TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 7303-2-33: 2010 iec 60601-2-33: 2008



tải về 2.37 Mb.
trang14/19
Chuyển đổi dữ liệu08.06.2018
Kích2.37 Mb.
#39695
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   19

Bảo trì

Chương trình bảo trì để phòng ngừa cần có các hành động sau.

Khám hệ thống xả và thông khí cho phòng.

Lắp đặt hệ thống thông khí cho phòng và hệ thống thông hỗn hợp lạnh đối với nam châm siêu dẫn phải gắn liền với các yêu cầu và cần được khám bởi các nhân viên được huấn luyện. Cả hai hệ thống phải được khám bằng mắt ở những khoảng thời gian đều đặn để xác định những thay đổi không thích hợp, cụ thể:

- thay đổi thiết kế bên trong và bên ngoài phòng khám được che chắn;

- những thay đổi không thích hợp;

- hỏng phần cách nhiệt của đường thoát khí;

- hỏng đường thoát khí;

- tắc nghẽn lối ra, ví dụ như sự hiện diện của các tổ chim (là lưới bảo vệ vẫn còn nguyên vẹn)

- hỏng các nắp che mưa bảo vệ (các nắp này thường được yêu cầu đối với các đường hóa khí toàn bộ heli lỏng (quench) ở lối ra thẳng đứng. Tùy thuộc vào thiết kế, các nắp này cũng thường đặt trong các lối ra nằm ngang).

- sau khi hệ thống được chuyển giao cho khách hàng đường xả khí ra bên ngoài có bị thay đổi đến mức làm cho các hệ thống khác lắp cùng chịu khí thải hay không? Điều này là có thể, ví dụ cửa sổ được lắp sau, lối ra và lối vào được đặt vào vị trí dành cho hệ thống sưởi hoặc điều hòa không khí, các công trình xây dựng mới hoặc các côn ten nơ được lắp tạm thời và chất thải xây dựng hoặc vôi vữa bên ngoài khác mà có thể gây ảnh hưởng bất lợi đến tính năng của hệ thống thông khí.

- hệ thống sưởi và điều hòa không khí hoặc hệ thống thông khí của phòng có bị thay đổi không, ví dụ bằng cách thêm các đường vào và đường ra thông khí khác trong các phòng bên cạnh?

- có lắp đặt thêm các hệ thống MR bổ sung không?

- có đường hóa khí toàn bộ heli lỏng (quench) tương tự sử dụng cho hệ thống MR bổ sung hay không?

Vì mỗi hệ thống chịu những thay đổi hoặc sửa chữa công trình xây dựng trong tuổi thọ vận hành của mình nên người vận hành cần nắm rõ tầm quan trọng của đường hóa khí toàn bộ heli lỏng (quench) và hệ thống thông khí. Vì lý do này, chúng ta nên thường xuyên khám bằng mắt (ví dụ liên quan đến sự thay đổi trong kết cấu ở gần đường hóa khí toàn bộ heli lỏng (quench), những thay đổi liên quan đến thời tiết khắc nghiệt như băng, tuyết hoặc cát). Trong trường hợp chức năng của hệ thống có vấn đề thì cần liên hệ với nhà cung cấp hệ thống thông khí.

Kế hoạch khẩn cấp

Các khuyến cáo dưới đây được thiết kế để giúp người vận hành thiết lập kế hoạch khẩn cấp gồm:

- bố trí phòng MR liên quan đến cửa sổ, các đường thoát cho cả nhân viên và thoát khí thải ra bên ngoài, công tắc bằng tay khẩn cấp trên giá đỡ bệnh nhân để di chuyển nhanh bệnh nhân;

- tính sẵn sàng của những nhân viên khẩn cấp (ví dụ nhân viên cứu thương, đội đáp ứng khẩn cấp với cháy tại hiện trường và nhân viên bảo vệ tại hiện trường hoặc không tại hiện trường);

- hướng dẫn và thông tin được cung cấp cho sở cứu hỏa và sở cảnh sát (cần được cung cấp trước khi có tình huống khẩn cấp thực sự như mô tả trong sổ tay vận hành), kể cả sự cần thiết phải khám thêm xem còn tồn tại trường từ hay không;

- các bài tập cứu hộ cần thực hiện với nhân viên tương ứng;

- người thao tác phải được huấn luyện để giám sát việc sơ tán của phòng MR và các phòng liền kề;

- nhân viên chỉ nên quay lại phòng MR sau khi tình hình đã trở lại bình thường tức là sau khi ngừng tạp âm và tầm nhìn không còn bi che chắn nữa. Vì lý do an toàn, tất cả các phòng cần được làm thoáng khí; cửa sổ và cửa ra bên ngoài phải được mở ra. Hệ thống điều hòa không khí sẽ luôn cung cấp sự trao đổi không khí hiệu quả.

Nếu có người trong phòng nam châm thì cần xem xét những nội dung sau.

- Viễn cnh tiêu chuẩn: đường hóa khí toàn bộ heli lỏng (quench) làm việc như kế hoạch. Bệnh nhân có thể dễ dàng chuyển chỗ. Việc tiếp xúc với các bộ phận làm đông lạnh bị ngăn chặn.

- Rò rỉ nhỏ: điều này có thể tạo ra các đám mây sương mù nhỏ mà vẫn sáng sủa phía trên đầu và được lấy đi bằng hệ thống sưởi hoặc điều hòa. Các đám mây sương mù trắng có thể chìm xuống nền nhà. Các đám mây này gồm không khí lạnh và không làm mất oxy. Trong trường hợp này, không có quá áp suất. Không có rủi ro nghẹt thở đối với cả bệnh nhân và nhân viên. Bệnh nhân có thể được di chuyển, ngay lập tức hoặc sau vài phút tùy thuộc vào phản ứng của bệnh nhân với tình huống này. Việc tiếp xúc với các bộ phận làm đông lạnh bị ngăn chặn.

- Hỏng một phần hoặc toàn bộ đường hóa khí toàn bộ heli lỏng (quench): có thể tồn tại những đám mây lớn giống như sương mù và có thể gây ảnh hưởng đến thị giác, áp suất trong phòng khám sẽ tăng lên. Trong quá trình hỏng toàn bộ hệ thống thông khí của nam châm siêu dẫn bên trong phòng khám, phòng khám sẽ nhanh chóng bị điền đầy khí heli bị đông lạnh.

Theo lệ thường, nhân viên cứu hộ không nên làm việc một mình, nhưng đúng hơn là cần làm việc theo nhóm gồm 2 hoặc nhiều người.

Thường thường luồng khí mạnh nhất xuất hiện trong vài phút đầu tiên và sau đó sẽ rút xuống. Tuy nhiên, nguyên nhân của luồng khí thì chưa được dự báo đầy đủ, vì vào thời điểm xuất hiện, các kiểu sai lỗi trong đường hóa khí toàn bộ heli lỏng (quench) thường chưa được biết đầy đủ.

Trước khi mở cửa phòng điều khiển, tất cả các cửa và cửa sổ có sẵn cần được mở ra để đảm bảo thông khí đầy đủ. Tất cả các nhân viên ở gần hệ thống những người mà không cần thiết đối với cho hoạt động cứu hộ cần rời đi trước khi cứu hộ bệnh nhân trong phòng khám. Khi mở cửa, quá áp suất có thể có trong phòng cần được xem như một nhân tố như sau:

- Nếu cửa mở ra phía ngoài theo hướng phòng điều khiển thì cửa có thể bay ra khi có quá áp suất. Người vận hành phải nhận thức được khả năng này để có thể tránh bị thương do việc mở cửa không chủ ý này.

- Nếu cửa mở vào trong theo hướng phòng khám thì có thể không mở được cửa khi có quá áp suất trong phòng. Trong trường hợp này, cửa sổ và nắp khẩn cấp phải được mở ra. Quá áp suất có thể làm cho cửa sổ hoặc nắp đu đưa không mong muốn. Nếu không có các lỗ khẩn cấp, cửa sổ quan sát có thể bị vỡ ra từng mảnh. Tuy nhiên, các mảnh thủy tinh vỡ có thể gây thương tích cho nhân viên cứu hộ. Tùy thuộc vào kết cấu và độ dày của cửa sổ, người sử dụng phải có dụng cụ thích hợp để phá vỡ cửa sổ.

Sau khi mở cửa phòng khám, khí heli có thể thoát sang các phòng liền kề, gây nguy hiểm cho nhân viên cứu hộ. Có thể khám mức oxy trong không khí bằng thiết bị theo dõi oxy. Mặt nạ phòng khí không bảo vệ chống sự thế chỗ của oxy bởi khí heli. Bình không khí có thể cần thiết để dễ dàng chịu được khí heli thoát ra. Ngoài rủi ro bị nghẹt thở còn có rủi ro khác như sự giảm nhiệt hoặc đông cứng.

Vì khí heli nóng lên rất nhanh và lan rộng từ trần nhà xuống phía dưới, người lao động cứu hộ đứng thẳng sẽ phải chịu nguy hiểm lớn hơn bệnh nhân nằm trên giá đỡ bệnh nhân. Ở gần cửa ra vào có thể có nhiều không khí hơn. Nhân viên cứu hộ có thể có thêm thời gian bằng cách bò bằng tay và đầu gối để có thêm không khí.

Sau khi bệnh nhân được di chuyển ra khỏi phòng khám, nhân viên cứu hộ không cần ở gần hệ thống MR cho đến khi dừng hóa khí toàn bộ heli lỏng (quench) và thông khí được đảm bảo.

Sau khi hóa khí toàn bộ heli lỏng (quench), phải thực hiện quy trình bảo dưỡng như mô tả trong tài liệu kèm theo. Nhân viên bảo trì cần được thông báo ngay để đưa hệ thống MR vận hành trở lại.

Liên quan đến 26 Rung và ồn

Tốc độ thay đổi nhanh của dòng điện chạy qua cuộn gradient trong trường từ tĩnh gây rung trong dải tần có thể nghe thấy. Các rung này thường thể hiện dưới dạng các tiếng gõ to.

Mất thính giác đột ngột có thể gây ra do những tiếng ồn rất to và ngắn như những tiếng gõ này ở đó thông số an toàn tương ứng là mức áp suất âm thanh đỉnh, được đo bằng dB liên quan đến 20 Pa.

Giới hạn trên mức áp suất âm thanh đỉnh 140 dB được lấy từ các giá trị được chấp nhận hiện nay trên thế giới. Rất khó để dự đoán trong các trường hợp nào thì thiết bị cộng hưởng từ sẽ tạo ra trường hợp xấu nhất liên quan đến tiềng ồn phát ra. Rất có thể xảy ra rằng do đặc tính đáp ứng tần số của thiết bị cộng hưởng từ, tiếng ồn trường hợp xấu nhất được tìm thấy đối với giao thức khám (mà do sự trùng hợp ngẫu nhiên làm cho thiết bị cộng hưởng từ hoạt động ở tần số công hưởng cơ học và do đó sinh ra tiếng ồn nhiều hơn).

Liên quan đến 36 Tương thích điện từ

Trong khu vực tiếp cận có điều khiển, thiết bị cộng hưởng từ nhìn cung sẽ không đáp ứng được các yêu cầu hiện hành đối với phát xạ tần số radio. Các yêu cầu này ban đầu được dự kiến nhằm bảo vệ sự liên lạc bằng tần số radio và nằm trong các tiêu chuẩn như TCVN 6988 (CISPR 11). Giới hạn cho phép đối với phát xạ tần số radio nằm trong phạm vi từ 30 dBV/m đến 50 dBV/m. Đề xuất rằng trong tiêu chuẩn sắp tới, các mức phát xạ đối với thiết bị cộng hưởng từ, thiết bị X quang có sử dụng máy tính và thiết bị X quang phức hợp được đo tại các biên của phòng hoặc công trình xây dựng.

Các tiêu chuẩn IEC về EMC đang được biên soạn và sẽ xử lý vấn đề miễn nhiễm đối với các trường tần số radio của thiết bị y tế. Mong muốn rằng miễn nhiễm sẽ được đòi hỏi đối với trường hợp chung có trường từ 1 V/m đến 3 V/m và đối với các trường hợp đặc biệt, ví dụ thiết bị duy trì sự sống hoặc một số thiết bị theo dõi bệnh nhân, có trường từ đến 10 V/m hoặc 100 V/m.

Trên thực tế, trong khu vực tiếp cận có điều khiển xung quanh thiết bị cộng hưởng từ, cường độ trường từ tần số radio có thể dễ dàng vượt quá các giới hạn này và có thể có các giới hạn lớn hơn 100 V/m. Rõ ràng rằng thiết bị ngoại vi sử dụng trong khu vực tiếp cận có điều khiển có thể bị ảnh hưởng bởi trường này.

Liên quan đến 51 Bảo vệ chống nguy cơ quá công suất

Trường thay đổi theo thời gian (gradient), trường tần số radio và trường từ tĩnh do thiết bị cộng hưởng từ sinh ra có thể ảnh hưởng đến các chức năng sinh lý ở mức độ đòi hỏi phải có các biện pháp an toàn. Các khuyến cáo đưa ra dựa trên kiến thức khoa học và các hiểu biết về kỹ thuật hiện nay. Khi thiết lập các khuyến cáo này đã xét đến các hướng dẫn hiện có. Khi có thêm các bằng chứng mới thì có thể cần xem xét lại.

Các khám MR để chẩn đoán luôn có thể hoàn thành trong khoảng 1 h. Do đó các xem xét liên quan đến các ảnh hưởng của phơi nhiễm bệnh nhân trong thời gian khoảng 1 h với trọng tâm là các phản ứng bất lợi trực tiếp.

Liên quan đến 51.102 Bảo vệ chống các biến đổi trường tần số thấp quá mức do hệ thống chênh từ sinh ra

1) Giới thiệu

Trường từ thay đổi theo thời gian cảm ứng ra trường điện E theo định luật Faraday. Đóng cắt cuộn gradient trong thiết bị cộng hưởng từ sinh ra trường từ thay đổi theo thời gian (dB/dt hoặc B) làm cho cơ thể bệnh nhân bị phơi nhiễm trong trường điện cảm ứng. Ở các tần số cao hơn 10 kHz, các trường cao hơn được yêu cầu đối với hiệu ứng [84]. Trường điện đến lượt mình lại cảm ứng ra dòng điện và điều này sẽ làm phát nóng theo định luật ôm. Trên thực tế, hiệu ứng phát nóng bởi đầu ra gradient chưa được quan tâm.

Trong trường hợp đơn giản trường từ thay đổi đồng nhất theo thời gian và cơ thể hình trụ có độ dẫn đồng nhất với trục song song với trường từ B, trường điện E sẽ hướng dọc theo đường tròn vuông góc với B. Do đó, độ lớn của nó vuông góc với bán kính của đường tròn. Vì vậy, mức quan tâm phụ thuộc vào kích cỡ của hệ thống chênh từ và phạm vi của môi trường dẫn. Kích thích mô xuất hiện dễ dàng hơn khi trường từ gradient thay đổi theo thời gian sinh ra trong các hệ thống chênh từ lớn.

2) Mối quan tâm về an toàn

Mối quan tâm chủ yếu liên quan đến đầu ra gradient là kết sợi tim và kích thích thần kinh ngoại vi. Kết sợi tim là hiện tượng nghiêm trọng nhất vì nó là tình trạng đe dọa trực tiếp đến cuộc sống. Kích thích thần kinh cũng là mối quan tâm vì kích thích mạnh có thể là sự đau đớn không thể chịu nổi. Hiện tượng này xuất hiện ở trên các mức ngưỡng đối với kích thích tim (CS) và kích thích thần kinh ngoại vi (PNS).

Mối quan tâm thứ yếu là sự phát nóng của bệnh nhân. Mặc dù phát nóng do các dòng điện cảm ứng là thấp nhưng nó bổ sung cho phát nóng gây ra do phơi nhiễm sóng radio (RF)trong thiết bị cộng hưởng từ và mối quan tâm ở đây liên quan đến hiệu ứng kết hợp của hai nguồn phát nóng.

3) Mô hình kích thích

Mô hình lý thuyết về hệ thần kinh u bướu không tuyến tính mở rộng trong không gian (SENN) của Reilly [85] dự đoán rằng các điều kiện ngưỡng đối với kích thích thần kinh có thể được mô tả bằng cường độ trường điện cục bộ tại điểm cuối của dây thần kinh, song song với hướng và trong thời gian kích thích ts. Với khoảng thời gian kích thích dài, trường ngưỡng đạt tiệm cận đến mức thấp nhất Emin và với thời gian kích thích ngắn, ngưỡng này vuông góc với tích giữa Emin và 1/ts.



Reilly dự kiến rằng hàm của ngưỡng theo ts có thể xấp xỉ theo luật số mũ:

Từ mô hình, giá trị nhỏ nhất trong con người có ngưỡng Emin đối với kích thích tim và PNS đối với kích thích điện vuông góc một cực được ước lượng là 6,2 V/m. Giá trị thực nghiệm đối với hằng số thời gian tc thay đổi trong phạm vi từ 0,12 ms đến 0,8 ms đối với PNS. Đối với kích thích tim, phạm vi này là 1 ms đến 8 ms, và Reilly đề xuất lấy 3 ms làm giá trị đại diện.

Một công thức thay cho mối quan hệ hàm số mũ trong công thức (BB.5) đã được đề xuất để cho phép mô tả chính xác hơn các dữ liệu thực nghiệm [86, 87]. Hàm thay thế này thể hiện ngưỡng để có được sự phụ thuộc hypecbol vào thời gian kích thích:

ETH = ngưỡng dòng điện (1 + chronaxie/ts) (BB.6)

Trong công thức này, ngưỡng dòng điện là giới hạn tần số thấp của kích thích ngưỡng và chronaxie là thời gian phản ứng đặc trưng của dây thần kinh đang xét. Theo công thức (BB.5), ts là khoảng thời gian kích thích. Công thức này cũng áp dụng cho kích thích chữ nhật một cực. Như được thảo luận dưới đây, các thực nghiệm gần đây cho thấy rằng PNS do các trường gradient được đặc trưng chính xác bằng công thức (BB.6) sử dụng chronaxie bằng 360 S [89, 90, 91].

Schaefer [88] vạch ra rằng khi so sánh với mối quan hệ hàm mũ của công thức (BB.5), quan hệ hypecbol của công thức (BB.6) phù hợp hơn đối với các giá trị lý thuyết của ngưỡng từ mô hình SENN của Reilly. Do đó, công thức (BB.6) được sử dụng ở đây để mô tả các giới hạn kích thích thần kinh ngoại vi.



4) Giới hạn sinh lý học đối với sự phát nóng và kích thích tim và kích thích thần kinh ngoại vi

Reilly [85] đã so sánh các loại nghiên cứu của kích thích điện lên động vật. Ông ta quan sát rằng các ngưỡng kết sợi tim được phân bố theo log chuẩn với những nhóm nhạy nhất nằm bên dưới giá trị trung bình khoảng hệ số 2. Ngoài ra, ông ta ước lượng rằng trong một loài động vật cho trước, ngưỡng kích thích (bắt đầu loạn nhịp) sẽ là 40 % mức kết sợi tim. Bằng cách ngoại suy cho con người, ông ta giả thiết là ngưỡng kích thích của con người từ mô hình SENN của ông là 20 % mức kết sợi trung bình của con người. Reilly ước lượng rằng dB/dt (71,3; 72,1; 50,8) T/s đối với đóng cắt của gradient (x, y, z) là cần thiết để đạt được trường điện trong tim là 6,2 V/m, ước lượng của ông dùng cho trường ngưỡng dòng điện để kích thích 1-percentile nhạy nhất.

Bouland và những người khác [90] đã ghi lại ngưỡng kích thích tim trung bình của chó đối với đóng cắt gradient HF vượt quá 2 700 T/s ở thời gian 530 s. Với hằng số thời gian của dây thần kinh tim 3 ms, điều này ứng với giá trị tiệm cận của mức kích thích 440 T/s. Từ các tính toán xem xét sinh lý học trên chó và người, đơn vị dB/dt dọc theo chiều dài của vật thể cảm ứng ra trường điện trong tim người bằng 2,81 lần lớn hơn trong tim chó vì vậy đối với người, có thể suy ra mức kích thích tiệm cận 156 T/s và mức 1-percentile dự kiến ở 78 T/s, tương đối phù hợp với ước lượng của Reilly.

Giới hạn sử dụng trong tiêu chuẩn này nhằm tránh kích thích tim có hệ số an toàn 3 thấp hơn ngưỡng 1-percentile. Giới hạn này dựa trên mô hình SENN và mức ngưỡng kích thích tim được xác định bằng thực nghiệm. Với giả thiết như trên, giới hạn này ứng với sự có khả năng xảy ra kích thích tim nhỏ hơn 2x10-9. Ngoài ra, nó cho thấy rằng giới hạn kích thích thần kinh ngoại vi cho trong tiêu chuẩn thấp hơn giới hạn kích thích tim đối với tất cả các khoảng thời gian kích thích.

Trong nghiên cứu Purdue của Bourland và những người khác [90] trên 84 vật thể, dB/dt cần thiết đối với percentile nhỏ nhất của kích thích khó chịu xấp xỉ bằng ngưỡng trung bình đối với PNS để đóng cắt gradient theo cả hai hướng gradient trước-sau (AP) và đầu-chân (H-F). Percentile nhỏ nhất đối với kích thích không thể chịu được xuất hiện ở dB/dt cao hơn ngưỡng PNS trung bình khoảng 20 %. Kích thích gây đau không chỉ là nguồn gây bực dọc nghiêm trọng; nó cũng liên quan đến sự co bóp bắp thịt không chủ ý, vì thế ở mức này rất khó đạt được sự phối hợp giữa bệnh nhân và hiệu quả của việc khám. Kích thích không thể chịu được một cách rõ ràng là điểm kết thúc ở khía cạnh đó. Ngoài ra, phản ứng của bệnh nhân trong tình huống này tạo nên rủi ro an toàn hơn nữa. Vì vậy, trong tiêu chuẩn này, mức kích thích trung bình được chọn làm giới hạn đối với chế độ vận hành có điều khiển mức một và 80 % giá trị đó được chọn làm giới hạn đối với chế độ vận hành bình thường.

Mức phơi nhiễm cho phép của nhân viên cộng hưởng từ đối với đầu ra gradient được thiết lập ở mức bệnh nhân sao cho giảm thiểu xác suất xuất hiện PNS không chịu đựng được. Việc xác định quan hệ giữa mức này với mức ngưỡng trung bình PNS của bệnh nhân là khó khăn vì nhân viên cộng hưởng từ có thể chiếm chỗ trong máy khám cộng hưởng từ mà bệnh nhân không thể hoặc sẽ không đi vào.

Cần thực hiện các lưu ý trước khi MRI can thiệp vào để tránh PNS không mong muốn của nhân viên cộng hưởng từ trong ca làm việc của họ mà có thể ảnh hưởng bất lợi đến an toàn của bệnh nhân.

5) Quan hệ giữa trường E và dB/dt trong thiết bị cộng hưởng từ

Việc chuyển từ các giới hạn trường E sang các giới hạn dB/dt đòi hỏi các kiến thức về mối quan hệ giữa các thông số này theo dạng hình học điển hình của bệnh nhân và hệ thống chênh từ.



Trường điện E cảm ứng bởi hệ thống chênh từ trong cơ thể liên quan đến phân bố trong không gian của dB/dt và với dạng hình học của cơ thể. Đối với đường cong kín I bất kỳ vẽ nên mặt phẳng S, công thức vật lý cơ bản là:

Điều này có thể được giải quyết khi quy định các điều kiện biên. Như một trường hợp đơn giản hóa để minh họa, bệnh nhân có thể được mô phỏng bởi hình elipsoid dài có độ dẫn đồng nhất với chiều dài của nửa trục a và chiều dài của nửa trục phụ b và khoảng không bên ngoài bệnh nhân bởi môi trường cách ly. Khi trường từ thay đổi theo thời gian đồng nhất trong không gian được đặt vuông góc với trục chính của elip tròn xoay này thì giá trị E lớn nhất xuất hiện trên mặt phẳng trung bình của elipsoid, dọc theo chu vi. Nó cho thấy là chu vi này là nơi tại đó PNS dự kiến sẽ xuất hiện đầu tiên. Reilly [85] chỉ ra rằng tại vị trí đó



Khi elipsoid có chiều dài nửa trục a = 0,4 m và b = 0,2 m, thể hiện mặt cắt của bệnh nhân với trường theo hướng AP, mối quan hệ tạo ra là

|E| = 0,16dB / dt (BB 7b)

trong đó


E tính bằng V/m, và

dB/dt tính bằng T/s.

Khi trường từ thay đổi theo thời gian song song với trục chính của elipsoid, là trường hợp thể hiện trường theo hướng HP, trường điện cảm ứng sẽ song song với mặt cắt trong của nó với bán kính b = 0,2 m, trong trường hợp đó

|E| = 0,10dB / dt (BB 7c)

trong đó

E tính bằng V/m, và

dB/dt tính bằng T/s.

Trên thực tế, trường từ hệ thống chênh từ trong thiết bị cộng hưởng từ là không đồng nhất. Trong hệ thống chênh từ, giá trị lớn nhất trong không gian của dB/dt tại ngoại vi của bệnh nhân cao hơn giá trị trung bình dB/dt của toàn bộ cơ thể. Các tính toán gần đây với mô hình con người thực tế về mặt hình thái học ghi lại rằng các hệ số trong các công thức (BB 7b) và (BB 7c) là 0,11 và 0,08 một cách tương ứng, đối với dB/dt được lấy làm giá trị lớn nhất ở bán kính 0,2 m. Botwell và Bowley [92] cũng ghi được các giá trị tương tự. Họ tính được dòng điện cảm ứng trong trụ dẫn bán kính 0,195 m trong hình mô phỏng. Từ các kết quả đạt được có thể xác định các giá trị E/(dB/dt) (dB/dt là giá trị lớn nhất tại r = 0,195 m). Đối với đóng cắt gradient ngang, tỷ số là 0,121 và tỷ số 0,087 đối với đóng cắt gradient dọc. Lưu ý rằng trường điện lớn nhất cục bộ sẽ có thể lớn hơn với hệ số 2 nếu mô hình xét đến độ dẫn không đồng nhất, ví dụ tăng lên do tính cả đến xương.



Việc chuyển từ công thức (BB.6) thành cách biểu diễn giá trị ngưỡng dB/dt là có thể khi giá trị của nó liên quan đến vị trí đại diện cụ thể. Đặc trưng của dạng song gradient trong thiết bị cộng hưởng từ có dạng lưỡng cực lặp. Đối với dạng sóng gradient hình thang như thể hiện trên Hình 102, trường E cảm ứng sẽ là chuỗi các kích thích hình chữ nhật với dấu thay đổi. Thời gian kích thích ts của phần dốc lưỡng cực trong dạng sóng gradient hình thang có biên độ lớn nhất Gmax là:

ts = (BB 8)

Каталог: data -> 2017
2017 -> Tcvn 6147-3: 2003 iso 2507-3: 1995
2017 -> Các Cục Hải quan tỉnh, thành phố
2017 -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 10256: 2013 iso 690: 2010
2017 -> Căn cứ Nghị định số 15/2017/NĐ-cp ngày 17/02/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
2017 -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8400-3: 2010
2017 -> TIÊu chuẩn nhà NƯỚc tcvn 3133 – 79
2017 -> Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 tháng 6 năm 2015
2017 -> Căn cứ Nghị định số 15/2017/NĐ-cp ngày 17 tháng 02 năm 2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
2017 -> Btvqh10 ngày 25 tháng 5 năm 2002 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tự vệ trong nhập khẩu hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam

tải về 2.37 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   19




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương