Tiểu luận Quản trị bảo hiểm xã hội


Chương III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH Ở HUYỆN YÊN LẬP



tải về 359.32 Kb.
trang4/4
Chuyển đổi dữ liệu14.10.2017
Kích359.32 Kb.
#33616
1   2   3   4

Chương III

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH Ở HUYỆN YÊN LẬP



3.1. Phương hướng thực hiện công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH bắt buộc trên địa bàn huyện Yên Lập trong giai đoạn mới

- Tổ chức quản lý đối tượng thuộc diện bắt buộc tham gia BHXH theo Nghị định 152/CP và thông tư 03 trên địa bàn, đảm bảo tất cả các đối tượng thuộc diện bắt buộc tham gia BHXH đầy đủ.

- Tổ chức quản lý tiền lương đóng BHXH của các đối tượng tham gia BHXH, đảm bảo xác định chính xác, đúng đủ số phải thu BHXH.

- Tổ chức cấp phát và quản lý sổ BHXH cho đối tượng tham gia đầy đủ, kịp thời, theo dõi ghi sổ bổ sung đúng, đủ và nhanh chóng những thay đổi về tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của từng đối tượng.

- Tiếp tục phối hợp với các cơ quan báo đài và các phương tienejt hông tin đại chúng để tuyên truyền về chính sách BHXH.

3.2. Một số giải pháp:



3.2.1 Hoàn thiện công cụ quản lý Nhà Nước về BHXH.

BHXH là một trong những chính sách xã hội của Đảng và Nhà Nước. Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi bổ sung tại điều 56 đã nêu: Nhà Nước quy định về chế độ BHXH đối với công chức, viên chức Nhà Nước và những người làm công ăn lương. Vì vậy Nhà Nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động của BHXH. Để quản lý về BHXH, cần phải có một hệ thống các công cụ quản lý; hệ thống công cụ này phải đảm bảo đáp ứng, phù hợp với điều kiện yêu cầu và trình độ quản lý của các cơ quan quản lý Nhà Nước ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, nó được thể hiện và đảm bảo thực hiện ở tất cả mọi lĩnh vực, mọi khu vực thuộc các cấp các cơ quan chức năng của Nhà Nước.

Một trong những công cụ quản lý Nhà Nước về BHXH là các chế định pháp luật đối với đối tượng tham gia BHXH. Thông qua các chức năng lập pháp của mình, Nhà Nước cần sớm ban hành các đạo luật về BHXH là các chế định lâu dài, được xem là những nguyên tắc những nội dung cơ bản định hướng cho các hoạt động BHXH và tập trung điều chỉnh các quan hệ liên quan đến việc thể hiện chính sách BHXH bằng các quy phạm pháp luật cụ thể trong một văn bản bao trùm nhất là Luật BHXH.

Nhận thức rõ được vai trò thiết yếu của BHXH sau một thời gian thực hiện Bộ luật Lao động; Nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng của việc xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về BHXH đối với sự phát triển kinh tế- xã hội ở Việt Nam; từ đó trong việc xây dựng luật BHXH đòi hỏi phải có những quy định thống nhất về đối tượng áp dụng chế độ BHXH, BHYT bắt buộc; Xác định rõ quyền và nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH trong việc thu nộp BHXH cho người lao động, đồng thời chú trọng tới các hình thức xử phạt nghiêm minh đối với các vi phạm; Mở rộng hình thức BHXH, BHYT tự nguyện, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động; Luật phải đảm bảo rằng mọi người lao động thuộc diện BHXH bắt buộc đều được hưởng các chế độ trợ cấp; đồng thời mọi nguồn đóng góp nghĩa vụ theo quy định phải được huy động đầy đủ; Cần có một khung quy định chung về việc tránh hưởng 2 lần, tạm ngừng hưởng hoặc thôi hưởng chế độ…Có như vậy mới đảm bảo được tính công bằng và chính sách ASXH mới được thực hiện một cách nghiêm túc và có hiệu quả. Bên cạnh đó Luật BHXH cũng cần quy định rõ về sổ BHXH cũng như quy trình cấp sổ BHXH cho người lao động, bởi vì đây là một minh chứng cần thiết để người lao động khi tham gia BHXH có quyền hưởng BHXH, nó cũng là căn cứ để cơ quan quản lý Nhà Nước về BHXH thực thi chức năng kiểm tra kiểm soát về việc thực hiện các chế độ BHXH. Do vậy sổ BHXH cần được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất và được áp dụng chung cho mọi người lao động tham gia BHXH. Riêng đối với Thẻ BHYT, phiếu KCB không nhất thiết phải điều chỉnh trong luật mà có thể được điều chỉnh trong các văn bản dưới luật và việc quy định chỉ nên ở mức phổ quát nhất, tránh tình trạng quá nhiều văn bản dưới Luật cùng điều chỉnh một nội dung như hiện nay. Các văn bản dưới luật chỉ tập trung vào những hướng dẫn mang tính cụ thể đảm bảo tính thực thi cao.

Như vậy, việc ban hành Luật BHXH là cần thiết để tạo ra sức mạnh cưỡng chế đối với người sử dụng lao động. Nó giúp các chính sách BHXH tránh được sự chồng chéo giữa các quy định, điều lệ từ đó giảm thiểu được sự lợi dụng các kẽ hở để trốn tránh trách nhiệm tham gia BHXH của người sử dụng lao động đối với người lao động cũng như giúp cho họ hiểu rõ hơn về chính sách BHXH để thực hiện tốt hơn. Có thể nói Luật BHXH là công cụ cơ bản nhất để đưa chính sách BHXH của Đảng và Nhà Nước vào đời sống xã hội. hiện nay Luật BHXH đang được chính phủ xem xét và chắc chắn không lâu nữa sẽ được ban hành, với sự tham gia ý kiến của nhiều chuyên gia luật, các nhà chuyên môn, những người lao động tham gia BHXH… Luật sẽ tạo ra một khung pháp lý cơ bản giúp Nhà Nước quản lý việc thực hiện chính sách BHXH tạo điều kiện cho hoạt động BHXH phát triển thuận lợi và theo đúng mục tiêu đã đề ra đó là thực hiện BHXH đối với mọi người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế của đất nước.

3.2.2 Nâng cao hiệu quả tuyên truyền về BHXH.

Để nâng cao hiệu quả tuyên truyền về BHXH đối với người lao động và chủ sử dụng lao động thì trước hết phải xác định rõ nội dung tuyên truyền đó là phải tuyên truyền, giải thích về bản chất, nội dung của chính sách BHXH. Từ đó họ có thể hiểu được bản chất nhân văn, nhân đạo của BHXH, họ có thể phân biệt được sự khác nhau giữa BHXH và các loại hình bảo hiểm thương mại khác. Mặt khác cũng phải tuyên truyền, giới thiệu cho họ về nội dung các chế độ BHXH mà người lao động tham gia BHXH được hưởng. Đặc biệt cần nhấn mạnh nội dung “Tham gia BHXH vừa là nghĩa vụ, vừa là quyền lợi của người lao động”. Việc giải đáp những vướng mắc của người lao động trong quá trình thực hiện các chế độ BHXH, việc phản ánh tâm tư nguyện vọng của người lao động cũng hết sức cần thiết và hợp lý…Những nội dung nói trên cần phải được thể hiện bằng các hình thức các phương pháp thực hiện phù hợp thì mới đạt hiệu quả cao. Do đối tượng tuyên truyền về BHXH là người lao động và người sử dụng lao động nên phải sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền khác nhau mới có thể phù hợp với nhận thức, tâm lý và trình độ của họ. Đối với người lao động nên sử dụng nhiều hình thức trực quan sinh động như truyền hình, sách hỏi đáp về BHXH, tờ rơi giới thiệu về BHXH, các loại ấn phẩm tuyên truyền như áp phích, tranh cổ động, lịch, vật lưu niệm có nội dung BHXH; thông qua các cuộc thi tìm hiểu về BHXH, sáng tác ca khúc về BHXH…kinh phí thực hiện nên được trích từ nguồn kinh phí nghiệp vụ tuyên truyền, chi phí thu của ngành BHXH.

Tạp chí BHXH cũng là cơ quan ngôn luận có thể chuyển tải được hầu hết các nội dung nói trên đến với người lao động và người sử dụng lao động. Do đó cần có các biện pháp tăng cường phát hành tạp chí BHXH đến tận cơ sở nhằm góp phần nâng cao nhận thức của họ về BHXH. Sự phối hợp của Bảo hiểm xã hội Việt Nam với các cơ quan thông tin đại chúng như Đài truyền hình Việt Nam, đài tiếng nói Việt Nam, các báo như Nhân dân, Quân đội nhân dân, Lao động, Lao động xã hội, Thời báo tài chính, doanh nghiệp…để tuyên truyền BHXH cũng là một hình thức quan trọng mang lại hiệu quả tuyên truyền cao. Việc nhận thức đúng đắn của người lao động và chủ sử dụng về ý nghĩa và tầm quan trọng của BHXH đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa công tác thông tin tuyền về BHXH cả bề rộng lẫn chiều sâu của hoạt động này. Trước hết nó đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ, có hiệu quả trong công tác tuyên truyền về BHXH giữa Bảo hiểm xã hội Việt Nam với các cơ quan thông tin đại chúng, hệ thống tổ chức công đoàn và các cơ quan có liên quan trong xã hội.

Thứ hai, Kiện toàn hệ thống cơ quan BHXH và các tổ chức có chức năng tuyên truyền về BHXH.

Thứ ba, Nâng cao năng lực tuyên truyền vận động cho các cán bộ BHXH và cán bộ tuyên truyền về BHXH

Thứ tư, Nghiên cứu đặc điểm của đối tượng tuyên truyền và thường xuyên đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tuyên truyền về BHXH phù hợp với những đặc điểm đó.

Thứ năm, Thường xuyên phối hợp với các ngành các cấp để nâng cao hiệu quả tuyên truyền về BHXH.

Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể đạt được hiệu quả như mong muốn, đưa chính sách BHXH đi vào cuộc sống của mọi người lao động trong xã hội.


3.2.3 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và công tác pháp chế trong hoạt động quản lý BHXH

Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH là nhằm mục đích đảm bảo cho việc thực hiện chính sách một cách có hiệu quả, bảo vệ được quyền lợi cho người lao động. Để thực hiện công tác này thì cơ quan BHXH tỉnh Cao Bằng cần tiến hành thanh tra kiểm tra thường xuyên, theo kế hoạch, theo chương trình và theo chuyên đề cụ thể, không nên chỉ kiểm tra theo đơn thư khiếu nại một cách đơn thuần và thụ động. Tăng cường kiểm tra các đối tượng thuộc diện bắt buộc tham gia mà chưa chịu tham gia BHXH, kiểm tra tình hình thu nộp BHXH của các đơn vị sử dụng cho người lao động, kiểm tra đối tượng di biến động, thay đổi chỗ ở để có những điều chỉnh kịp thời.

Để nắm chắc tình hình thực hiện BHXH cho người lao động tại các cơ quan đơn vị thì các cán bộ chuyên quản phải đến tận nơi kiểm tra giám định tình hình, tiếp xúc trực tiếp với những người lao động tại cơ sở, từ đó có thể phát hiện ra những đối tượng gian lận hay trốn đóng BHXH cho người lao động. Có như vậy mới đảm bảo quyền lợi cho người lao động và tạo dựng được lòng tin của người lao động đối với chính sách BHXH của Đảng và Nhà Nước.

Không chỉ có kiểm tra tại các đơn vị, cơ sở mà cần phải kiểm tra cả công tác quản lý BHXH, công tác tiếp nhận và sử dụng thanh toán chi phí KCB- BHYT, kiểm tra các cán bộ trong ngành xem có hoàn thành nhiệm vụ được giao không. Việc đó sẽ góp phần làm trong sạch bộ máy quản lý bởi vì hiện nay vẫn có tình trạng các cán bộ thu ghi chép không đầy đủ theo các biểu mẫu quy định của ngành, không thực hiện đối chiếu số thu với đơn vị sử dụng lao động đúng thời gian quy định làm chậm tiến độ thu BHXH.



Để giải quyết vấn đề này thì việc tăng cường phối hợp với các sở ban ngành như Thanh tra Nhà Nước, Viện Kiểm sát Nhân dân, Sở Lao động Thương binh và Xã hội để thực hiện thanh tra, kiểm tra là vô cùng cần thiết. Bên cạnh đó cần có chế tài xử phạt đối với các trường hợp vi phạm, không chấp hành chính sách chế độ BHXH. Đây là biện pháp tăng cường pháp chế trong lĩnh vực BHXH bởi vì hiện nay Nhà Nước chỉ giao cho cơ quan BHXH quyền kiểm tra, chưa giao quyền xử lý các trường hợp vi phạm chính sách BHXH. Nên chăng các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đã được quy định trong Bộ luật lao động và các Nghị định của Chính phủ ai không chấp hành sẽ bị xử phạt theo luật định? có xử lý nghiêm minh đúng người đúng việc, đúng thời gian thì công tác xử lý mới có hiệu quả. Vì vậy đề nghị chính phủ đã giao cho ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam quyền thanh tra, kiểm tra thì có quyền xử phạt. Đây là bài học kinh nghiệm của Thái Lan, Malaysia...đã làm. Mức phạt cũng phải được nghiên cứu điều chỉnh, ít nhất cũng phải bằng mức thu BHXH ở đơn vị đó thì mới có thể làm cho đơn vị đó sẽ không tái phạm.

3.2.4 Tăng cường công tác tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ:

Một trong những nội dung quan trọng của chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước mà nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành TW Đảng khoá VII nhấn mạnh là công tác quy hoạch cán bộ và chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Quy hoạch cán bộ là để “bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nề nếp, chủ động có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài”. Như chúng ta đã biết những thành công của ngành BHXH Việt Nam trước hết là do chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà Nước về đổi mới công tác BHXH; Xác định rõ chức năng, vị trí, nhiệm vụ của ngành, xây dựng mô hình tổ chức phù hợp; và không thể không kể đến yếu tố con người là nỗ lực của rtoàn bộ cán bộ, công chức trong ngành. Ngày nay việc ứng dụng các phương tiện thông tin hiện đại vào hoạt động của ngành còn hạn chế. Phương pháp xủ lý, lưu trữ truy cập, giải quyết công việc còn mang tính thủ công. Chỉ so với các nước trong khu vực, việc xử lý thông tin trong quá trình thu chi của chúng ta còn thủ công hơn rất nhiều. từ đó dẫn đến tỷ lệ số nhân viên trên một đối tượng tham gia của tta cao hơn so với các nước. Ví dụ ở Philipin chỉ hơn 300 người quản lý hơn 20 triệu đối tượng, còn ở Việt Nam có tới 6000 người quản lý hơn 6 triệu đối tượng. Nếu cứ với cách xử lý như hiện nay thì thật khó tưởng tượng nổi hệ thống của ta sẽ đảm đương công việc như thế nào nếu số đối tượng tăng lên vài ba lần, bởi cách tăng số biên chế lên số lần tương ứng là không khả thi. Nhất là hiện nay chủ trương của Nhà nước ta là mở rộng đối tượng tham gia tới mọi người lao động làm việc trong mọi thành phần kinh tế của Đất nước. Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ, công chức không đồng bộ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị chưa sâu, phần lớn chưa được đào tạo cơ bản về BHXH. Sự thiếu hụt trong đội ngũ cán bộ nhân viên của ngành dẫn đến tình trạng phải kiêm nhiệm nhiều chức năng nhiệm vụ trong hoạt động của ngành đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả công việc được giao. Thực tế ở Việt Nam cho thấy chỉ một số ít trường thuộc hệ thống đào tạo quốc dân đào tạo các chuyên ngành phục vụ trực tiếp cho hoạt động của ngành do đó phần lớn cán bộ trong ngành làm ciệc không đúng ngành nghề đã được đào tạo. Đây là những tồn tại bất cập được đặt ra để giải quyết về nguồn nhân lực trong thời gian tới, chính vì thế việc bổ sung các kiến thức tối thiểu, phục vụ yêu cầu công việc trước mắt là hết sức cần thiết công tác đào tạo cán bộ công chức đặt ra như một yêu cầu tất yếu khách quan và thực sự cấp thiết đối với hệ thống BHXH Việt Nam. Mục tiêu lâu dài của việc đào tạo là xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ ngành từ Trung ương tới địa phương. Điều này đòi hỏi bản thân các cán bộ, công chức- viên chức trong ngành có những nỗ lực rèn luyện thường xuyên liên tục. Công tác đào tạo ngoài việc bổ sung nâng cao kiến thức và kinh nghiệm đã tích luỹ còn đồng thời nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tạo ra tác phong làm việc phù hợp với thời kỳ kinh tế thị trường hiện nay. Từ đó nâng cao chất lượng hoạt động chung của ngành, là cơ sở để đảm bảo hiệu quả công tác thu chi BHXH, đạt được mục tiêu cân đối quỹ lâu dài. Vấn đề đào tạo phải được nghiên cứu kỹ lưỡng về hình thức, phương hướng đào tạo, phạm vi chuyên đề này chỉ nêu sơ qua một số ý cơ bản về phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức BHXH trong giai đoạn mới.

Thứ nhất là: Cùng với việc xây dựng nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng về BHXH cần thiết phải xây dựng đội ngũ giảng viên có chất lượng, có trình độ năng lực và kinh nghiệm thực tiễn trong nghiên cứu để giảng dạy với người học là các cán bộ công chức của ngành BHXH.

Thứ hai là: Để nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cho ngành thì cần phải tăng cường đầu tưư kinh phí và cơ sở vật chất cho các trung tâm đào tạo để thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách có hiệu quả nhất.

Thứ ba là: Cần phải tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo bồi dưỡng cán bộ, vì ngành BHXH ở nhiều nước trên thế giới có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời, các nước đi trước đã để lại cho chúng ta những tri thức BHXH tiến bộ, những bài học kinh nghiệm hết sức quý giá trong công tác quản lý tổ chức hoạt động BHXH.

Quá trình đào tạo cán bộ công chức ngành BHXH được tiến hành trong quãng thời gian cán bộ, công chức đang làm việc. Vì vậy cần lựa chọn hình thức và phương pháp đào tạo thích hợp nhằm thu được kết quả cao nhất mà không ảnh hưởng đến quá trình công tác. Hiện nay việc đào tạo cán bộ công chức có ba dạng là đào tạo mới, đào tạo bổ sung và đào tạo nâng cao. Đào tạo bổ sung là cung cấp thêm những kiến thức mà cán bộ công chức còn khiếm khuyết để có quan điểm đúng đắn, có đủ khả năng thực hiện các công việc mà vị trí công tác đòi hỏi. Còn đào tạo nâng cao chủ yếu là về chuyên môn nghiệp vụ. Xuất phát từ đặc điểm đó, công tác đào tạo cán bộ, công chức ngành BHXH cần tập trung vào thực hiện các công việc sau:

- Căn cứ vào định hướng, mục tiêu phát triển của ngành để xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ chuyên trách nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, dồi dào về năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành trong giai đoạn mới. Căn cứ vào tính chất đặc thù của ngành BHXH mà bố trí công chức sao cho hợp lý, đúng nghề, đúng việc, đúng nhu cầu của ngành; Quản lý đội ngũ cán bộ công chức của ngành một cách chặt chẽ, rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ toàn ngành. Thực hiện tinh giảm biên chế có chọn lọc, đào tạo bổ sung, nâng cao một số biên chế có trình độ chuyên môn chưa đủ đáp ứng yêu cầu quản lý, kiên quyết loại bỏ những biên chế “thừa”, mà trình độ chuyên môn nghiệp vụ của họ quá thấp. Với những biên chế này đôi khi chi phí đào tạo lại bằng hoặc đôi khi còn lớn hơn chi phí đào tạo mới một biên chế khác; Xây dựng cơ cấu, số lượng đội ngũ công chức theo quy định chiến lược cán bộ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và các tiêu chuẩn riêng đối với các cán bộ công chức thuộc phạm vi của ngành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ khối lượng công việc, cơ cấu tổ chức bộ máy với mục tiêu là xây dựng đội ngũ công chức có cơ cấu hợp lý, có năng lực và phẩm chất đạo đức.

- Nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ công chức trên cơ sở bồi dưỡng và đào tạo lại cán bộ đáp ứng yêu cầu đặt ra trong quá trình hiện đại hoá các hoạt động của ngành. Yêu cầu hiện đại hoá các hoạt động trong điều kiện hiện nay là nhu cầu cấp bách của ngành Bảo hiểm xã hội Việt Nam, chỉ có con đường hiện đại hoá chúng ta mới có thể tăng năng suất lao động, mới có thể quản lý được số lượng lớn đối tượng với yêu cầu ngày càng cao. Từ đó ngành BHXH cần có nhiều chuyên gia giỏi ở nhiều lĩnh vực như: các chuyên gia về chính sách BHXH, các chuyên gia pháp lý, các chuyên gia về tính toán thống kê, đặc biệt là các chuyên gia về tin học, phần mềm- một lĩnh vực mới mà nếu chúng ta có thể vận dụng thì sẽ giải quyết được rất nhiều vấn đề về cả chuyên môn và kỹ thuật một cách đơn giản và hiệu quả hơn nhiều so với phương pháp chúng ta đang làm hiện nay. Loại chuyên gia này ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa được coi trọng. Do đó trong thời gian tới Bảo hiểm xã hội Việt Nam cần bổ sung thêm những biện chế thực sự cần thiết với từng công việc cụ thể, có như vậy sự nghiệp BHXH mới có thể phát triển vững chắc, hoạt động BHXH mới thực sự mang lại lợi ích cho mọi người lao động cũng như sự ổn định cho toàn xã hội. Đó cũng chính là tính nhân văn vượt trội của BHXH.



3.3 Kiến nghị

3.3.1 Đối với Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội

- Cần sớm thông qua và nhanh chóng ban hành Luật BHXH, đồng thời phải tạo được sự tương thích giữa Luật BHXH và các Luật khác có liên quan như Luật Lao động, Luật doanh nghiệp, Luật HTX... Đây là chính sách rất lớn, nhạy cảm, có ảnh hưởng lâu dài, vì vậy trước khi thông qua dự án Luật BHXH cần phải tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của cử tri nhất là những người đang tham gia BHXH.

- Đề nghị đoàn Đại biểu Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội tăng cường giám sát việc thực hiện pháp luật về BHXH ở địa phương.

3.3.2 Đối với Chính phủ:

- Tổ chức tổng kết đánh giá toàn diện việc tổ chức thực hiện BHXH từ năm 1995 đến nay đẩy nhanh tiến độ soạn thảo dự án Luật trình Quốc hội phê chuẩn.

- Chỉ đạo các bộ ngành chức năng, các tỉnh, thành phố để tăng cường công tác quản lý nhà nước về BHXH ở địa phương, ắn trách nhiệm phối hợp của các cơ quan liên quan và chính quyền các cấp với cơ quan BHXH trong việc quản lý đối tượng tham gia BHXH ngay từ khi thành lập doanh nghiệp, tăng cường số lượng, chất lượng thanh tra viên và tổ chức thanh tra, kiểm tra xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm việc thực hiện chính sách BHXH.

- Chỉ đạo BHXH Việt Nam và các cơ quan liên quan tăng cường tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động về chính sách BHXH; Củng cố tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực cho cán bộ, viên chức; Cải cách thủ tục hành chính, thực hiện công khai việc đóng- hưởng BHXH ở cơ sở, thông báo định kỳ cho người lao động để tạo thuận lợi cho người sử dụng lao động và người lao động trong việc tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH; Xác định, phân loại đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, phân cấp đến xã phường để quản lý chặt chẽ đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tham gia BHXH theo quy định, trên cơ sở đó định kỳ thông báo cho cơ quan chức năng thanh tra, kiểm tra xử lý việc vi phạm theo luật pháp.

- Chỉ đạo các cơ quan chức năng rà soát các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật về BHXH, khắc phục sớm những bất cập trong thực hiện chính sách BHXH, đồng thời xem xét tính khả thi của các văn bản pháp quy mà chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành.

3.3.3 Đối với BHXH Việt Nam, BHXH Tỉnh Phú Thọ

- Đề nghị BHXH Việt Nam tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy, của đội ngũ cán bộ, BHXH Việt Nam phải tập trung vào việc kiện toàn cơ cấu tổ chức từ Trung ương đến địa phương theo hướng tinh gọn, hiệu quả, phù hợp yêu cầu nhiệm vụ; Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải tiến lề lối làm việc; Xử lý nghiêm khắc mọi biểu hiện quan liêu cửa quyền, phiền hà sách nhiễu cho người tham gia BHXH; Đồng thời cũng cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, nâng cao nhận thức trình độ phẩm chất chính trị cho đội ngũ cán bộ công chức.


- Khi có các chế độ chính sách BHXH, BHYT và các quy định mới bổ sung, sửa đổi, các bộ ngành Trung ương và BHXH Việt Nam cần có các văn bản chỉ đạo sớm để BHXH các tỉnh tổ chức triển khai thực hiện kịp thời.

- Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bảo hiểm xã hội Tỉnh Phú Thọ cần phải có kế hoạch phổ biến kiến thức tin học cho cán bộ công chức toàn ngành; trang bị đồng bộ hệ thống máy tính với những phần mềm quản lý chuyên dụng và được nối mạng với nhau nhằm dễ dàng trong công tác quản lý, kiểm tra, báo cáo. Bên cạnh đó đề nghị Bảo hiểm xã hội Việt Nam tạo điều kiện về biên chế để mỗi tỉnh có thể tiếp nhận một số chuyên viên kỹ thuật giỏi về vi tính để xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình áp dụng CNTT vào quản lý nhiệp vụ BHXH.

- Cần nghiên cứu bổ sung sửa đổi chế độ chính sách BHXH. Đặc biệt là phải có chính sách ưu tiên đối với đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa điều kiện đặc biệt khó khăn phù hợp với từng vùng, miền của Tổ quốc;

3.3.4 Đối với Tỉnh Ủy, UBND huyện Yên Lập:

- Tiếp tục quan tâm, chỉ đạo các Huyện, xã, các Sở, Ban, Ngành đoàn thể và các cơ quan thông tin tuyên truyền địa phương phối hợp với BHXH Huyện Yên Lập tuyên truyền sâu rộng về các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà Nước về chế độ chính sách BHXH, BHYT đi đôi với việc chỉ đạo các ngành chức năng phối hợp kiểm tra thực hiện chế độ chính sách BHXH, BHYT trên địa bàn huyện.

- Cần đầu tư hơn nữa cơ sở vật chất phục vụ cho công tác quản lý BHXH, đặc biệt là đầu tưư vào các cơ sở KCB trong tỉnh, nhất là các trạm y tế xã, phường để nhân dân và các đối tượng có thẻ BHYT ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn có điều kiện để chăm sóc sức khỏe và KCB tại nơi cư trú.

2.5 Đối với BHXH huyện Yên Lập:

- Cần thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo chương trình kế hoạch của BHXH Việt Nam, BHXH Tỉnh Phú Thọ đã đề ra, quan tâm hơn nữa đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, giải quyết chế độ, quyền lợi cho cán bộ công chức viên chức kịp thời, đúng quy định. Đánh giá công tác từng cán bộ khách quan, công bằng tạo bầu không khí dân chủ đoàn kết động viên cán bộ công chức phát huy trí tuệ, khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao.

- Phối hợp với các ngành, các cấp, các cơ quan đơn vị để thực hiện tốt chính sách BHXH. Tăng cường tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức cho các đối tượng tham gia BHXH, BHYT.

- Tổ chức tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ công chức, các đơn vị sử dụng lao động triển khai thực hiện tốt các Nghị định của Chính phủ, đưa chính sách BHXH, BHYT đến với mọi người dân.

Với các giải pháp như trên hy vọng rằng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH nói riêng và việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT nói chung sẽ đạt được hiệu quả cao nhất để đưa BHXH, BHYT đến với mọi người dân trong xã hội như trong chiến lược phát triển BHXH Việt Nam đến năm 2010 đã đề ra.

KẾT LUẬN

Chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội của Đảng và Nhà Nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay BHXH đang trở thành nhu cầu cấp thiết và đòi hỏi khách quan của người lao động. BHXH là phương tiện để bảo vệ, che chở người lao động khỏi ảnh hưởng trực tiếp của những hạn chế trong cơ chế mớin và là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị xã hội. Cùng với việc đổi mới chính sách BHXH thì việc thực hiện BHXH gặp không ít khó khăn. Những khó khăn trong công tác BHXH có nguyên nhân từ phía người lao động, người sử dụng lao động và cả nguyên nhân chủ quantừ phía cơ quan BHXH. Đó là sự thiếu hụt trong nhận thức của khá nhiều người lao động, chủ sử dụng lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Điều này dẫn đến những thiệt thòi cho người lao động khi có rủi ro xảy ra. Nhiều chủ doanh nghiệp không thực sự tuân thủ các quy định trong việc thực hiện nghĩa vụ về BHXH đối với người lao động mà họ sử dụng. chính vì vậy việc quản lý đối tượng tham gia BHXH là một khâu không thể thiếu trong việc thực hiện chính sách BHXH nhất là ở một địa phương vùng sâu, vùng xa như tỉnh Cao Bằng nhận thức về BHXH chưa được sâu sắc, gây khó khăn cho hoạt động BHXH.

Bước sang giai đoạn phát triển mới hy vọng rằng BHXH sẽ phát triển toàn diện hơn để đáp ứng nhu cầu của người lao động trong nền kinh tế quốc dân. Muốn làm được điều đó thì phải dựa trên những tính toán chính xác, cân nhắc thận trọng và phải được sự quan tâm của Đảng và Nhà Nước cũng như các bộ ngành liên quan và các bên tham gia BHXH. Có như vậy công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH mới có những bước đi đúng đắn phù hợp với tình hình hiện tại và định hướng phát triển trong tương lai./.

Thời gian thực tập vừa qua đã giúp em tìm hiểu về công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại Huyện Yên Lập, tuy đã cố gắng nỗ lực rất nhiều nhưng không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự góp ý của Giáo viên hướng dẫn cô Mai Thị Dung và toàn thể các thầy cô giáo trong bộ môn. Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế bảo hiểm. Trường Đại học KTQD – NXB Thống kê, Hà Nội - 2004

2. Các quy định pháp luật về BHXH – NXB Chính trị Quốc gia

Hà Nội – 2003

3. Giáo trình Bảo hiểm xã hội – NXB Lao động - Xã hội,

Hà Nội – 2004

4. Những điều cần biết về BHXH - Hệ thống các văn bản về BHXH – NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2000

5. Niên giám thống kê 2003, 2004, 2005

6. Bảo hiểm xã hội những điều cần biết - Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, năm 1999

7. Báo cáo tổng kết hoạt động của BHXH Việt Nam từ năm 1997 – 2005

8. Một số Công ước của Tổ chức lao động quốc tế (ILO), Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Hà Nội – 2000



9. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2001




S VTH: Nguyễn Thị Thu Anh Lớp: C13BH1

Каталог: file -> downloadfile4 -> 206
206 -> Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa công bố 6 môn thi tốt nghiệp thpt năm 2012, trong đó có môn Lịch sử. Đây là môn học được nhiều học sinh cho là “khó nuốt” nhất trong kì thi tốt nghiệp năm nay
206 -> Câu 4: Trình bày nội dung luận cương chính trị (10/1930) từ đó chỉ ra hạn chế lịch sử của cương lĩnh này?
downloadfile4 -> BÁo cáO ĐỀ TÀi kỹ thuật chuyển mạch atm
downloadfile4 -> BÀi tậP ĐẠi cưƠng hóa học hữu cơ Kiến thức cần nhớ: I. Thành phần nguyên tố
downloadfile4 -> MÔN: Phương pháp nghiên cứu khoa học Lớp: K062KT1 Thành viên nhóm: Nguyễn Thị Thu Sang 211161039 Vơ Thị Thúy Vy 211080574
downloadfile4 -> Tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi Hóa học lớp 8 Nguyễn Văn Hòa-thcs mỹ Quang
downloadfile4 -> Manageengine opmanager
206 -> Ào tạo hà NỘI
206 -> MÔN : HÓa học thời gian làm bài: 90 phút
206 -> CHƯƠng 1 những vấN ĐỀ CƠ BẢn về MARKETIng 1 Sự ra đời và phát triển của Marketing 1 Sự ra đời của Marketing

tải về 359.32 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương