Tiểu luận Quản trị học sv: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16



tải về 215.98 Kb.
trang2/3
Chuyển đổi dữ liệu26.04.2018
Kích215.98 Kb.
#37347
1   2   3

NỘI DUNG CHÍNH
PHẦN 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ

QUẢN TRỊ NHÂN SỰ VÀ MARKETING
1.1. Đánh giá nguồn lực

Sự cam kết của đội ngũ nhân viên.

Một nhiệm vụ lớn đối với ban lãnh đạo là làm thế nào để mọi nhân viên hiểu rằng cách tốt nhất đạt được các mục tiêu cá nhân là giúp doanh nghiệp hòan thành mục tiêu đề ra. Nhiệm vụ này có thể đòi hỏi các nhà quản trị phải sử dụng nhiều phương cách và công cụ từ các lĩnh vực có tính nguyên tắc như thay đổi cách quản trị lãnh đạo và động cơ khuyến khích.



Tinh thần thực hiện.

Tinh thần hăng hái thực hiện phổ biến khắp nọi nơi cũng là một điều quýí giá, vì nó có nghĩa rằng mọi người có chí hướng tiến lên phía trước. Một điều lí tưởng là mọi cá nhân đều hăng hái phấn đấu vì thành tích cá nhân cũng như thành tích của tổ chức. Thái độ như vậy làm nảy nở tinh thần sẵn sàng hậu thuẫn và phấn đấu vì các mục tiêu của tổ chức và chấp nhận, thậm chí có sáng kiến đề ra những thay đổi thích hợp, người công nhân có y muốn làm việc tốt hơn chứ không phải làm theo lệnh cấp trên.



Điều chỉnh nguồn lực.

Điều chỉnh về số lượng và chất lượng nguồn lực. Có thể phải nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn cho nguồn nhân lực để thực hiện hiệu quả một chiến lược nào đó.



Đảm bảo nguồn lực.

Nhiệm vụ hàng đầu của ban lãnh đạo là đảm bảo sao cho có đủ nguồn lực phục vụ cho hoàn thành chiến lược. Một sai lầm thường mắc phải là cung cấp các nguồn lực không tương ứng với các chiến lược cụ thể nhất định. “Cửa sổ chiến lược” nghĩa là những cơ hội nhất định chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn. Nếu doanh nghiệp chưa chuẩn bị sẵn sàng để đảm bảo các nguồn lực cần thiết trong khoảng thời gian ngắn nói trên thì cửa sổ sẽ khép lại, chỉ có những tổ chức hành động mau lẹ mới có khả năng tranh thủ được cơ hội đó.



1.2. Phân khúc thị trường

Phân khúc thị trường có thể được định nghĩa là “sự chia nhỏ thị trường thành các nhóm khách hàng riêng biệt theo nhu cầu và thói quen mua hàng”. Phân khúc thị trường là một biến số quan trọng trong việc thực hiện chiến lược vì:



Thứ nhất, những chiến lược phát triển thị trường, phát triển sản phẩm, thâm nhập thị trường và đa dạng hóa đòi hỏi sự gia tăng doanh số bán hàng thông qua những sản phẩm và thị trường mới.

Thứ hai, sự phân khúc thị trường cho phép doanh nghiệp có thể họat động với những nguồn lực có hạn, ví nó không đòi hỏi phải sản xuất đại trà, phân phối rộng rãi, và quảng cáo rầm rộ, nên có thể thúc đẩy một công ty nhỏ cạnh tranh với công ty lớn nhờ tối đa hóa lợi nhuận trên một đơn vị và doanh số bán hàng trên một phân khúc. Việc đánh giá các phân khúc thị trường tiềm năng đòi hỏi các nhà quản trị chiến lược phải xác định đặc điểm và nhu cầu của người tiêu dùng, phân tích giống nhau và khác biệt về người tiêu thụ, và phát triển hình ảnh về các nhóm khách hàng.

1.3. Định vị sản phẩm

Một sai lầm nghiêm trọng mà các công ty thường mắc phải là họ cho rằng họ biết những khách hàng mong muốn cái gì. Nhiều công ty đã thành công nhờ lấp đầy khỏang trống giữa những gì khách hàng có nhu cầu và nhà sản xuất cho là một sản phẩm tốt. Cái mà khách hàng cho là dịch vụ tốt là điều quan trọng nhất chứ không phải cái mà nhà sản xuất tin rằng đó mới là dịch vụ tốt. Việc xác định các khách hàng mục tiêu và dựa vào đó để tập trung các nỗ lực marketing đã thiết lập quyết định: làm như thế nào để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của nhóm khách hàng đặc biệt, là mục đích của định vị sản phẩm.

Một chiến lược định vị sản phẩm hữu hiệu thỏa mãn 2 tiêu chuẩn: (1) nó phân biệt doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh, và (2) nó khiến cho khách hàng mong đợi một lượng dịch vụ hơi ít hơn lượng mà công ty có thể cung cấp. Các công ty không nên tạo ra sự mong đợi lớn hơn lượng dịch vụ công ty có thể hay sẽ cung cấp. Điều này luôn là một thách thức đối với các nhà tiếp thị. Các công ty cần thông báo cho khách hàng cái mà họ mong đợi và sau đó thực hiện tốt hơn lời hứa; hứa ít và sau đó làm nhiều.

PHẦN 2: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH

VÀ PHÁT TRIỂN CỦA MICROSOFT
2.1. Bước đầu thành lập

Microsoft là một tập đoàn phần mềm lớn nhất thế giới, được thành lập năm 1975 bởi Willam H.Gates, III và Paul Allen, hai người bạn từ thời niên thiếu cùng có chung niềm đam mê đối với lập trình máy tính. Ngày 01-01-1975, sau khi đọc tờ tạp chí Điện tử phổ thông đăng tin về việc sản xuất máy tính Altair 8800, Bill Gates - đang là sinh viên năm thứ hai của trường Harvard - đã gọi cho nhà sản xuất MIST (Micro Instrumentation and telemetry Systems) đề xuất viết ngôn ngữ lập trình cho máy này.

Gates chẳng có một trình thông dịch cũng như một hệ thống Altair nào. Ông và Paul đã phải tranh thủ làm việc 8 tuần trên máy tính của trường để hoàn thành bản demo của BASIC - ngôn ngữ lập trình đầu tiên được viết cho máy tính cá nhân. Kết quả là bản demo đã chạy tốt và được MIST chấp nhận. Sau đó, Paul Allen gia nhập MIST, trở thành giám đốc phần mềm; còn Bill nhận ra giá trị to lớn của ngành phát triển phần mềm từ thành công ban đầu đó, anh hiểu rằng thời cơ của mình đã đến.

Bill quyết định bỏ học và ngày 04-04-1975, Microsoft (tên viết tắt của Microcomputer software - Phần mềm cho máy tính cá nhân) ra đời tại Albuquerque, New Mexico. Không ít bạn bè người thân khi đó đã chỉ trích việc bỏ học của Bill, nhưng cho tới bây giờ, thực tế đã chứng minh được rằng Bill đã đúng.

Ngày 29-10-1975, cái tên Microsoft lần đầu tiên xuất hiện xuất hiện trong một bức thư của Bill Gates gửi cho Paul Allen. Ngày 26-10-1976, Microsoft chính thức được đăng ký thương hiệu như chúng ta đã biết ngày nay.

Những khách hàng đầu tiên của Microsoft phải kể đến hãng sản xuất máy tính non trẻ Apple, nhà sản xuất máy tính PET Comodore và Tandy Corporation chuyên về loại máy tính Radio Shack TRS-80. Năm 1997, Microsoft cho ra mắt sản phẩm ngôn ngữ lập trình thứ hai là Microsoft Fortran. Cũng trong năm này, Bill Gates chính thức trở thành chủ tịch Microsoft Corp, còn Paul Allen là phó chủ tịch.



2.2. Những bước phát triển

Trong suốt hơn 30 năm qua, tập đoàn Microsoft đã tăng trưởng không ngừng với một tốc độ đáng kinh ngạc, luôn nhận được sự chú ý cũng như ngưỡng mộ của công chúng. Rất nhiều thanh niên Mỹ đã xem Bill như một tấm gương sáng noi theo. Lịch sử hình thành và phát triển của Microsoft luôn gắn với những bước ngoặt mang tính đột phá trong việc tạo ra các sản phẩm công nghệ phần mềm thế hệ mới.



2.2.1. MS – DOS

Năm 1979, Gates và Allen dời công ty tới Bellevue, Washington. Với 25 nhân công, một vài sản phẩm ngôn ngữ máy tính mới và doanh thu hàng năm đạt khoảng 2,5 triệu đô la, Microsoft đã xin được giấy phép sử dụng hệ điều hành UNIX và phát triển hệ XENIX - hệ điều hành cho máy tính thu nhỏ. Năm 1980, IBM chọn Microsoft viết hệ điều hành cho máy tính cá nhân của họ. Dưới áp lực về thời gian, Microsoft đã chọn mua lại 86-DOS từ một công ty nhỏ tên là Settle Computer Products với giá 50000 đô la rồi cải tiến nó thành MS-DOS (Microsoft Disk Operating System).

Là một phần trong hợp đồng với IBM, Microsoft được phép cấp phép sử dụng hệ điều hành này cho các công ty khác. tới năm 1984, Microsoft đã cấp phép sử dụng MS-DOS cho 200 nhà sản xuất máy tính cá nhân, biến MS – DOS trở thành hệ điều hành chuẩn cho máy PC và giúp Microsoft có bước phát triển vượt bậc trong thập kỷ 80. Năm 1983, Allen rời khỏi công ty nhưng vẫn có chân trong ban giám đốc tới năm 2000 và tiếp tục là cổ đông chính của Microsoft.

2.2.2. Phần mềm ứng dụng

Cùng với sự thành công của MS-DOS, Microsoft bắt đầu phát triển các phần mềm ứng dụng cho máy tính cá nhân. Năm 1982, họ cho ra đời Multiplan, một chương trình bảng tính, năm tiếp theo là chương trình xử lý văn bản, Microsoft Word. Năm 1984, Microsoft là một trong số ít các công ty phần mềm phát triển các ứng dụng cho máy Macintosh – máy tính cá nhân do Apple Computer sản xuất. Những phần mềm này bao gồm Word, Excel và Work (Một bộ phần mềm tích hợp) đã đạt được thành công to lớn.



2.2.3. Windows

Năm 1985, Microsoft cho ra đời sản phẩm Windows, một hệ điều hành sử dụng giao diện đồ họa người dùng với những tính năng mở rộng của MS-DOS trong nỗ lực cạnh tranh với Apple Computer. Windows khởi đầu được phát triển cho những máy tính tương thích với IBM (dựa vào kiến trúc x86 của Intel), và ngày nay hầu hết mọi phiên bản của Windows đều được tạo ra cho kiến trúc này (tuy nhiên Windows NT đã được viết như là một hệ thống xuyên cấu trúc cho bộ xử lý Intel và MIPS, và sau này đã xuất hiện trên các cấu trúc PowerPC và DEC Alpha.

Sự phổ biến của Windows đã khiến bộ xử lý của Intel trở nên phổ biến hơn và ngược lại. Năm 1987, Windows 2.0 ra đời với cách làm việc được cải tiến và hình thức mới hơn. Năm 1990 là phiên bản Windows 3.0 mạnh hơn, rồi kế đó là Windows 3.1 và 3.11. Những phiên bản này được cài sẵn trong hầu hết các máy tính cá nhân nên đã nhanh chóng trở thành hệ điều hành được sử dụng phổ biến nhất. Trong năm này, Microsoft đã trở thành hãng sản xuất phần mềm máy tính đầu tiên đạt kỷ lục 1 tỷ đô la doanh thu hàng năm.

Năm 1993, Microsoft tung ra sản phẩm Windows NT, một hệ điều hành cho môi trường kinh doanh. Một năm sau đó họ đạt được thừa thuận với bộ tư pháp trong việc thay đổi cách các hệ điều hành được đăng ký và bán cho các nhà sản xuất máy tính.

Năm 1995, Windows 95 đã được ra mắt với một giao diện hoàn toàn mới với nút và menu Start, cho người dùng truy nhập các chương trình đã cài đặt và nhiều chức năng khác của hệ điều hành. Hàng triệu bản copy của Windows 95 đã được bán hết chỉ trong bốn ngày đầu. Vào tháng 9, chính phủ Trung Quốc đã chọn Windows làm hệ điều hành được sử dụng ở nước này và thừa thuận với Microsoft chuẩn hóa phiên bản tiếng Trung của hệ điều hành này.

2.2.4. Những thành công gần đây

Bất chấp những rắc rối trên pháp đình về tội lạm dụng độc quyền, Microsoft vẫn tiếp tục có những thành công bước đường kinh doanh của mình. Tới giữa thập kỷ 90, Microsoft đã bắt đầu mở rộng sang các lĩnh vực giải trí, truyền hình và truyền thông... Năm 1995, Microsoft thành lập Microsoft Network chuyên cung cấp thông tin, tin tức, giải trí và thư điện tử cho người dùng máy tính cá nhân.

Năm 1996, Microsoft liên kết với hãng truyền thông NBC cho ra đời MSNBC. Cũng trong năm này, Microsoft giới thiệu sản phẩm Windows CE dành cho PDA. Năm 1997, Microsoft trả 425 triệu đô la để mua WebTV Networks, nhà cung cấp các thiết bị kết nối TV với Internet giá rẻ. Microsoft cũng đầu tư 1 tỷ đô la vào Comcast Corporation, nhà điều hành truyền hình cáp ở Mỹ như một phần trong nỗ lực mở rộng khả năng kết nối Internet tốc độ cao.

Tháng 6/1998, Microsoft tung ra phiên bản Windows 98 có kết hợp các tính năng hỗ trợ Internet.

Năm 1999, Microsoft trả 5 tỷ cho công ty truyền thông AT&T Corp để sử dụng hệ điều hànhWindows Ce cho các thiết bị cung cấp cho khách hàng với truyền hình cáp, điện thoại và các dịch vụ Internet tốc độ cao. Cũng năm 1999 công ty phát hành Windows 2000, phiên bản cuối cùng của Windows NT. Tháng một năm 2000, Bill Gates chuyển giao vai trò điều hành cho Steve Ballmer. Bản thân Bill Gates vẫn giữ ghế chủ tịch, đồng thời là kiến trúc sư trưởng chuyên phát triển các sản phẩm và công nghệ mới.

Năm 2001 Microsoft phát hành Windows XP, hệ điều hành cho người tiêu dùng đầu tiên không dựa trên MS-DOS. Cũng trong năm này Microsoft giới thiệu Xbox, một thiết bị Video game của công ty. Trong chiến lược công ty cũng có sự chuyển hướng khi tuyên bố một chiến lược mới mang tên .Net (Dot Net). Chiến lược này tìm kiếm khả năng cho phép các thiết bị đa dạng như PC, PDA, điện thoại di động kết nối với nhau qua Internet, đồng thời tự động hóa các chức năng của máy tính.

Trong thế kỷ 21, Microsoft sẽ phát triển các chương trình kinh doanh bao gồm các phiên bản mới của Microsoft Network, kết nối không dây cho Internet. Năm 2003, công ty bắt đầu chú trọng vào “máy tính đáng tin cậy” đòi hỏi các lập trình viên phải cải thiện khả năng bảo vệ của phần mềm trước sự tấn công của virus và các phần mềm gián điệp. Gần đây nhất là hệ điều hành Windows Vista đã được khá nhiều người chấp nhận với tốc độ nhanh gấp hai lần so với Windows XP, cụ thể chỉ trong tháng đầu tiên phát hành đã bán được 20 triệu bản.

Sự thành công của Microsoft còn được thể hiện qua sự gia tăng liên tục gấp nhiều lần qua các năm của giá cổ phiếu và các chỉ tiêu tài chính của công ty như tổng doanh thu và thu nhập ròng.



Một số chỉ tiêu tài chính của Microsoft trong ba năm gần đây.

Chỉ tiêu

30 - 06 - 2004

30 - 06 - 2005

30 - 06 - 2006

Tổng doanh thu

36,835,000

39,788,000

44,282,000

Thu nhập ròng

8,168,000

12,254,000

12,599,000

Từ những thành công trên, người ta thấy được đằng sau nó là hình bóng của một phong cách quản trị riêng rất Bill Gates, thể hiện ở nhiều mặt. Sau đây là một số nghệ thuật quản trị của Microsoft trong lĩnh vực nhân sự và chiến lược.



PHẦN 3: QUẢN TRỊ NHÂN SỰ
Quản trị nhân sự là một lãnh vực phức tạp và khó khăn, nó bao gồm nhiều vấn đề như tâm lý, sinh lý, xã hội, triết học, đạo đức và thậm chí cả dân tọc học. Nó là một khoa học nghệ thuật - nghệ thuật quản trị con người. Đối với Mricosoft quản trị nhân sự là nhân tố quan trọng đưa đến thành công của công ty. Chính sách quản trị nhân sự chủ yếu nằm trong chính sách tuyển dụng, kiến tạo môi trường làm việc và chính sách đãi ngộ.

3.1. Chính sách tuyển dụng

Cũng như một đoàn quân khi ra trận, yếu tố thành bại ở đây là nhân tố con người với trí thông minh và lòng quả cảm của họ. Chính sách tuyển dụng người tài bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu tại Microsoft.

Microsoft cố gắng thuê được những người thông minh, hay còn có thể gọi là khôn ngoan cũng được, tùy theo cách hiểu của mỗi người về hai từ này. Tiêu chuẩn được nói một cách ước lệ ở đây là: những người nằm trong số 5% thông minh nhất hành tinh trong lĩnh vực chuyên môn của họ.

Vậy thông minh nhất được hiểu như thế nào? Điều đó tùy thuộc vào công việc mà họ sẽ làm, là người quản lý sản phẩm hay lập trình, là luật sư hay kế toán... của công ty. Phải hiểu là chọn những người khôn ngoan nhất cho công việc của họ và từ khóa là khôn ngoan chứ không phải biết nhiều.

Người thông minh là người có khả năng khởi động sớm bộ não để suy nghĩ. Họ có vai trò quan trọng chủ chốt, bởi vì những người này có thể nắm bắt được lỗi lầm sớm nhất và sẽ bắt kịp với cách làm việc hiệu quả hơn trong công việc, do vậy tiết kiệm thời gian trong hoạt động của chính mình cũng như tiết kiệm thời gian, tiền bạc của công ty.

Tại Microsoft phải thật thông minh mới có thể thành công được. Những con người thông minh chỉ luôn mong được làm việc với những người thông minh. Các nhân viên tại Microsoft phải là những người thật giỏi bởi rồi họ sẽ phải làm việc với những người cũng rất thông minh. Một trong những điều thú vị là làm việc tại Microsoft cho dù là người thông minh đến mức nào thì họ vẫn luôn phải cố gắng hàng ngày tương xứng với công việc của mình.

Để tuyển được các nhân tài cho hãng, bộ phận nhân sự do David Pritchard làm giám đốc đặt nhiệm vụ áp dụng các biện pháp hữu hiệu nhất để tuyển và đào tạo ra các siêu nhân. Việc lựa chọn người được tiến hành dưới nhiều hình thức. Hàng chục nhân viên làm việc theo kiểu săn đầu người chuyên theo dõi các chuyên gia giỏi nhất của các hãng nổi trội trong công việc mà bản lĩnh và tài năng đã được thừa nhận. Các nhân viên của Microsoft tiếp xúc công khai hoặc bí mật với họ; lôi kéo, mua chuộc bằng các ưu thế vật chất và tinh thần của Microsoft, vì biết rằng riêng cái tên Microsoft đã có sức lôi kéo rất lớn đối với đa số các chuyên gia tin học ở Mỹ cũng như ở nước ngoài. Những nhân tài này còn có thể tiềm ẩn trong số các sinh viên của các trường đại học, thông qua bảng điểm và khả năng sáng tạo qua các kỳ thi hay các hội chợ lớn. Nhưng việc lựa chọn không chỉ bó hẹp trong ngành chuyên môn tin học. Là một công ty hàng đầu, năng động, Microsoft còn nhắm cả vào đội ngũ các chuyên gia tài chính, marketing, tổ chức mạng lưới thương mại.... Điều bắt buộc đó là những người cực kỳ giỏi vì Pritchard đã từng nói: Khi tuyển nhầm những người có khả năng trung bình thì đó là chuẩn bị cho ngày tàn của Microsoft!

Sau khi lọc lựa hàng nghìn hồ sơ để chọn một, nhờ có hệ thống xử lý thông tin tin học đánh giá một cách tổng hợp, các ứng cử viên phải qua một đợt phỏng vấn. Một nhóm 4-5 người của bộ phận nhân sự sẽ tiến hành phỏng vấn đối với những người dự tuyển. Mỗi người phỏng vấn một giờ và từng người phỏng vấn lần lượt. Tất nhiên câu hỏi rất khó, có thể làm nản lòng những người tự tin nhất. Song các giám khảo không cho câu trả lời đúng hay sai là quan trọng. Cái họ quan tâm là năng lực tư duy để xác định cách ứng xử thông minh và nhanh nhạy của mỗi ứng cử viên trước mỗi tình huống khó cần giải quyết. Đối với cuộc phỏng vấn kỹ thuật có những câu hỏi về lập trình, câu hỏi nọ nối tiếp câu hỏi kia, trong lúc đó các ứng cử viên này phải viết ra một chương trình ngắn để trả lời. Đối với vị trí của người quản lý phần mềm thì thí sinh này được trao cho các tình huống và cách họ sẽ giải quyết các tình huống đó như thế nào. Nếu những câu trả lời chung chung thì ứng cử viên sẽ được đẩy vào các tình huống đặc biệt và chứng tỏ ứng cử viên không biết rõ chủ đề. Mỗi người phỏng vấn ngay khi cuộc phỏng vấn kết thúc đều phải gửi e-mail cho tất cả những người phỏng vấn khác với chỉ một từ “thuê” hay “không thuê”.

Microsoft tuyển dụng nhân viên, đánh giá con người không dựa vào bằng cấp của họ bằng chứng là họ tuyển cả người còn chưa tốt nghiệp được trung học cũng như ngành tin học. Nhưng những người này lại được trả lương như những người có bằng cấp. Không có lý do gì trong bất kỳ một ngành công nghiệp nào mà lại không thuê một người có phẩm chất đơn thuần chỉ vì họ không có bằng cấp cả, tất cả vấn đề là những người ấy có thể thực hiện công việc tốt đến đâu.

Được nhận vào Microsoft, có thể ai đó đã tự hào là một nhân tài rồi đấy. Nhưng chưa phải là đã yên vị, còn phải biết cố gắng liên tục để giữ ghế. Cứ 6 tháng một lần, mọi người phải trải qua các cuộc đánh giá hiệu quả làm việc. Những cuộc đánh giá như vậy sẽ cho thấy một người có làm tụt hậu công ty không, nếu có chắc kết quả sẽ là gì rồi. Kết quả đánh giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thăng tiến nghề nghiệp của bạn, mức lương, số cổ phiếu được phân phối.

Để minh chứng cho việc tuyển dụng này xin giới thiệu về quy trình tuyển dụng của Microsoft, được biết đến với tên gọi “vở kịch ba màn”. Màn thứ nhất – chỉ đơn thuần là việc phỏng vấn tuyển lựa sơ bộ qua điện thọai. Người phỏng vấn gọi điện cho ứng viên và nói chuyện với anh ta khoảng chừng 30 phút. Trong cuộc phỏng vấn mở màn này, ứng viên thường gặp phải những câu hỏi truyền thống, còn những bài toán đố rất ít khi được áp dụng ở đây. Đôi khi, ứng viên cũng sẽ gặp những câu hỏi kiểu như “Bạn sẽ kiểm nghiệm lọ rắc muối tiêu như thế nào?”. Những câu trả lời qua điện thoại của ứng viên sẽ giúp nhà tuyển dụng ra quyết định, liệu có nên mời ứng viên đến trụ sở chính của Microsoft ở Redmond hoặc ở những nơi khác để tham dự vào các màn tiếp theo của vở kịch hay không.

Vở kịch phỏng vấn thường kéo dài cả một ngày. Buổi sáng, các nhân viên tuyển dụng của Microsoft nhận được danh sách ứng viên mà họ cần phải phỏng vấn, đương nhiên, ứng viên không thể biết được danh sách này. Thông thường, mỗi một ứng viên sẽ phải trải qua 6 cuộc phỏng vấn Trong danh sách họ tên của chuyên gia phỏng vấn cuối cùng thường có kèm thêm dòng chữ “nếu cần thiết”, nghĩa là trong tất cả các cuộc phỏng vấn trước, nếu ứng viên đã “trả bài” một cách xuất sắc, gần như chắc chắn là anh ta sẽ được nhận vào làm. Thông thường, người phỏng vấn “nếu cần thiết” này chính là sếp của ứng viên mới và là người ra quyết định cuối cùng có tiếp nhận họ vào làm việc hay không.

Trong quá trình phỏng vấn, nhân viên tuyển nhân sự của Microsoft thường bí mật trao đổi ý kiến với nhau thông qua thư điện tử hoặc các cách khác mà họ quy ước với nhau. Họ thường dẫn ứng viên đến phòng làm việc của người phỏng vấn tiếp theo và có thể trao đổi thông tin qua cái bắt tay. Tín hiệu thường là ngón tay cái chỉ lên hoặc cụp xuống. Trong mọi trường hợp, mỗi nhân viên phỏng vấn phải gửi thông tin “phản hồi” cho các đồng nghiệp. Thông thường, đánh giá tóm tắt về ứng viên được gửi qua e-mail đến tất cả các phỏng vấn viên đã và sẽ phỏng vấn. Trong nhiều trường hợp, thông tin đó đến với người nhận lúc đang giữa cuộc phỏng vấn.

Các đánh giá, nhận xét về ứng viên thường tuân theo một nguyên tắc nhất định: chỉ có 2 phương án - “nhận” hoặc “không nhận” vào làm việc. Và sự đánh giá này được mã hóa bằng hai số 0 hoặc 1.

Sau 3 cuộc phỏng vấn đầu mà nếu như nhân viên tuyển dụng cảm thấy chẳng đi đến đâu, buổi phỏng vấn tiếp theo (được tổ chức nguyên cả buổi chiều) thường bị hủy mà nguyên nhân thường được hiểu là do tắc đường, chậm máy bay, sự vắng mặt của nhân viên hoặc vô vàn các lý do cá nhân đột xuất khác. Những diễn biến tiếp theo có thể so sánh với một cuộc tìm kiếm vô vọng. Chuyên gia phỏng vấn với tâm trạng ngao ngán, thất vọng sẽ vẫn tiếp tục cuộc trò chuyện với ứng viên khi quyết định loại bỏ họ chưa hoàn toàn trở nên quá lộ liễu. Có thể là hơi lạ lùng, nhưng việc từ chối thông thường xảy ra vào bữa ăn trưa (người ta mua cho ứng viên bánh mỳ kẹp thịt, đưa ra vài lý do bào chữa cho việc hỗn phỏng vấn, và rồi “Chúng tôi có số điện thoại của bạn. Khi cần chúng tôi sẽ gọi điện”).

Hiển nhiên, các ứng viên khi đến dự phỏng vấn ở Microsoft đều không thể biết rằng màn diễn đó thường xuyên xảy ra. Tình huống này cũng xuất hiện trong danh sách dài ngoằng những lời khuyên dành cho ứng viên chuẩn bị phỏng vấn ở Microsoft trên trang web của tập đoàn: “Nếu trong tiến trình phỏng vấn bạn có ý nghĩ muốn đánh giá xem việc trả lời của mình diễn ra có thuận lợi hay không, thì hãy cố quân nó đi. Đừng thất vọng nếu bạn trả lời không đúng một câu hỏi nào đó... có thể cảm giác của bạn khác với sự thật. (Chuyện này vẫn thường xảy ra trong các cuộc thi, khi mà bạn cảm thấy mình đang làm sai bét nhưng thực tế lại không hẳn vậy, hoặc ngược lại). Đừng đánh mất bản thân - những ứng viên như vậy mới chính là những người mà chúng tôi cần”.



3.2. Môi trường làm việc

3.2.1. Sự liên kết các nhóm nhỏ năng động

Người ta thường nói đến Microsoft như là một công ty độc quyền khổng lồ sẵn sàng nuốt chửng những gì nó gặp phải trên đường tiến. Tuy nhiên, do quy mô lớn, các công ty loại này thường kém năng động hoặc chậm thay đổi để thích nghi với thị trường hơn các công ty nhỏ, dẫn tới việc các công ty lớn thường trì trệ, tăng trưởng chậm. Còn Microsoft lại là ngoại lệ, mặc dù có quy mô khá lớn nhưng công ty lại tăng trưởng như những công ty nhỏ. Vậy bí quyết nằm ở đâu?

Rõ ràng là nếu coi hiệu suất công việc là quan trọng thì nhóm làm việc nhỏ là cách tổ chức tốt nhất. Các nhóm làm việc nhỏ thường có rất nhiều sáng tạo trong công việc, đổi mới công nghệ, cải tiến để làm tăng hiệu suất chung. Cấu trúc tổ chức được thiết kế theo nhóm dự án là hợp lý, vừa sát với công việc lại rất dễ dàng đổi mới khi cần thiết. Vì vậy, Microsoft được tổ chức như là tập hợp các nhóm làm việc nhỏ gọn. Công ty dành mọi ưu tiên tối đa về thời gian và nguồn lực, phương tiện cho các nhóm. Trong công ty chỉ có vài bộ phận như bộ phận làm nhiệm vụ thư tín - điện thoại, thông tin quản lý hay trung tâm quảng cáo, luật để đảm bảo sự hiện diện của công ty như một bức tranh thống nhất. Các bộ phận này được quản lý bởi một trung tâm điều hành, theo dõi sự phối hợp giữa các nhóm trong công ty mẹ. Công ty cũng cai quản các dự án theo nghĩa trong khi từng nhóm kiểm soát công việc của mình trong dự án thì nó cũng nằm cả trong một chiến lược lớn của công ty.

Công ty lớn nhưng hoạt động vẫn linh hoạt như một công ty nhỏ, đấy chính là một bí quyết của sự tăng trưởng nhanh chóng của Microsoft.



3.2.2. Đoàn kết là sức mạnh

Tinh thần của toàn công ty là một ưu thế cạnh tranh cực kỳ lớn của Microsoft. Khi cần tham gia một trận đánh lớn thì lúc đó tinh thần toàn công ty gồm trên 30.000 người được bộc lộ mãnh liệt nhất, như đã thể hiện trong việc cho ra đời phần mềm Internet Explorer trong một thời lượng kỷ lục là 9 tháng để đuổi kịp và vượt Netscape Navigator. Với tinh thần đoàn kết đó, tất cả đều cố gắng để hoàn thành bất kỳ việc gì, đều tập trung để đạt đến cùng một mục tiêu.

Để gắn kết mọi người với công ty, Microsoft có một chính sách để tất cả các nhân viên đều sở hữu một phần dự án của mình. Hiển nhiên là tất cả những người này đều phải làm việc với nhau nhưng mỗi người vẫn sở hữu riêng một phần kết quả công việc của mình.

Điều chủ chốt tượng trưng cho tinh thần của toàn công ty là sự tập trung tối đa vào một đề án của mỗi người. Sự tập trung này tạo cho mỗi nhân viên một cái gì đó để sống và chết. Các nhân viên có thể sống, ăn, ngủ và thở theo dự án của họ và họ sẽ làm như vậy. Điều này không phải là nói quá. Mọi người tại Microsoft vào mọi lúc sẽ làm một chút ít gì đó khác hơn là việc ngủ và làm việc. Họ thường làm việc ngoài giờ mà đấy là sự tình nguyện của họ chứ không phải bởi vì họ được yêu cầu phải làm. Cách làm việc tập trung cũng cho phép nhân viên đạt được hiệu suất hơn. và một môi trường hiệu suất giúp tái tạo ra tinh thần toàn công ty bởi vì mọi người hạnh phúc hơn, sung sướng hơn.

Trong công ty thường tổ chức những buổi họp, sinh hoạt chung với mục đích duy nhất là giải trí, và ở đó đã diễn ra nhiều trò chơi như những cuộc đấu gươm giữa những người quản lý cấp dưới và cấp trên chẳng hạn. Mọi người đều cùng cười vui với nhau, mọi người đều có điều gì đó để nói về những ngày sắp tới, tham dự vào những sự kiện chung là một phần chủ chốt để xây dựng nên tinh thần của toàn công ty bên trong tổ chức. Phần lớn những cuộc chơi này đều kết thúc với một bữa tiệc với những thức ăn tươi, ngon.

Điều này làm cho mọi người một cơ hội phụ để nói chuyện với nhau và xây dựng nên tinh thần nhóm. Chạy quanh và bắn bóng hay súng phun nước trong các phòng hoặc làm một cái gì đó rất thú vị là chuyện bình thường ở công ty. Mọi người đang làm việc cũng đều cảm thấy vui vẻ. Vấn đề là họ quyết định làm theo cách của riêng mình nên mọi sự họ làm nói chung không thể tìm thấy được làm ở đâu khác nữa.



3.2.4. Nơi làm việc là nhà bạn

Từ những ngày đầu thành lập công ty, Bill Gates và Paul Allen đã đưa tác phong làm việc của chính mình thành “chuẩn mực” của Microsoft. Họ muốn làm cho các nhân viên của mình thật là thoải mái, đạt hiệu suất và sung sướng nhất có thể trong công việc. “Chuẩn mực” đó là gì vậy? Câu trả lời tìm ở đâu?

Bạn hãy nhìn về gia đình. Mọi người thiết kế gia đình của mình để thành một nơi mình cảm thấy thoải mái và thích thú nhất. Họ thiết kế văn phòng của gia đình để là một nơi có thuận tiện, dễ dàng làm việc, dễ đạt hiệu suất cao.

Microsoft tạo cho tất cả các nhân viên làm việc chính thức có văn phòng riêng của mình, còn những người làm việc hay thực tập nội trú thì dùng chung một văn phòng thay cho phòng riêng cho mỗi người. Trong đó, tất cả mọi người đều có không gian riêng tư của mình. Đó là của họ. Họ có thể đóng cửa lại, bật nhạc lên, điều chỉnh ánh sáng và làm việc.

Tại Microsoft, văn phòng mới nói chung giống nhau cho tất cả mọi người. Các tay lập trình, thiết kế và phó chủ tịch có được văn phòng rộng gấp đôi. Các nhân viên có quyền tạo ra môi trường làm việc ưa thích riêng của mình, họ có thể bày biện văn phòng của mình để ứng với nhu cầu đặc biệt của họ. Bạn có thể treo lên những bức tranh ảnh, kim loại nặng lên tường, các đèn lên trên bàn làm việc của mình, rồi các bức tranh, đồ hoạ... lên cửa nếu bạn quyết chọn như vậy.

Nhiều văn phòng ở Microsoft đều có cửa sổ. Một lần nữa điều này lại tuân theo hướng dẫn về việc tưởng tượng ra một văn phòng gia đình vì thực tế không ai có một văn phòng gia đình lại không có một cửa sổ nào cả. Theo quan điểm đó, gần đây Microsoft xây thêm các toà nhà nhỏ hơn chứa khoảng 200 văn phòng và được thiết kế để sao một nửa các văn phòng có cửa sổ. Kích cỡ toà nhà nhỏ giúp cho duy trì được môi trường thân thiện hơn. Toàn bộ tổ dự án Windows 95 có một toà nhà riêng, nó có thể vận hành về mặt vật lý như một đơn vị tách biệt.

Trong khi tại một số công ty lớn chẳng hạn như IBM nhân viên phải tuân theo những quy tắc ăn mặc rất nghiêm ngặt và sử dụng những loại xe vừa phải thì tại Microsoft không có luật quy định về ăn mặc tại Microsoft. Thay cho các bộ comlê và carvat mà ta thấy ở các công ty khác, ở Microsoft, trong mùa hè, ra lại thấy các kiểu áo cộc, áo phông và mọi thứ khác. Cũng như vậy, bản tin MicroNewws của công ty có đưa ra một lời thông báo rằng đi chân đất ở mọi nơi đều chấp nhận được, thậm chí khi vào quán cafe. Tóm lại, làm việc tại nhà bạn mặc gì thì các nhân viên có thể cũng mặc theo cách như thế ở chỗ làm việc. Mặc dù chưa thấy ai mặc một bộ đồ tắm để làm việc, nhưng điều đó chắc cũng được chấp nhận.

Ở Microsoft có một phòng cung cấp luôn mở. Bất kỳ thứ gì thông dụng đều có sẵn để cho mọi người lấy dựng. Máy photocopy nếu bạn cần có thể tới đó. Với bất kỳ cái gì ít được sử dụng thường xuyên thì nhận viên gửi e-mail tới chỗ cung cấp và thứ yêu cầu đó sẽ được giao vào ngày hôm sau.

Ở Microsoft không có việc quy định giờ làm việc với các nhà lập trình và điều hành. Tuy nhiên, một số vị trí cần làm đúng giờ như nhân viên hỗ trợ kỹ thuật, nhân viên tiếp tân của toà nhà. Các nhân viên có thể chọn giờ làm việc của mình nhưng phải có những khoảng thời gian xác định hàng ngày. Mọi người có thể bắt đầu vào những thời gian khác nhau và làm việc theo những giờ khác nhau mỗi ngày. Liệu điều này có dẫn đến mọi người làm việc ít hơn không? Ngược lại phần lớn mọi người đều làm ít nhất 10 giờ một ngày. Không có hệ thống ghi hay kiểm tra giờ giấc nhân viên. Nhân viên được đánh giá dựa trên công việc họ phải hoàn thành. Không cần đòi hỏi nhiều hơn cũng không ít hơn.

Microsoft có nhiều quán cafe tại chỗ. Điều này quan trọng vì chúng giúp các nhân viên không cần phải rời khỏi chỗ để đi ăn. Trong quán có cả món đặc sản, cafe trong một toà nhà này thì ăn chay,nơi khác phục vụ người sành ăn bánh pizza, hay món ăn dân tộc. Tất nhiên cũng có những quán cafe cung cấp bánh mỳ kẹp thịt, xa lát... ăn tại chỗ giúp ích cho công việc. Một lợi ích phụ xuất hiện là các nhóm làm việc trên một dự án hoặc có cuộc họp mở rộng thì có thể kéo nhau tới một quán cafe để thảo luận ở đó, không có sự gián đoạn trong những luồng suy nghĩ nhóm, với cafe, thức ăn ngon lành, không khí thoải mái họ không có các đặc điểm như ở khách sạn bốn sao nhưng phục vụ thì tốt hơn nhiều. Giống như nước uống được cung cấp miễn phí, cafe cũng được dựng thoải mái trong môi trường tốt hơn ở nhà với nhiều thứ dễ chọn. Bill cũng ăn trong những quán cafe hay ngay tại phòng làm việc. Không có các phòng ăn cho khách đặc biệt vì các chế độ đặc biệt cho các nhân viên cao cấp chỉ gây hại cho đạo đức công ty. Vì vậy Bill không đi xe sang trọng, đi máy bay cũng chỉ ngồi ghế thường thay vì ngồi ghế hạng nhất. Phòng làm việc của Bill cũng nhỏ và khiêm tốn, thậm chí trong thời gian dài Bill đã không chấp nhận bãi đỗ xe dành riêng cho mình, cho đến đầu thập niên 90.

Cách tổ chức nơi làm của công ty chỉ nhằm một mục đích là làm tăng thêm tinh thần làm việc của nhân viên và do đó tăng thêm năng suất của từng thành viên. Chế độ trả lương trực tiếp cũng giữa cho họ tập trung vào công việc. Thực tế các nhân viên trong hãng sẽ dành nhiều giờ hơn cho công việc của họ, do đó, Microsoft đã nhận được ích lợi tối đa từ từng nhân viên của mình.



tải về 215.98 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương