúng dường cung điện và cầu Phật thỉnh chuyển pháp luân.

 Phật Đại Thông Thắng Trí nhận lời: 3 phen chuyển pháp luân (thị, khuyến, chứng), 12 hành (thị, khuyến, chứng X tứ đế) và 12 nhân duyên (lưu chuyển, hoàn diệt). Đức Phật nói pháp, có vô số chúng sanh vì không thọ tất cả phâp mà nơi các lậu tâm được giải thoát.

 16 vương tử xuất gia làm Sa di, thỉnh cầu Phật Đại Thông Thắng Trí nói kinh Phap hoa thảy đều tín thọ. Nói xong Phật trụ trong thiền định 84.000 kiếp. 16 vương tử Sa di biết Phật nhập thiền vắng bặt, cũng trong thời gian ấy lên pháp toà giảng nói Pháp Hoa, độ 600 muôn ức chúng sanh khiến phát tâm Vô thượng chánh đẳng giác. Phật Đại Thông Thắng Trí  qua 84.000 kiếp xuất định nói người nào tin kinh pháp của 16 vị Bồ Tát Sa Di sẽ được Vô thượng chánh đẳng giác.

 Phật Thích ca nói: 16 vị Sa di Bồ Tát (8 phương X 2 vị = 16. Ta là Phật Thích Ca ở Đông Bắc) nay đều chứng được Vô thượng chánh đẳng giác, hiện đang nói pháp trong 10 phương và độ vô lượng chúng sanh trong ấy có các ông. Trong đời không có hai thừa mà được diệt độ, chỉ có 1 Phật thừa được diệt độ thôi. Như Lai biết chí chúng sanh ưa pháp nhỏ, rất ham 5 dục vì hạng người này mà nói Niết bàn.

 3)    VÍ DỤ HOÁ THÀNH : Một đường hiểm dài 500 do tuần đến chỗ trân bảo, 1 đạo sư thông hiểu đường dắt đi qua, nhưng chúng nhân mệt, sợ muốn lui về. Vị đạo sư phương tiện quá 300 do tuần hoá 1 thành lớn rất an ổn. Khi chúng nhân đã được nghỉ ngơi không còn mệt liền bảo: chỗ trân bảo gần đây, thành lớn chỉ là biến hoá để nghỉ ngơi thôi.

 4)    Như Lai cũng vậy “Nếu chúng sanh chỉ nghe 1 Phật thừa thời chẳng muốn thấy Phật… Phật biết tâm chúng sanh khiếp nhược hạ liệt, phương tiện ở giữa đường nghỉ ngơi, nên nói 2 món Niết bàn. Nếu chúng sanh trụ 2 Niết bàn này thì Như Lai nói chỗ tu của những người này chưa xong, và đang gần với huệ của Phật. Niết Bàn đã đặng đó không phải chơn thật, chỉ là phương tiện của Như Lai ở nơi 1 Phật thừa nói thành 3.

 

[1] Asankhyeya

[2] Nayuta = 10 triệu



[3] Ỵojana = 40, 30 hay 16 lý (1 lý = 1 dặm = 444m)

  PHẨM 08

 500 ĐỆ TỬ THỌ KÝ

 

             Tôn giả Mãn Từ Tử cũng muốn được Phật thọ ký

            Phật nói: “Mãn Từ Tử bậc nhất nói pháp trong quá khứ, vị lai. Ở nơi pháp không của chư Phật nói pháp rành rẽ, đầy đủ sức thần thông. Trong ẩn hạnh Bồ Tát, ngoài hành tướng Thanh văn, vì muốn tịnh cõi Phật mà thường làm Phật sự giáo hoá chúng sanh. Do công đức ấy, Đức Phật thọ ký sau thành Phật Pháp Minh, nước tên Thiện Tịnh, đất bằng 7 báu. chúng sanh cõi ấy do biến hoá sanh nên không có nữ, thân thường sáng bay đi tự tại, dùng hai món thức ăn Pháp hỷ thực, Thiền duyệt thực.

             Thế rồi, 1200 vị A La Hán cũng muốn được Phật thọ ký, và Phật thọ ký tuần tự: Kiều Trần Như rồi 500 vị A La Hán kế tiếp.

            500 vị ALH nói: “Chúng con đáng được trí huệ Như Lai mà bèn lấy trí nhỏ cho là đủ. Rồi nói ví dụ : “Hạt châu trong áo.” Đức Phật cũng lại như vậy, lúc làm Bồ Tát giáo hoá, khiến chúng con phát lòng cầu Nhất thiết trí mà chúng con liền bỏ quên không hay không biết. Được A La Hán tự nói là diệt độ, khổ nhọc nuôi sống được chút ít cho là đủ, tất cả trí nguyện vẫn còn chẳng mất. Nay được Phật giác ngộ chúng con mà nói rằng: “Các Tỳ Kheo! Đạo của các ông không phải rốt ráo diệt. Ta từ lâu đã khiến các ông gieo căn lành của Phật, dùng sức phương tiện chỉ tướng Niết bàn mà các ông chưa thiệt diệt độ.”

 

PHẨM 09

 THỌ HỌC VÔ HỌC NHÂN KÝ

 

 

PHẨM 09



THỌ HỌC VÔ HỌC NHÂN KÝ

 Anan và La-hầu-la cùng hai nghìn người tỏ ý mong được Phật thọ ký.

 Đức Phật bảo : “A-nan sẽ thành Phật Sơn hải Huệ Tự tại Thông vương, cúng dường 62 ức Đức Phật, hộ trì tạng Pháp, sau chứng Vô thượng chánh đẳng giác, giáo hóa 20.000 muôn ức hằng hà sa các chúng Bồ Tát… làm cho thành đạo Vô thượng chánh đẳng giác, nước Thường lập thắng phan, thanh tịnh, đất bằng lưu ly, Phật thọ vô lượng muôn nghìn muôn ức A-tăng-kỳ, được vô lường muôn ức hằng hà sa các Đức Phật Như Lai ở 10 phương ngợi khen công đức ngài.

8000 Bồ Tát sơ phát tâm, suy nghĩ : “Mình tu hạnh Bồ Tát chưa được thọ ký mà Phật thọ ký cho hàng Thanh văn, như vậy là lý do gì ? Phật giải thích : Hồi Đức Phật Không Vương, A-nan cùng Đức Phật đồng phát tâm Vô thượng chánh đẳng giác, song A-nan ưa học rộng, còn Phật thì tinh tấn tu hành nên nay ngài thành Phật và A-nan thì còn hộ trì Pháp (Phật Thích ca và các Phật khác trong tương lai và giáo hóa thành tựu các Bồ Tát.

Phật bảo La-hầu-la: “Ông sẽ thành Phật đạo thất bửu hoa, cúng dường vô số Đức Phật trong 10 phương thế giới, cũng làm trưởng tử của các Đức Phật với tâm cầu Phật đạo, tu mật hạnh, cõi nước, thọ mạng, giáo hóa cũng như Phật Sơn hải huệ tự tại thông vương.

Sau này Phật thọ ký cho 2000 hữu học và vô học, cúng dường chư Phật nhiều như số vi trần trong 50 thế giới cũng hộ trì Pháp tạng, sau sẽ thành Phật đồng hiệu là Bửu tướng, tuổi thọ, sự giáo hóa đồng giống nhau. 



PHẨM 10

PHÁP SƯ

 


  1. Phật bảo Dược vương Bồ Tát: “Trong đại chúng đây nếu có người trước Phật hay sau khi Phật diệt độ dù chỉ nghe 1 câu kinh Pháp Hoa mà tuỳ hỉ thì ta cũng thọ ký cho đặng Vô thượng chánh đẳng giác. Nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép kinh Pháp Hoa nhẫn đến 1 bài kệ thì mọi người nên đảnh lễ cúng dường người ấy, vì người ấy:

 -          Trên đã từng cúng dường mười muôn ức Phật.

 -          Vì thương xót chúng sanh mà nguyện sanh trong đời ác trược để rộng nói kinh này.

 -          Hoan hỉ nói Pháp và chúng sanh giây lát nghe Pháp được rốt ráo Vô thượng chánh đẳng giác.

 Những người ấy được Như Lai dùng vai mang vác.

2.    Nếu có người ác tâm, mắng Phật, tội còn nhẹ, nhưng nếu chê mắng người tại gia, xuất gia thì tội rất nặng.


  1. Trong vô số kinh điển trong Qúa khứ, Hiện tại, Vị lai thì Pháp Hoa là bí yếu của chư Phật, khó tin, khó hiểu. Kinh này khi Như Lai hiện thế, còn nhiều kẻ oán ghét, huống là sau khi Như Lai diệt độ; và lúc ấy, người nào mà có thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, cúng dường, vì người khác mà nói thời được Như Lai lấy y trùm, xoa đầu, đựơc các Đức Phật khác hộ niệm cho.

Nơi chỗ nào có nói, đọc, tụng, chép kinh PH thì nên dựng tháp 7 báu cao đẹp mà không cần để xá lợi vì trong đó đã có toàn thân của Như Lai rồi. Người nào thấy và lễ lạy cúng dường tháp này là biết những người đó gần đạo Vô thượng chánh đẳng giác.

 4.    Có nhiều người tại gia xuất gia hành đạo Bồ Tát mà không thấy, nghe, đọc tụng, biên chép thọ trì cúng dường kinh PH là nhân đó chưa khéo tu đạo Bồ Tát. Nếu có chúng sanh được nghe Pháp Hoa, rồi tin hiểu thọ trì thì người đó khéo tu đạo Bồ Tát và gần đạo Vô thượng chánh đẳng giác, ví như người khát tìm nước, vì đạo Vô thượng chánh đẳng giác của Bồ Tát thuộc kinh này, kinh này mở món phương tiện bày tướng chơn thiệt.

Nếu có Bồ Tát nghe Pháp hoa mà kinh sợ thì đó là Bồ Tát mới phát tâm. Nếu Thanh văn nghe Pháp hoa mà kinh sợ thì đó là hạng tăng thượng mạn.

 5.    Nếu có người sau khi Như Lai diệt độ muốn vì hàng Tứ chúng mà nói kinh Pháp Hoa thì người đó phải:

 -          Vào nhà Như Lai: Tâm từ bi lớn đối với chúng sanh.

 -          Mặc y Như Lai: Lòng nhu hoà nhẫn nhục.

 -          Ngồi toà Như Lai: Rộng biết Nhất thiết pháp không.

 Như Lai hộ trì những cuộc thuyết pháp đó: Sai hoá nhân, trời, rồng… đến nghe Pháp; khiến người nói Pháp thấy thân Như Lai; không quên mất câu lời.

 PHẨM 11

HIỆN BỬU THÁP

 

 1.    Tháp 7 báu từ dưới đất nổi lên trụ giữa hư không, và các trời, rồng… rưới hoa cúng dường, ngợi khen tháp báu; rồi từ trong tháp vang ra tiếng khen Phật Thích Ca nói kinh Pháp Hoa là đúng và chơn thật.

 2.    Bồ Tát Đại Nhạo Thuyết từ trong 4 chúng hỏi Phật về nguyên nhân của hiện tượng lạ này? _ Trong tháp này có toàn thân Như Lai, thời quá khứ xa xưa, về phương Đông có cõi nước Bảo Tịnh, Phật hiệu Đa Bảo tu hạnh Bồ Tát có lời thệ nguyện là sau khi diệt độ, nơi nào nói kinh Pháp hoa thì tháp ngài sẽ nổi lên ở trước để nghe kinh và chứng minh.

 3.    Phật Đa Bảo có nguyện rằng khi tháp ngài hiện ra trong hội nghe kinh Pháp hoa thì Đức Phật đang giảng Pháp hoa muốn cho 4 chúng thấy được thân của ngài thì các phân thân của Phật đó đang nói pháp trong 10 phương đều phải tụ hội về 1 chỗ.

4.    Bấy giờ Phật phóng 1 lằn sáng nơi lông trắng giữa chặn mày qua khắp các cõi nước trong 10 phương. Các phân thân Phật thấy hào quang liền quy hội về cõi Ta bà và cõi này liền biến thành thanh tịnh. Các phân thân Phật cùng muốn đồng mở tháp báu, Phật liền từ chỗ ngồi đứng dậy trụ trên hư không dùng ngón tay hữu mở cửa tháp 7 báu làm vang một tiếng lớn. Cả hội chúng thấy Phật Đa Bảo đã diệt độ vô lượng nghìn muôn ức kiếp trước nhưng toàn thân lại không rã mà lại nói lời khen tụng Phật Thích Ca. Cả hội chúng thấy việc chưa từng có đều đem hoa trời rải trên hai Đức Phật. Rồi Phật Đa Bảo mời Phật Thích Ca cùng ngồi vào trong tháp 7 báu. Do sự mong ước của đại chúng, Đức Phật Thích Ca dùng sức thần thông tiếp hàng đại chúng đều ở hư không, và nói to rằng nay là phải lúc cho ai có thể ở cõi Ta bà này mà rộng nói kinh Pháp hoa, vì Như Lai không bao lâu nữa sẽ vào Niết Bàn và muốn đem kinh Pháp hoa này phó chúc cho.

 5.    Phật nói kệ: Người có thể hộ pháp nên phát nguyện lớn, như người nói kinh này là để thấy Phật Thích Ca, Phật Đa Bảo và các vị hoá Phật.

  PHẨM 12

 ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA

 



  1. Phật bảo 4 chúng: “Ta ở trong vô lượng kiếp Quá khứ cầu kinh Pháp hoa không lười mỏi. Trong nhiều kiếp, ta thường làm vua, cầu đạo Vô thượng bồ đề, 6 pháp Ba la mật nên siêng bố thí không tiếc. Nhân dân sống lâu vô lượng. Vua vì mến pháp nên bỏ ngôi, giao việc trị nước cho Thái tử và cho đánh trống ra lịnh cầu pháp khắp 4 phương – ai có thể vì ta nói pháp Đại thừa thì ta sẽ trọn đời cung cấp hầu hạ. Khi ấy có vị tiên nhơn tự giới thiệu là ông có pháp Đại thừa tên Pháp Hoa, nếu vua không trái ý ông thì ông sẽ vì vua mà nói. Vua rất mừng, bèn theo vị tiên ấy trải qua 1000 năm xả thân hầu hạ.

  2. Phật bảo các tỷ kheo rằng: “Vị tiên nhơn thuở xa xưa đó nay chính là Đề bà Đạt đa, vị quốc vương cầu đạo nay chính là ta. Nhờ ông thiện tri thức Đề bà Đạt đa làm cho ta đầy đủ 6 pháp Ba la mật, Từ bi hỉ xả, 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, 10 trí lực, 4 vô uý, 4 nhiếp pháp, 18 bất cộng, thần thông đạo lực, thành bực Chánh đẳng giác.”

  3. Rồi Phật thọ ký cho Đề bà Đạt đa sau thành Phật hiệu Thiên vương, cõi nước trang nghiêm, đẹp đẽ, độ được nhiều chúng sinh. Phật cũng nói rằng, nếu đời sau, ai nghe phẩm Đề bà Đạt đa mà kính tin, không nghi thì không đoạ vào 3 đường ác, sanh vào cõi lành, từ hoa sen sanh.

  4. Bấy giờ Bồ Tát Trí Tích bạch Phật Đa Bảo nên trở về bổn quốc. Phật Thích Ca bảo Trí Tích hãy đợi giây lát có Bồ Tát Văn Thù đến, cùng nhau luận noí pháp mầu rồi sẽ về bổn độ. Lúc ấy, Văn Thù ngồi hoa sen từ cung rồng dưới biển lớn vọt lên trụ giữa hư không, đến núi Linh Thứu kính lạy hai Đức Phật rồi cùng Trí Tích đàm luận. Văn Thù nói ở Long cung ngài hoá độ vô số chúng sinh. Tức thì có vô số Bồ Tát đệ tử Văn Thù, trước là Thanh văn, nay tu nghĩa Không của Đại thừa, ngồi sen báu từ biển vọt lên trụ giữa hư không.

  5. Bồ Tát Văn Thù dạy kinh Pháp hoa ở biển. Trí Tích hỏi Văn Thù là có chúng sinh nào siêng năng tu hành kinh này mà mau thành Phật không? Văn Thù nói có con gái Long vương 8 tuổi căn tánh lanh lẹ, có trí tuệ, trong khoảng sát na phát tâm bồ đề được bực bất thối chuyển. Trí Tích không tin, vì ngay cả Phật Thích Ca cũng phải trải qua vô lượng kiếp hành Bồ Tát đạo mới thành Phật.

  6. Bấy giờ Xá Lợi Phất cũng không tin Long nữ trong phút chốc chứng được đạo vô thượng, vì thân gái nhơ uế và có 5 điều chướng – không được Phạm thiên vương, Đế thích, Ma vương, Chuyển luân thánh vương và Phật.

  7. Lúc đó, Long nữ cúng dường Đức Phật 1 hột châu quý, Phật liền nhận. Long nữ nói với Trí Tích và Xá Lợi Phất rằng cô ta sẽ thành Phật mau hơn thời gian mà Đức Phật nhận hạt châu. Tức thì, Long nữ thoạt nhiên biến thành nam tử, đủ hạnh Bồ Tát, liền qua cõi Vô cấu ở phương Nam, ngồi toà sen báu thành bực Chánh đẳng giác đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, khắp vì tất cả chúng sinh trong 10 phương mà nói pháp mầu.

 PHẨM 13

 TRÌ

 


  1. Lúc ấy hai Bồ Tát Dược vương và Đại nhạo thuyết cùng hai muôn Bồ Tát trước Phật thệ nguyện sẽ truyền bá kinh Pháp hoa cho chu1ng sinh đời sau dù họ căn lành ít, nhiều tật xấu ác. 500 A La Hán và 8000 hữu học vô học được thọ ký cũng phát nguyện đời sau truyền bá kinh Pháp Hoa nhưng ở cõi khác không ở Ta bà vì cõi này nhiều điều tệ ác.

  2. Khi đó hai vị lãnh đạo ni giới Kiều đàm di, Gia du đà la và 6000 Tỷ kheo ni hữu học, vô học được Phật thọ ký và họ cũng phát nguyện rộng nói kinh Pháp Hoa ở cõi khác.

  3. Và 80 muôn ức na do tha Bồ Tát bất thối chuyển đứng lên phát nguyện đi khắp 10 phương thế giới đem kinh Pháp Hoa giáo hóa chúng sinh, chẳng mến thân mạng, chỉ tiếc đạo vô thượng.

 PHẨM 14

AN  LẠC  HẠNH

 Phật bảo Văn Thù là các đại Bồ Tát ở đời ác sau muốn nói kinh này phải an trụ trong 4 pháp:



  1. Hành xứ: An trụ trong nhẫn nhục, hòa dịu, chẳng kinh sợ, quán thật tướng của các pháp mà không phân biệt.

  2. Thân cận xứ:

    • Không gần gũi vua quan, ngoại đạo, nghệ sĩ, người sống nghề ác, Thanh văn, nữ giới, bán nam; đối với những người này nếu cần nói pháp thì lòng không mong cầu (thân cận). Nếu cần riêng một mình vào nhà người thì chuyên một lòng niệm Phật. Không nuôi đệ tử Sa di nhỏ tuổi hoặc cùng chúng đồng một thầy. Thường ưa ngồi thiền ở chỗ vắng tu nhiếp tâm.

    • Quán tất cả pháp không như thiệt tướng, chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển, như hư không, không có thật tánh, tất cả lời nói phô dứt, chẳng sinh, chẳng hiện, chẳng khởi, không danh, không tướng, chỉ do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sanh.

  3. Hạnh an lạc: Chẳng nói lỗi của ngưới và kinh, chẳng khinh mạn các pháp sư khác, chẳng nói việc hay dỡ tốt xấu của ngưới khác. Đối với hàng Thanh văn không khen, không chê.

    Chăng sanh tâm oán hiềm. Dùng pháp Đại thừa giải nói làm cho được Nhất thiết chủng trí.

Không ôm lòng ganh ghét, khinh mắng người học Phật đạo, nói họ cách đạo rất xa. Chẳng nên hý luận các pháp. Đối với tất cả chúng sanh phải khởi đại bi và bình đẳng nói pháp. Đối với các Như Lai, Bồ Tát phải tưởng kính lễ lạy. Thuận theo pháp chẳng nói nhiều – ít, ngay người rất ưa pháp cũng chẳng nói nhiều.



  1. Khởi đại từ bi tâm: Sanh lòng từ đối với người tại gia, xuất gia, sanh lòng bi lớn đối với người chẳng phải Bồ Tát nhưng nguyện dẫn dắt họ dù họ không hiểu không tin.

Người thành tựu 4 pháp này thì lúc nói pháp không có lầm lỗi. Kinh này được sức thần của chư Phật gìn giữ rốt sau mới ban cho. Ví như Chuyển luân vương ban thưởng cho những người có công đánh giặc những thứ như ruộng đất vàng bạc nhưng chỉ trao viên minh châu ở búi tóc cho người có công lớn. Cũng vậy, các tướng hiền thánh của Như Lai có công được ban các pháp thiền định, giải thoát, vô lậu căn lực, Niết bàn nhưng khi thấy quân tướng có công lớn, diệt 3 độc, khỏi 3 cõi, phá lưới ma (5 ấm, phiền não, chết) Như Lai mới ban cho kinh Pháp Hoa. Kinh này là tạng bí mật của chư Phật, đứng đầu các kinh, nay mới bày nói.

 Phẩm 15



TÙNG ĐỊA DÕNG XUẤT

 



  1. Bấy giờ các đại Bồ Tát ở cõi khác đông hơn số cát 8 sông Hằng bạch Phật xin, sau khi Phật diệt độ, được ở cõi Ta bà để truyền bá kinh Pháp Hoa. Nhưng Phật từ chối vì ở cõi Ta bà đã có đại Bồ Tát số đông bằng cát của 6 muôn sông Hằng (mỗi Bồ Tát lại có 6 muôn Hằng hà sa quyến thuộc) có thể hộ trì, đọc tụng rộng nói kinh này.

  2. Tức thì trong lòng đất của cõi Ta bà trong tam thiên đại thiên vọt lên vô lượng nghìn muôn ức đại Bồ Tát (cùng vô số quyến thuộc) thân sắc vàng, đủ 32 tướng tốt cùng vô lượng ánh sáng, trụ giữa hư không. Tất cả đến tháp 7 báu, đảnh lễ và khen ngợi hai Thế tôn, thời gian đó trải qua 50 tiểu kiếp. Nhưng do sức thần của Phật khiến tứ chúng cho là như nửa ngày và thấy vô lượng Bồ Tát khắp vô lượng cõi nước hư không.

  3. Trong chúng Bồ Tát có 4 đạo sư – Thượng Hạnh, Vô Biên Hạnh, Tịnh Hạnh và An Lập Hạnh – đồng chấp tay hỏi thăm sức khỏe Thế tôn. Thế tôn trả lời Thế tôn được an vui, ít bịnh, ít não, các hàng chúng sinh hóa độ được dễ không nhọc mệt. Các chúng sinh đó từ nhiều đời, đã từng ở các Phật quá khứ, từng được Ngài dạy bảo, nay nghe pháp liền được tín nhận và vào được trong huệ của Như Lai.

  4. Khi ấy Bồ Tát Di Lặc và 8000 Bồ Tát ở phương khác khởi nghi về việc vô số Bồ Tát từ đất vọt lên và mong Thế tôn trả lời. Thế tôn nói khi Ngài ở cõi Ta bà lúc được Vô thượng chánh đẳng giác đã giáo hóa chỉ dẫn các Bồ Tát đó phát tâm. Các Bồ Tát đó ở phía dưới cõi Ta bà (cõi đó trụ giữa hư không), thông lẹ kinh điển, nghĩ tưởng chơn chánh. Các Thiện nam tử đó chẳng thích trong chúng bàn nhiều, thường ưa chỗ vắng, siêng tu tinh tấn, chẳng nương tựa người trời mà ở, thường ham trí huệ sâu không có chướng ngại, cầu huệ vô thượng.

  5. Khi ấy Bồ Tát Di Lặc cùng vô số Bồ Tát sinh nghi hoặc, bạch Phật: “Làm sao Thế tôn trong thời gian rất ngắn, hơn 40 năm, mà có thể giáo hóa vô lượng đại Bồ Tát đã từng rất lâu xa trong quá khứ. Việc như thế đời rất khó tin. Ví như có người sắc đẹp, tóc đen, tuổi 25 chỉ người 100 tuổi nói là con của ta. Người 100 tuổi nọ cũng chỉ gã tuổi nhỏ, nói là cha ta.”

PHẨM 16

NHƯ LAI THỌ LƯỢNG

1.    Phật 3 lần bảo đại chúng phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai, và đại chúng Bồ Tát 3 lần đáp lại là hứa sẽ tin lời Phật.

 2.    Phật bảo tất cả trong đời, trời người đều cho rằng Phật là Thái từ Siđhattha rời cung vua Tịnh Phạn xuất gia tu hành thành Phật dưới gốc cây Bồ đề. Nhưng thiệt ta thành Phật nhẫn laị đây; đã vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức na do tha kiếp thường còn chẳng mất. Từ đó đến nay, ta thường ở cõi Ta bà này nói pháp, dắt dẫn lợi ích chúng sanh. Vì sao? Vì Như Lai đúng như thật, thấy biết tướng của tam giới không có sanh tử, chẳng phải thật – hư, chẳng phải như – dị, chẳng phải như 3 cõi mà thấy nơi 3 cõi.

3.    Đối với chúng sanh ưa pháp Tiểu thừa, Phật dùng phương tiện nói rằng: “Ta lúc trẻ xuất gia được Vô thượng chánh đẳng giác và nay chẳng phải thiệt diệt mà nói sẽ diệt độ và nói các Đức Phật ra đời khó gặp để chúng sanh nghe vậy, sinh lòng khát ngưỡng mà lo tu hành.

4.    Ví dụ lương y có đàn con uống lầm thuốc độc liền sắc thuốc cho các con uống. Những đứa không thất tâm liền uống và khỏi bịnh, nhưng những đứa thất tâm thì không chịu uống vì độc đã thâm nhập. Người cha bèn bày phương tiện đi xa và giải chết. Các con tự nghĩ mình nay côi cút, không chỗ cậy nhờ, bèn tỉnh ngộ, lấy thuốc uống và lành bịnh. Người cha nghe các con đều đã lành bịnh, liền trở về cho cho các con đều thấy. Vị lường y đó không mắc bịnh hư dối.

PHẨM 17

PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC

 

 Người nhận ra Tri kiến Phật nơi mình thì công đức không thể tính kể, lớn hơn các hạnh tu khác như giới, bố thí…

 1.    Trong hội chúng nghe Phật nói thọ mạng lâu dài như thế thì vô số chúng sinh được lợi ích lớn: 1. Vô sinh Pháp nhẫn, 2. Văn trì Đà la ni, 3. Nhạo thuyết vô ngại biện tài, 4. Triền Đà la ni, 5. Pháp luân bất thối, 6. Pháp luân thanh tịnh, 7. Vô thượng chánh đẳng giác.

 2.    Lúc ấy giữa hư không có hoa rưới (3 thân) Phật Đa Bảo, Thích Ca và đại chúng. Lại rưới bột gỗ Chiên đàn, hương thơm; trống trời, tiếng ca của Bồ Tát ở tận trời Phạm Thiên.

 3.    Phật bảo Bồ Tát Di Lặc: Có chúng sinh nào nghe Phật thọ mạng dài lâu như thế, nhẫn đến sanh một niệm tín giải, được công đức vô hạn. Nếu có người nào tu 5 Ba la mật trước trong 80 muôn ức na do tha kiếp cũng không thể sánh được với một phần trăm nghìn công đức trước. Người như thế mà thối thất là không thể có được.

 4.    Người sinh lòng tin hiểu này thấy Phật đang thuyết pháp ở núi Linh Thứu, lại thấy cõi Ta bà này đất bằng lưu ly, dây vàng, cây báu…

 5.    Sau khi ta diệt độ nếu có người thọ, trì, đọc tụng, giải nói (kinh Pháp Hoa) thì chẳng cần tạo dựng chùa, tháp, tăng phòng cúng dường tăng chúng. Huống có người lại tu hạnh 6 Ba la mật thì công đức này thật vô biên. Chỗ của người này, hoặc ngồi, đi, đứng, tất cả trời người đều phải cúng dường như tháp của Phật.



PHẨM 18

TÙY HỶ CÔNG ĐỨC

 

1.    Bồ Tát Di Lặc bạh Phật, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh Pháp Hoa này mà tùy hỷ thì được bao nhiêu phước đức?



          Phật bảo, người nghe kinh này mà tùy hỷ rồi đem pháp đúng như chỗ đã nghe mà tùy sức diễn nói cho người thứ hai, rồi người thứ hai này lại diễn nói cho người thứ ba, cứ như thế cho đến người thứ 50.

          Rồi Phật ví có vị đại thí chủ bố thí tất cả đồ vui thích cho 6 đường chúng sinh trong 400 ức vô số thế giới, lại khiến được quả A la hán thì công đức của người này chẳng bằng 1/100.000 của ngưới thứ 50 kia nghe 1 bài kệ kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ.

          Người thứ 50 mà công đức tùy hỷ còn vô lượng vô biên A tăng kỳ huống là người đầu tiên.

 2.    Rồi Phật nói công đức của người vì kinh Pháp Hoa mà ngồi, đứng nghe nhận trong chốc lát, hoặc nhường chỗ, mời ngồi nghe kinh thì được sanh lên cõi trời, được chỗ ngồi của Đế Thích, Phạm Thiên, được căn tánh lanh lẹ, có trí tuệ, trán, mày, mũi, miệng răng lưỡi đều được tướng tốt đầy đủ. Khuyên người nghe pháp mà công đức như thế, huống là thọ trì đọc tụng giải nói, giúp người đúng như lời dạy mà tu hành.

 PHẨM 19

PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC

Phật bảo Thường Tinh Tấn Đại Bồ Tát: Thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ trì đọc tụng giải nói, biên chép Pháp hoa sẽ được 800 công đức ở mắt, 1200 ở tai, 800 ở mũi, 1200 ở lưỡi, 800 ở thân, 1200 ở ý, dùng những công đức này trang nghiêm 6 căn đều được thanh tịnh.



  1. Vị đó dùng thân thanh tịnh của cha mẹ sanh thấy khắp cõi tam thiên đại thiên, dừ dưới địa ngục A Tỳ, trên đến trời Hữu Đảnh, thấy biết tất cả nghiệp nhân duyên quả báo của chúng sinh ở trong ấy.

  2. Vị đó dùng tai nghe biết tất cả thứ tiếng ở địa ngục cũng như ở các cõi Phật.

  3. Vị đó dùng mũi ngửi biết rõ tất cả các thứ mùi hương của cỏ cây vô tình và của hữu tình, trời, Phật.

  4. Vị đó biến tất cả vị ngon, dỡ thành vị ngon như vị cam lồ trên trời, khéo nói Pháp làm cho đại chúng, chư thiên đến cung kính cúng dường và ngay cả các Đức Phật thường ưa thấy và xoay về người này để nói Pháp.

  5. Vị đó thân thanh tịnh trong sạch nên dưới từ địa ngục A Tỳ lên đến trời Hữu Đảnh cảnh vật cùng chúng sinh đều hiện rõ trong đó. Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát cùng chư Phật nói Pháp đều hiện sắc tượng trong ấy.

Vị đó dầu chưa được trí huệ vô lậu mà dùng ý thanh tịnh nhẫn nghe 1 câu kệ thì có thể thấu suốt vô lượng vô biên nghĩa và diễn nói đến 1 câu văn mà nghĩa thú không trái với thiệt tướng. Tất cả suy nghĩ, tính toán đều là Phật pháp và biết được tâm của 6 đường chúng sinh

 PHẨM 20



THƯỜNG BẤT KHINH BỒ TÁT

 Phật bảo Đắc đại thế Bồ Tát ai thọ trì kinh Pháp hoa thì được 6 căn thanh tịnh, ngược lại, ai chê bai Pháp Hoa thì mắc tội báo lớn. Thuở xa xưa có Phật Oai âm vương nước Đại Thành, cũng thuyết pháp Tứ đế, 12 nhân duyên, 6 Ba la mật, sống lâu 40 ức na do tha hằng hà sa kiếp, chánh pháp – tượng pháp trụ ở đời kiếp số như số vi trần trong 1 Diêm phù đề và 4 châu thiên hạ. Sau khi chánh pháp – tượng pháp diệt hết, cõi nước đó lại có thứ lớp 2 muôn ức Đức Phật cùng hiệu Oai âm vương ra đời.

Sau khi Oai âm vương và chánh pháp diệt, trong thời tượng pháp những tỷ kheo tăng thượng mạn có thế lực lớn. Bấy giờ có tỷ kheo tên Thường bất khinh chuyên đọc tụng chỉ đi lễ lạy phán thấy bất kỳ ai trong bốn chúng đều nói rằng: “Tôi chẳng dám khinh quí ngài, quí ngài đều sẽ thành Phật”, dầu ổng có bị mắng nhiếc, bị đánh ném bởi gậy, cây, ngói và đá.

Vị tỷ kheo đó lúc sắp chết nghe trọn 20.000 muôn ức bài kệ kinh Pháp hoa của Oai âm vương Phật liền 6 căn được thanh tịnh và được sống thêm 200 muôn ức na do tha tuổi và rộng vì người nói kinh Pháp hoa. Các hàng Tăng thượng mạn trước đây nay nghe pháp đều tin phục. Bồ Tát Thường bất khinh giáo hoá vô số chúng trụ trong Vô thượng chánh đẳng giác, sau khi mạng chung được gặp 2000 Đức Phật hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh  và lại gặp 2000 Đức Phật Vân tự tại đăng vương, cũng ở trong pháp hội các Đức Phật nói kinh Pháp Hoa, nhờ công đức viên mãn ấy mà được làm Phật.

Thường bất khinh thuở đó nay chính là ta (Thích ca), vì nhờ thọ trì và giải nói cho người khác mà mau được Vô thượng chánh đẳng giác.

Thuở đó bốn chúng giận hờn, khinh miệt ta nên 200 ức kiếp chẳng gặp Phật – Pháp – Tăng, 1000 kiếp ở địa ngục A Tỳ chịu khổ não lớn. Hết tội đó lại gặp Thường bất khinh Bồ Tát giáo hoá cho thành đạo Vô thượng chánh đẳng giác



PHẨM 21

NHƯ LAI THẦN LỰC

Lúc bấy giờ vô số Bồ Tát từ dưới đất vọt lên bạch Phật, sau khi Phật diệt độ và ở nơi cõi nước phân thân Phật diệt độ chúng con sẽ đến để giáo hoá kinh Pháp hoa.

Lúc đó, Thế Tôn trước đại chúng hiện sức thần thông lớn bày tướng lưỡi rộng dài đến trời Phạm Thế, tất cả lỗ chân lông phóng ra vô số tia sáng soi khắp cõi nước trong mười phương. Các phân thân Phật cũng vậy.

Đức Phật và phân thân Phật hiện sức thần thông mãn 100.000 năm mới thu nhiếp tướng lưỡi, đồng thời tằng hắng và khảy móng tay, hai tiếng đó vang khắp đến cõi nước của các Đức Phật trong mười phương, đất đều rung động. Rồi đại chúng nhờ sức thần của Phật đều thấy trong cõi Ta bà: vô số phân thân Phật, Phật Thích ca và Phật Đa bảo. Tức thời chư thiên giữ hư không xướng rằng: ở cõi Ta bà nay có Phật Thích ca vì các đại Bồ Tát nói kinh Pháp hoa, các ông phải tuỳ hỷ lễ cúng Đức Phật Thích ca. Các chúng sinh nghe liền vãi vào cõi Ta bà vô số hương hoa trân báu. Bấy giờ mười phương cõi nước thông đạt không ngại như một cõi Phật.

Khi đó Phật bảo: Mọi thần lực mà Phật hiện, tuy nói là bất khả tư nghì, song nếu đem vô số thần lực đó mà phó chúc và nói về công đức của Pháp hoa vẫn không hết được.

PHẨM 22

CHÚC LUỴ

Phật ba phen xoa đảnh các vị Bồ Tát mà căn dặn: Ta ở trong vô lượng trăm nghìn muôn ức kiếp, tu tập pháp Vô thượng chánh đẳng giác, nay đem phó chúc cho các ông, các ông phải thọ trì, đọc tụng rộng tuyên nói pháp này cho tất cả chúng sinh đều được nghe biết. Như Lai từ bi lớn, không bỏn xẻn, có thể cho chúng sinh trí huệ Phật. Nếu có chúng sinh nào chẳng tin nhận thời phải ở trong pháp sâu khác của Như Lai chỉ dạy, nếu được như thế là đã báo được ơn của các Đức Phật.

Lúc đó, các vị Bồ Tát ba phen hứa: như lời Thế tôn dạy, chúng con sẽ vâng làm đầy đủ, kính xin đức Thế tôn chớ có lo. Rồi Phật khiến các phân thân Phật đều trở về bổn xứ và xin Phật Đa bảo mang tháp về chỗ cũ.

Thính chúng nghe Phật phó chúc, tất cả đều rất mừng.



PHẨM 23

DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT BỔN SỰ

Bấy giờ, Tú vương hoa Bồ Tát bạch Phật giải nói hạnh của Bồ Tát Dược vương.

Phật nói, thuở trước có Phật Nhật nguyệt tịnh minh đức ra đời có đông đệ tử Bồ Tát, Thanh văn; quốc độ ngài trang nghiêm đẹp quí, có nhiều cây báu là nơi ngồi thiền của các đệ tử.

Bấy giờ, Đức Phật đó thuyết kinh Pháp hoa cho đại chúng. Trong chúng có Bồ Tát Nhất thiết chúng sinh hỷ kiến ưa tu khổ hạnh, tinh tấn kinh hành và được “Hiện nhất thiết sắc thân tam muội”. Ngài rất vui mừng vì được định này là nhờ nghe kinh Pháp hoa, và ngài phát tâm cúng dường Phật Nhật nguyệt tịnh minh đức và kinh Pháp hoa bằng cách nhập định, rưới những hương hoa quí. Nhưng chưa mãn nguyện, ngài lại ướp hương vào thân dùng sức nguyện thần thông mà tự đốt. Khi ấy Đức Phật mười phương khen đấy là chơn thiệt tinh tấn gọi là Chơn pháp cúng dường Như Lai, các hương hoa quí cúng dường hay quốc thành thê tử bố thí cũng chẳng bằng.

Sau khi đốt thân cúng dường xong thì Bồ Tát Nhất thiết chúng sinh hỉ kiến lại sanh trong nước của Phật Nhật nguyệt tịnh minh đức, được Đức Phật này giao phó Phật pháp, đệ tử, của cải. Đêm đó Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức nhập Niết bàn, và xá lợi được thờ trong 84.000 tháp. Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỉ Kiến lại đốt hai ngón tay cúng dường xá lợi Phật. Sau khi đốt tay, Bồ Tát thề rằng: “Tôi bỏ hai tay ắt sẽ được thân sức vàng của Phật, nếu thiệt không dối thời khiến hai tay tôi hoàn phục như cũ”. Nói lời thề xong, hai tay tự nhiên hoàn phục. Khi ấy cõi Tam thiên đại thiên thế giới sáu điệu vang động, trời rưới hoa báu.

Bồ Tát Chúng sinh hỉ kiến nay chính là Dược vương Bồ Tát. Đức Phật nói Tú vương hoa Bồ Tát muốn được đạo Vô thượng chánh đẳng giác có thể đốt một ngón tay, một ngón chân để cúng dường tháp Phật hơn là đem quốc thành, thê tử, tam thiên đại thiên mà cúng dường. Nếu có người đem bảy báu đầy cõi Tam thiên đại thiên cúng dường Phật thì công đức người đó chẳng bằng người thọ trì một bài kệ bốn câu của kinh Pháp hoa.

Đức Phật nói Tú vương hoa rằng, trong các kinh thì Pháp hoa: sâu lớn (biển), cao nhất (núi), sáng nhất (trăng hơn sao), phá tối tăm (mặt trời), tôn kính nhất (Chuyển luân vương), vua các kinh (Phật đối với các pháp, Đế thích đối với Tam thập tam thiên), cha của tất cả hiền thánh (Đại phạm thiên vương).

Tú vương hoa, kinh này có thể cứu tất cả chúng sinh ra khỏi khổ ách sanh tử, làm thoả mãn mọi mong cầu của chúng. Người thọ trì kinh Pháp hoa thì trí huệ Phật cũng không thấy hết được công đức của kinh Pháp hoa.

Tú vương hoa, nếu có người nghe phẩm Dược vương Bồ Tát bổn sự này cũng được vô lượng công đức. Người nữ nghe, thọ trì phẩm này thì sau khi dứt báo thân đàn bà thì không còn thọ lại nữa. Không còn bị khổ bởi tham, sân, si, mạn. Được vô sinh pháp nhẫn, nhãn căn thanh tịnh thấy bảy trăm hai muôn nghìn ức na do tha các Đức Phật.

Bấy giờ các Đức Phật đồng nói khen rằng Tú vương hoa nay có thể thọ trì đọc tụng và vì người khác nói Pháp hoa thì công đức vô lượng, lửa chẳng đốt được, nước chẳng trôi được, được trăm nghìn Đức Phật bảo vệ.

Ai nghe phẩm Dược vương Bồ Tát bổn sự này mà tuỳ hỉ khen ngợi thì hiện tại miệng, thân được hương thơm.

Tú vương hoa phải lưu bố phẩm này, giữ gìn kinh Pháp hoa vì kinh này là hương dược của người bịnh, khiến bịnh tiêu tan, không già chết. Người thọ trì kinh này sẽ ngồi đạo tràng, độ chúng sinh ra khỏi sinh tử và mọi người nên cúng dường.

Lúc Đức Phật nói phẩm này có 84.000 Bồ Tát được phép “Giải nhất thiết chúng sinh ngữ ngôn đà la ni”.

PHẨM 24

DIỆU ÂM BỒ TÁT

 

Bấy giờ Phật Thích ca phóng ánh sáng từ nhục kế và lông tráng giữa chặn mày soi khắp 800 muôn ức na do tha hằng sa các cõi Phật ở phương Đông, trong ấy có một thế giới tên Tịnh quang trang nghiêm của Phật Tịnh hoa tú vương trí.



Trong nước Nhất thiết tịnh quang trang nghiêm có Bồ Tát Diệu âm nhờ từ lâu đã trồng công đức, cúng dường gần gũi vô lượng các Đức Phật nên được trí huệ rất sâu và được vô số các tam muội. Khi nhận được ánh sáng của Phật Thích ca thì Bồ Tát Diệu âm xin phép Phật Tịnh hoa tú vương trí để đến cõi Ta bà lễ lạy Phật Thích ca cùng ra mắt một số Bồ Tát. Đức Phật Tịnh hoa tú vương trí bảo Bồ Tát Diệu Âm với hình tướng cao sang đẹp của mình chớ có sinh lòng khinh khi cõi Ta bà dơ xấu hạ liệt, và Bồ Tát đã trả lời rằng ngài qua cõi Ta bà là nhờ sức thần, công đức trí huệ của Như Lai.

Bồ Tát Diệu âm dùng sức thần tam muội hiện ra ở núi Kỳ xà quật hoá ra 84.000 hoa sen báu. Được hỏi về điềm lành này Phật Thích ca bảo Bồ Tát Văn Thù rằng Bồ Tát Diệu âm sắp đến. Bồ Tát Văn Thù lại hỏi do nhân duyên gì mà Bồ Tát Diệu âm được sức đại thần thông như vậy và yêu cầu được thấy thân tướng của Bồ Tát này thì Phật Thích ca bảo rằng, Đức Phật Đa bảo sẽ giúp làm hiện bày thân tướng của Bồ Tát Diệu âm.

Bấy giờ Bồ Tát Diệu âm vào trong đài thất bảo cùng 84.000 Bồ Tát đồng nhau qua cõi Ta bà (6 điện, sen báu, thiên nhạc tự trỗi, Bồ Tát Diệu âm mặt như sen xanh lớn, mắt sáng hơn 100 nghìn ánh trăng, thân sắc vàng) cúng dường chuỗi ngọc và vấn an về Phật Thích ca cùng việc đời ở cõi Ta bà và gặp Phật Đa bảo.

Khi ấy Bồ Tát Hoa đức bạch Phật, do tu công đức gì mà Diệu âm Bồ Tát có sức thần thông như thế. Phật bảo rằng thuở quá khứ Diệu âm Bồ Tát cúng dường 100.000 kỷ nhạc và 84.000 bát bảy báu cho Đức Phật Vân lôi âm vương, do vậy mà có quả báo sức thần ở nước Đức Phật Tịnh hoa tú vương trí. Bồ Tát Diệu âm hiện các thứ thân hình khắp mọi nơi vì chúng sinh mà nói kinh Pháp hoa, cứu gíup vô lượng chúng sinh tai qua nạn khỏi và được vậy là nhờ trụ trong “Hiện nhất thiết sắc thân tam muội”.

Làm Phật sự xong, Bồ Tát Diệu âm trở về bổn quốc, 84.000 Bồ Tát theo ngài và 84.000 Bồ Tát ở cõi Ta bà đều được “Hiện nhất thiết sắc thân tam muội” và 42.000 thiên tử được vô sanh pháp nhẫn khi Phật nói phẩm “Diệu âm Bồ Tát lai vãng” này.

PHẨM 25

QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN

Bấy giờ Bồ Tát Vô tận ý bạch Phật do nhân duyên gì mà Bồ Tát Quán thế âm có tên như vậy. Phật bảo rằng, vô lượng chúng sinh chịu các khổ não khi xưng danh Quán thế âm thì Bồ Tát này tức thời xem xét âm thanh kia mà tất cả đều được giải thoát khỏi lửa lớn, nước lớn, nạn quỉ La sát, dao gậy gãy, xiềng xích đứt rã, người buôn thoát khỏi oán tặc nhờ pháp vô uý thí, lìa dâm dục, giận hờn, ngu si, cầu được con trai, con gái.

Người niệm và cúng dường vô số Bồ Tát khác và người niệm danh hiệu Quán thế âm thời phước đức hai người bằng nhau không khác.

Bồ Tát Vô tận ý bạch Phật, Bồ Tát Quán thế âm dạo đi trong cõi Ta bà như thế nào? sức phương tiện, việc đó thế nào? Phật bảo, nếu có chúng sinh nào đáng dùng thân nào để độ thoát thì Bồ Tát Quán thế âm liền hiện thân đó mà nói pháp, thân: Phật, Duyên Giác, Thanh Văn, Phạm Vương, Chư Thiên, Tiểu Vương, Trưởng Gỉa, Bà La Môn, Tỷ Kheo, Nam, Nữ… Bồ Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô uý cho nên cõi Ta bà này đều gọi ngài là vị “Thí vô uý”.

Bấy giờ Bồ Tát Vô tận ý cúng dường Bồ Tát Quán thế âm xâu chuỗi ngọc báu. Bồ Tát Quán thế âm ban đầu không nhận nhưng vì Phật dạy nên Bồ Tát đã vì lòng thương Bồ Tát Vô tận ý và tứ chúng mà nhận chuỗi ngọc đó. Bồ Tát Quán thế âm lại chia hai chuỗi ngọc này và dâng cúng Phật Thích ca và tháp Đa bảo.

Bấy giờ ngài Trì địa Bồ Tát bạch Phật, nếu có chúng sinh nào nghe phẩm Quán thế âm Bồ Tát này đạo nghiệp tự tại, phổ môn thị hiện sức thần thông này, thời phải biết công đức người đó chẳng ít.



PHẨM 26

ĐÀ LA NI

 

Bấy giờ Dược vương Bồ Tát bạch Phật và được trả lời rằng, những ai ở nơi kinh Pháp hoa mà thọ trì đọc tụng giải nghĩa nhẫn đến bài kệ bốn câu, đúng như lời mà tu hành thì công đức rất nhiều.

Lúc đó Dược vương Bồ Tát đọc thần chú Đà la ni của chư Phật để ủng hộ vị Pháp sư.

Và Dõng thí Bồ Tát cũng đọc thần chú Đà la ni của chư Phật để ủng hộ khiến cho những loài dị nhân không tìm được khuyết điểm của Pháp sư.

Bấy giờ Tỳ sa môn thiên vương, Trì quốc thiên vương cũng nói chú để ủng hộ Pháp sư khiến không gặp các tai hoạ.

Những La sát nữ cũng nói chú ủng hộ Pháp sư, làm cho an ổn, lìa các khổ hoạn, tiêu các thuốc độc.

Phật khen những người ủng hộ Pháp sư như thế.

Lúc nói phẩm Đà la ni này có 68.000 người được vô sanh pháp nhẫn.

 

PHẨM 27



DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BỔN SỰ

Bấy giờ Phật bảo đại chúng, thuở xưa trong pháp hội của Phật Vân lôi âm tú vương hoa trí có vị vua Diệu trang nghiêm và phu nhân Tịnh đức có hai con: Tịnh tạng và Tịnh nhãn. Hai người con này có sức thần thông lớn, phước đức trí huệ từ lâu tu tập đạo hạnh của Bồ Tát (6 Ba la mật, phương tiện, từ bi hỉ xả, 37 phẩm trợ đạo và thấu suốt các tam muội của Bồ Tát).

Lúc đó, Đức Phật kia nói kinh Pháp hoa độ vua và chúng sinh. Hai người con thỉnh mẹ đi nghe pháp. Mẹ bảo, cha các con theo ngoại đạo Bà la môn, các con nên thưa vói vua cha để cùng nhau đi. Hai người con than: “chúng con là Pháp vương tử mà lại sanh vào nhà tà kiến này”.

Lúc ấy hai người con thương vua cha nên bay lên hư không, hiện các món thần biến khiến nhà vua vui mừng, khâm phục và được biết Phật Vân lôi âm tú vương hoa trí là thầy của hai hoàng tử. Vua cha đồng ý đến nghe pháp. Lúc ấy hai vương tử xin phép và được mẹ đồng ý cho xuất gia, vì Phật khó gặp.

Lúc đó, nơi hậu cung của vua Diệu trang nghiêm có 84.000 người thảy đều có thể kham thọ trì kinh Pháp hoa. Tịnh nhãn từ lâu đã thông đạt “Pháp hoa tam muội”. Tịnh tạng vô lượng kiếp “ly chư ác thú tam muội”. Phu nhân được “Chư Phật tập tam muội” biết tạng pháp bí mật của chư Phật.

Vua rất vui mừng cùng quần thần, phu nhân, hai thái tử đến chỗ Phật nghe pháp.

Vua cùng phu nhân phát tâm cúng dường chuỗi ngọc, chuỗi ngọc biến thành đài báu, trên đài báu có Phật ngồi xếp bằng phóng hào quang.

Bấy giờ Đức Phật Vân lôi âm tú vương hoa trí thọ ký cho vua được làm Phật hiệu Ta la thọ vương.

Vua Diệu trang nghiêm liền đem nước giao cho em, rồi cùng cả nhà và quyến thuộc xuất gia tu hành. Vua được “Nhất thiết tịnh công đức trang nghiêm tam muội” liền bay lên hư không bạch Phật rằng nhà vua nay được  thấy Phật là nhờ hai thái tử là những thiện tri thức của vua. Nhà vua từ nay chẳng tự theo tâm hành của mình sanh những lòng ác: kiêu mạn, giận hờn, tà kiến.

Phật bảo đại chúng, vua nay là Hoa đức Bồ Tát, Tịnh đức phu nhân là Quang chiếu trang nghiêm tướng Bồ Tát, Tịnh nhãn là Dược vương Bồ Tát, Tịnh tạng là Dược thượng Bồ Tát. Công đức của hai Bồ Tát Dược vương và Dược thượng rất lớn, các ngươi nên lễ lạy.

Khi Phật nói phẩm này có 84.000 người xa trần luỵ và cấu nhiễm, chứng được Pháp nhãn tịnh.

PHẨM 28

PHỔ HIỀN BỒ TÁT KHUYẾN PHÁT

 

Bấy giờ Phổ hiền Bồ Tát dùng sức thần thông tự tại oai đức danh văn, cùng vô số Bồ Tát và đại chúng đến Ta bà để nghe Phật thuyết Pháp hoa và bạch Phật: Sau khi Phật diệt độ, những thiện nam tử, nữ nhân làm sao có thể được kinh Pháp hoa?



Phật bảo, phải thành tựu bốn pháp: 1) được các Đức Phật hộ niệm, 2) trồng các cội công đức, 3) vào trong chánh định, 4) phát lòng cứu tất cả chúng sinh.

Ngài Phổ hiền bạch Phật, 500 năm sau trong đời ác trược nếu có người thọ trì kinh Pháp hoa thì ngài cỡi tượng vương trắng 6 ngà cùng chúng đại Bồ Tát đến hộ trì, giúp người ấy được tam muội và chú đà la ni khiến họ thông thuộc kinh Pháp hoa và không bị loài phi nhân và nữ nhân phá hoại được.

Nếu có ai thọ trì thì đó là sức oai thần của Pháp hoa, thọ trì ghi nhớ đúng mà tu thì đó là tu hạnh Pháp hoa; nếu chỉ biên chép thì mạng chung sẽ được sanh lên trời Đao lợi ở trong thế nữ mà vui chơi khoái lạc; thọ trì mà giải nghĩa thì khi mạng chung sẽ được nghìn Đức Phật trao tay. Sau khi Như Lai diệt độ, ngài Phổ hiền sẽ làm cho kinh Pháp hoa rộng lưu bố trong Diêm phù đề khiến chẳng dứt mất.

Lúc ấy Đức Phật Thích ca ngợi khen lòng từ bi và hạnh nguyện rộng lớn của Phổ hiền Bồ Tát. Ngài sẽ hộ trì cho những người thọ trì danh hiệu Phổ hiền Bồ Tát.

Đức Phật lại xác nhận, người hành trì kinh Pháp hoa thì người ấy sẽ được thấy Phật Thích ca, như từ miệng Phật mà nghe kinh điển này, được Phật Thích ca khen ngợi, xoa đầu, lấy y trùm cho. Người như thế không còn ham vui ở đời, ưa kinh sách và gần gũi người ngoại đạo, ác; không bị tam độc, ghen ghét, ngã mạn não hại. Người ấy ít muốn, biết đủ để tu hạnh Phổ hiền.

Phổ hiền! sau khi Như Lai diệt độ, 500 năm sau, nếu có người nào thọ trì đọc tụng kinh Pháp hoa thì người này chẳng bao lâu sẽ thành đạo quả Vô thượng chánh đẳng giác, không cầu mà được. Ai khinh chê sẽ bị tội báo. Ai cúng dường khen ngợi thì được quả báo.



Lúc Phật nói phẩm này có vô số Bồ Tát được muôn ức “Triền đà la ni”, đủ đạo Phổ hiền. Tất cả đại chúng hoan hỉ thọ trì lời Phật dạy.

Tác giả: Thượng Tọa Thích Tâm Đức

Năm 2005.
Hình ảnh biên tập: Cư Sĩ Lý Thái Thuận

Họa sĩ Trương Quân.
Каталог: application -> uploads -> Daotaotuxa -> Khoa3 -> HOC%20KY%204%20-%20KHOA%20X-TU%20XA -> KINH%20PHAP%20HOA
HOC%20KY%204%20-%20KHOA%20X-TU%20XA -> Giới thiệu Trưởng Lão Tăng Kệ & Trưởng Lão Ni Kệ
Khoa3 -> LỊch sử triết học phưƠng tâY
Khoa3 -> TÓm tắT ÐẠi kinh sakuludàyi (SỐ 77) (Mahàsakuludàyin sutta) I. Giới thiệu tổng quan
Khoa3 -> TÓm tắt kinh kandaraka (SỐ 51) (Kandaraka sutta) I. Giới thiệu tổng quan người giảng: Đức Phật. Địa điểm: Bên bờ hồ Gaggaranước Campa
HOC%20KY%204%20-%20KHOA%20X-TU%20XA -> Bài 31: (tr. 135) 梧桐兩株 梧桐兩株,枝高葉大。霜降後,葉漸黃。西風吹來,落葉滿階。 Phiên âm: Ngô đồng lưỡng chu
HOC%20KY%204%20-%20KHOA%20X-TU%20XA -> Chuyện Tiền Thân Đức Phật (I) Jàtaka Mục lục chưƠng mộT [01] phẩm apannaka

tải về 195.36 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương