Tìm Hiểu SÁu phái triết họC ẤN ĐỘ ht. Mãn Giác



tải về 1.03 Mb.
trang8/37
Chuyển đổi dữ liệu16.10.2017
Kích1.03 Mb.
#33722
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   37

IV.THUYẾT NHÂN QUẢ


Lịch trình hiện tượng hóa của vạn hữu là mối dây liên hệ nhân quả từ những căn nguyên tối sơ dẫn đến vạn thù sai biệt. Triết gia khi chiêm nghiệm về bản thể của vạn hữu, hoặc nhìn chúng trong một quá trình từ sinh thành đến hủy diệt, hoặc khảo sát chúng trong bản chất tồn tại dưới những tương quan có tính cách cơ giới.

Những quan điểm như thế thường dẫn đến hai thái độ khác nhau về liên hệ nhân quả. Hoặc tương quan nhân quả chỉ có ý nghĩa trong chiều dọc của sinh thành và hủy diệt. Hoặc tương quan đó chỉ là quan hệ cộng đồng tác dụng trong chiều ngang. Từ đó đi sâu vào chi tiết, người ta cảm giác những phức tạp mà chiều ngang hay chiều dọc không chỉ là những khía cạnh đơn thuần và cố định. Vũ trụ có thể xuất hiện từ một nguyên nhân hay hai nguyên nhân, nhưng ý nghĩa tồn tại của vạn hữu luôn luôn ở trong tư thế cộng đồng tác dụng. Tác dụng đó có thể là quan hệ dây chuyền của chiều dọc, nhưng những đa thù và sai biệt phải được khảo sát kỹ từ tương quan tác dụng theo quan hệ dây chuyền của chiều ngang. Dù nhìn theo chiều hướng nào, cái nhìn nguyên khởi vẫn có tầm mức quyết định. Cái nhìn nguyên khởi này, khi bắt đầu từ chiều dọc, người ta sẽ thấy quan hệ tất nhiên giữa vật liệu và ngôi nhà được xây cất cho biết tính cách sai biệt của nhân quả.

Nói cách khác, có hai thái độ khi nhìn vào quan hệ nhân quả. Nếu khảo sát vạn hữu trong chiều hướng nhân quả sai biệt (kàranïa-kàrya-bheda), ta đi đến chủ trương quả không có sẵn trong nhân, và lập thành thuyết Vô quả luận (asatkàrya-vàda). Ngược lại, khảo sát trên chiều hướng nhân quả vô biệt (kàranïa-kàrya-abheda), ta đạt đến thái độ coi như quả đã có sẵn trong nhân, và lập thành thuyết Hữu quả luận (satkàrya-vàda). Thái độ thứ nhất được đặc trưng nơi các nhà Thắng luận (Vaisùesika), và ta cũng có thể kể thêm những nhà Tiểu thừa Phật giáo. Thái độ thứ hai là chủ điểm của Sàmïkhya, và nhờ đó mà hệ phái này đã mô tả hợp lý về lịch trình hiện tượng hóa của mình.

Lập thuyết cho Hữu quả luận (satkàrya), Sàmïkhya-kàrikà đưa ra năm chứng cứ15:

1. Vì phi hữu tức phi nhân (asad-akaranïàt: vô bất khả tác cố  ): nếu quả (kàryà) không có trước hay có sẵn trong nhân (kàranïa), nó sẽ là cái phi hữu (asat), bất thực như lông rùa sừng thỏ, như hoa đốm giữa hư không. Vàcaspati, thế kỷ IX, nói: “Ngay dù với một trăm nghệ sĩ, cũng không thể trở thành màu vàng”16. Nghệ sĩ có thể tô màu vàng lên bức tranh của mình, màu vàng đó, dù là kết quả từ hành vi của nghệ sĩ đó, nhưng không phải là kết quả từ chính bản thân hay bản thể của người nghệ sĩ. Đối với ông, màu vàng (nìlam) là một phi hữu (asat). Sự hữu (sat) của màu vàng phải ở một nơi khác. Dù cả trăm nghệ sĩ cùng họp lại, cùng cộng đồng hợp tác, nhưng không thể vì vậy mà trở thành màu vàng.

2. Phải do nhân tố (upàdànagrahanïàt: tất tu thủ nhân cố ): nhân tố hay thủ nhân (upàdàna) chỉ cho sự gắn bó mật thiết giữa quả với nhân. Quả chỉ là sự thể hiện hay phát hiện từ nhân tố.

3. Nếu không, mọi sự không hiện hữu (sarvasamïbhavà-bhàvàt: nhất thiết bất sinh cố): nếu quả không có sẵn trong nhân, tất cả mọi hiện hữu (sarvasamïbhava) đều chỉ là vô thể (abhàva) hay không tự tánh, và như vậy cũng có nghĩa là bất thực, không hiện hữu. Điều này cho thấy, trước khi xuất hiện, quả phải có sẵn trong nhân.

4. Vì là sở tác của năng tác nhân (sùaktasya sùakyakaranat: năng tác sở tác cố): đối với quả, nhân là khả năng sáng tạo (sùakta). Chỉ có nguyên nhân hữu hiệu mới có thể sáng tạo những gì đang tiềm ẩn trong nó. Như vậy, trước khi phát hiện, quả phải tiềm ẩn sẵn trong nhân của nó. Thành tạo chỉ là một cách hiện hóa, hay là phát hiện cái tiềm thế đó mà thôi. Nước không thể tạo ra sữa đặc; lau sạch không thể tạo ra áo quần; đất cát không thể tạo ra cơm hay dầu ăn.

5. Vì nhân có quả (karanïabhàvàt: tùy nhân hữu quả cố) : tùy theo nhân mà có quả. Quả là yếu tính của nhân tố và như vậy nó là một, đồng nhất, với nhân tố. Khi những trở ngại để thể hiện không còn nữa thì tự nhiên quả ấy phát sinh từ nhân của chính nó. Nhân và quả là những giai đoạn tiềm ẩn hay hiển hoạt của một quá trình. Áo quần tiềm ẩn trong vải, dầu ăn có trong những hạt có dầu, sữa đặc có từ sữa tươi. Quả có trước hay có sẵn trong nhân tố của chính nó.

---o0o---


V.TỰ TÁNH (PRAKRÏTI)


Lịch trình hiện tượng hóa chỉ diễn ra cho những biến thái của vật chất. Vật chất tối sơ hay nguyên chất (pradhàna) chính là tự tánh (prakrïti). SÙvetasùïïvatàra Upanishad định nghĩa pradhàna, thắng nhân, như là những gì có thể diệt tận (ksïara), đối ngược với hara, một biệt danh chỉ cho SÙiva, đấng từ đó mà vạn hữu xuất hiện, như là những gì bất diệt, bất tử (amrtàksara). SÙvetasùvatàra Upanishad cũng mô tả prakrïti như là màyà17, vì đấng Đại chủ tể (mahesvara) sáng tạo vũ trụ như một nhà huyền thuật (màyin).

Trong lý thuyết nhân quả, Sàmïkhya đã chỉ rõ quả chỉ là sự biến thái và phát hiện của một nhân đã tiềm tàng quả trong nó. Prakrïti là nguyên chất tối sơ, là nguyên ủy của vật giới, của vũ trụ thế gian. Prakrïti, như đã thấy, vì là nguyên nhân và duy chỉ là nguyên nhân, nên có tính chất không biến dị, nó được gọi là phi biến dị (avyakta). Nguyên chất tối sơ này chỉ có thể biết được qua suy luận nhân quả, nghĩa là chỉ có thể nhận ra rằng tỉ lượng (anumàna). Nó cũng là nguyên lý vô tri, vô thức, nên là vật chất (jada). Và vì nó là một năng lực hoạt động vô hạn nên cũng được nói là hữu năng (sùakti).

Hiện tượng giới, vạn vật trong vũ trụ, bất kể vật chất hay tinh thần, tất cả phát hiện từ prakrïti, chúng là những gì có tính chất biến dị (vyakta), chỉ cho sự chi phối của sinh, trụ, dị và diệt. Nhưng prakrïti là nguyên nhân của tất cả, nó không sinh ra từ một nguyên nhân nào khác, độc lập, tuyệt đối, đơn nhất và trường tồn, Sàmïkhya-kàrikà18 nêu lên năm chứng cứ cho sự hiện hữu của Prakrïti.

1. Vì biệt loại hữu lượng (bhedànàmï parimanàt): Mọi vật trong thế gian, nếu được tạo ra, tất nhiên chúng phải bị hạn chế, nghĩa là có số lượng (parimàna). Nói cách khác, hiện hữu của vạn hữu được hạn lượng bằng số lượng của chúng. Tính cách hạn chế hay hạn lượng này muốn nói rằng, một vật này chỉ có thể phát xuất từ một hay nhiều sự vật nào đó như là nguyên nhân của nó. Hạn chế của cái lu đất là đất sét, nguyên nhân của nó. Như vậy, phải có một vật thể nào đó không bị hạn chế mới có thể là nguyên nhân của vạn hữu sai biệt này. Từ một bình đẳng tỉ lượng mà suy ra, ta bắt gặp vật thể tối sơ, vô hạn, vĩnh cửu, nguyên nhân cho tất cả; đó là prakrïti.

2. Vì đồng tánh (samanvdyàt): Những đồ được chế tác bằng đất, hình thức và công dụng của chúng bất đồng, nhưng chắc chắn là có cùng chất đất như nhau. Một khúc gỗ được xẻ thành nhiều mảnh để chế tác nhiều khí cụ cho nhiều công dụng khác nhau, nhưng vẫn cùng một bản chất gỗ. Cũng vậy, tất cả mọi biến dị trong lịch trình hiện tượng hóa đều có chung bản tính hỉ, ưu và ám, là ba tính chất của một prakrïti.

3. Vì hữu năng (kàryatah pravrïttehï): Mọi hiện hữu phải xuất hiện từ tiềm năng của chúng. Tiềm năng của lu nước là đất sét. Trong lịch trình hiện tượng hóa cũng vậy, vạn hữu tìm thấy tiềm năng của chúng nơi prakrïti.

4. Vì nhân quả sai biệt (kàranïa-kàrya-vibhagàt): Quả và nhân là những sự thể khác biệt. Đất sét và lu đất, cùng tính chất nhưng không cùng hình tướng. Quả là hiện thể và nhân là tiềm thể của một quá trình. Thế giới hiện thực này phải bắt nguồn từ một nguyên nhân không cùng hình thái hiện tượng của nó. Cố nhiên, nguyên nhân này chính là prakrïti.

5. Vì biến tướng vô biệt (avibhàgàt vaisùvarùpyasya): Vì không có sự sai biệt của biến tướng, của trạng thái hoàn toàn hồn nhiên. Khi thế giới hiện thực này hoàn toàn hủy diệt, nó trở lại trạng thái hồn nhiên, được gọi là biến tướng vô biệt, nghĩa là tướng phổ biến không sai biệt. Rồi khi thế giới tái sinh, từ trạng thái hồn nhiên ấy, thế giới hiện thực bước vào lịch trình hiện tượng hóa. Prakrïti là trạng thái hồn nhiên đó.

Các luận chứng trên đây, như đã thấy, chúng diễn ra theo một bình đẳng tỉ lượng (anumàna), nghĩa là suy luận từ quả hiện hữu trong thế giới hiện thực đi lần lên đến nguyên nhân tối sơ của chúng. Cứ theo chiều hướng của một bình đẳng tỉ lượng như vậy, ta có thể bắt gặp mô tả của Maitràyanìya Upanishad 19:

“Quả vậy, thoạt kỳ thủy, thế giới này duy chỉ là bóng tối. Cái đó ở trong nguyên lý tối cao. Khi bị kích thích bởi nguyên lý tối cao, nó chuyển động thành sai biệt. Quả vậy, hình thái đó là sự ham muốn. Khi sự ham muốn đó bị kích thích, nó chuyển động thành sai biệt. Quả vậy, đó là hình thái của hữu chất”.

Mô tả này hàm ngụ ba phẩm tính (tri-gunïa) trong Prakrïti.

SÙvetasùvatàra Upanishad mô tả sự sáng tạo vũ trụ của Ìsvara 20: “Ngài, sau khi khởi sự các công tác của mình kết hợp với ba phẩm tính, phân phối mọi hiện hữu. Khi ba phẩm tính này vắng mặt, công tác đã thực hiện của ngài trở thành hủy diệt, và trong sự hủy diệt của công tác ấy, ngài tiếp tục quá trình sáng tạo khác.”

Cả hai bản kinh đều mô tả quá trình sinh thành và hủy diệt của hiện tượng giới, mà nơi Sàmïkhya, đó là quan hệ tồn tại và hỗ tương tác dụng của ba gunïa. Nếu chúng ở trong trạng thái quân bình, hiện tượng giới không hiện hữu hay hủy diệt để trở lại nguyên thủy. Khi chúng không ở trong trạng thái quân bình, lịch trình hiện tượng hóa của vũ trụ thế giới diễn ra. Lịch trình này, chi tiết sẽ đề cập sau, được Sàmïkhya-pravacana-sùtra 21 mô tả:

“Prakrïti là trạng thái quân bình của sattvan rajas và tamas. Từ Prakrïti chuyển động thành mahat; từ mahat thành ahamïkàra; từ ahamïkàra thành 5 tanmàtra, hai bộ indriya; từ tanmàtra thành 5 bhùta”.

Về ý nghĩa của ba gunïa, Sàmïkhya-kàrikà XII-XIII nói:

“Hỉ (prìti), ưu (aprìti) và ám (visïàda) là tự thể (àtmaka); chiếu (prakàsùa), động (pravrïtti) và phược (niyama) là mục đích (artha); chúng hỗ tương nhiếp phục, chi trì, sinh khởi và cộng tác” 22.

“Sattva được nói là nhẹ và sáng; rajas, trì và động; tamas, trọng và phú. Chúng cùng tác dụng cho một mục đích duy nhất, như một ngọn đèn”23.

Theo mô tả này, sattva, hỉ, là thực tại hay thực thể chịu trách nhiệm về sự phát hiện của đối tượng trong ý thức. Nó là yếu tố khoái lạc hay gây ra khoái lạc. Tướng dạng của nó là trôi nổi bồng bềnh, nhẹ nhàng (laghu: khinh) và sáng láng, chiếu rọi (prakàsùaka: quang). Quan năng của ánh sáng, sức phản xạ, chiều hướng thượng, hạnh phúc, như ý, ân huệ, tất cả đều do sattva. Nó có màu trắng.

Rajas, ưu, là kích chất, là sự ham muốn, là nguyên lý vọng động. Rajas tạo ra đau khổ. Hậu quả của nó là sự cuồng bạo. Đó là động lực tình cảm (cala: động) và khích tố (uapasïtanbhake: trì). Rajas màu đỏ.

Tamas, ám, bóng tối, là nguyên lý trì hoạt, tức hoạt động trì trệ, u mê, không nhuệ khí. Nó gây ra trạng thái vô cảm, hờ hững, vô minh, uể oải, ngơ ngác, tiêu cực, thụ động, là hậu quả của tamas. Nó là sức nặng (guru: trọng) và bao bọc (varanïaka: phú) và do đó trái với sattva. Tamas cũng trái với rajas vì sự hoạt động không ngừng của gunïa này. Tamas màu đen.

Chú giải của Vàcaspati cho Kàrikà XII trên đây, về những hỗ tương của ba gunïa, theo đó: (a) hỗ tương nhiếp phục, chúng liên hệ với nhau mật thiết cho đến khi một gunïa này thắng thế cho mục đích thì các gunïa khác ẩn phục; (b) hỗ tương chi trì, vì tác dụng của một gunïa này được hỗ trợ bởi các gunïa kia; (c) hỗ tương sinh khởi, khi một gunïa này tạo ra những kết quả của chính nó phải dựa trên các gunïa kia, và sinh khởi ở đây được hiểu như là hiến thái; cuối cùng, (d) hỗ tương cộng tác, chúng cùng hỗ tương quan hệ chứ không hiện hữu riêng rẽ. Ngọn đèn trong Kàrikà XIII mô tả những quan hệ hỗ tương của chúng: cũng như dầu phụng, tim bấc và ánh sáng của một ngọn đèn, cả ba cùng hỗ tương quan hệ tạo ra ánh sáng cho mục đích là chiếu sáng.

Quan hệ của ba gunïa này cũng có thể mô tả một cách thi vị như tâm trạng của một người đang yêu. Tâm trạng đó là sattva, khi anh chàng cảm giác hoan lạc trong tình yêu; nó là rajas, khi chàng say mê săn đuổi và chinh phục người yêu không ngừng; và nó là tamas, sự mù quáng của anh chàng khi đeo đuổi người yêu. Hoài vọng, rồi thất vọng, rồi mù quáng; hay hoan lạc, rồi đau khổ, rồi mất tinh thần, uể oải, hờ hững. Những tâm trạng này liên tục quay cuồng, biến chuyển, gây thành một tấn tuồng yêu đương sôi nổi. Nhà thơ Rasalìna mô tả tình yêu đó như là những phẩm tính gunïa, rằng: đôi mắt của người yêu vừa trắng, vừa đỏ vừa u tối, và vừa cả rượu ngon, độc tố và độc dược, mà hậu quả là khi những thứ đó xuyên qua trái tim tình nhân sẽ làm cho anh chàng hiểu được thế nào là sức sống, cơn hấp hối, lười biếng và sự ngừng đọng của chết chóc. Bởi vì, sattva màu trắng như rượu ngọt và mang lại hoan lạc của tình yêu; rajas, màu đỏ, như độc tố, gây ra đau khổ; tamas, màu đen u tối, như độc dược gây ra chết chóc, vô thức.

Ìsvarakrïïạsïnïa nói: “chúng ta cúi đầu trước prakrïti trắng, đỏ và đen, một người mẹ tự dưng mà có, một vú nuôi, một nơi chất chứa mọi sinh thành.”

---o0o---




tải về 1.03 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   37




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương