Tiến sĩ: Abudul Azeez bin Muhammad Ali Abdul Lateef Dịch Thuật: Ibn Ysa


h) Thành quả của niềm tin vào các Rosul



tải về 1.06 Mb.
trang5/7
Chuyển đổi dữ liệu06.11.2017
Kích1.06 Mb.
#34149
1   2   3   4   5   6   7

h) Thành quả của niềm tin vào các Rosul:

1- Biết được lòng bao la quảng đại của Allah khi cử phái các Rosul đến với nhân loại nhằm bảo vệ và hướng dẫn con người đồng thời truyền đạt cho họ cách thức tôn thờ Allah theo đường lối đúng tránh mọi sự lệch lạc và điên rồ và bởi vì đầu óc con người có giới hạn không thể hiểu biết ngoại trừ thông qua Rosul , như được phán vền Nabi Muhammad :

ﭧ ﭨ ﮋ ﮐ ﮑ ﮒ ﮓ ﮔ ﮕ ﮊ الأنبياء: ١٠٧

Và TA (Allah) đã không cử phái Ngươi (Muhammad) đến ngoại trừ như một hồng ân (mà TA) ban cho nhân loại và muôn loài Al-Ambiya: 107.


2- Tạ ơn Allah với đại hồng ân này.

3- Thương yêu, khen ngợi các Rosul với lời lẽ xứng đáng dành cho họ, bởi vì họ đã cống hiến đời mình trong việc lập đạo giáo, truyền bá lời mặc khải và khuyên răng mọi người.

4- Nghe và làm theo lời mặc khải đã được ban xuống từ Allah để có được cuộc sống hạnh phúc và sự hướng dẫn ngay chính ở trần gian lẫn ngày sau.

Allah phán:

ﭧ ﭨ ﮋ ﯫ ﯬ ﯭ ﯮ ﯯ ﯰ ﯱ ﯲ ﯳ ﯴ ﯵ ﯶ ﯷ ﯸ ﯹ ﯺﮊ طه: ١٢٣ – ١٢٤

Cho nên, ai theo chỉ đạo của TA sẽ không lầm lạc cũng không khổ sở. * Ngược lại, ai lánh xa lời mặc khải của TA chắc chắn sẽ sống một cuộc đời eo hẹp khổ sở Toha: 123 – 124.



Tin tưởng vào ngày tận thế
a) Ý nghĩa của sự tin tưởng vào ngày tận thế:

Là sự tin tưởng ngày tận thế chắc chắn sẽ xảy ra không đường nào tránh khỏi và cố tâm đầu tư cho ngày đó với những việc thiện theo đường lối Islam đã dạy. Sự tin tưởng đó bao gồm: tin tưởng những dấu hiệu báo trước của ngày tận thế, tin tưởng vào sự chết chốc và điều gì xảy ra sau khi chôn, y sẽ được hưởng thụ hay bị hành phạt trong mộ, tin tưởng vào tiếng còi của ngày tận thế hụ lên rồi tất cả mọi người đứng dậy từ trong mộ và hoàn cảnh con người trong ngày đó với sự sợ hãi kinh hoàng rồi mỗi người được ban cho quyển sổ ghi chép hành động ở trần gian, tin tưởng vào cán cân được đặt ra, cây cầu được bắt ngang miệng hỏa ngục, hồ nước của Nabi  và lời biện hộ, tin tưởng vào sự hưởng thụ sung sướng tột đỉnh của thiên đàng mà không một con tim nghĩ đến cũng không một con mắt nào từng thấy song được ngắm nhìn vào gương mặt phúc hậu của Allah Đấng Tối Cao, tin tưởng vào hành phạt ghê gớm của hỏa ngục dành cho những kẻ bất tuân Allah Đấng Hùng Mạnh.


b) Thiên Kinh Qur'an rất chú trọng đến nền tảng này và sự sáng suốt của sự quan tâm đó:

- Thiên Kinh Qur'an rất quan tâm đến tầm quan trọng của ngày vĩ đại này nên thường xuyên nhắc nhở và khuyến cáo mọi người về nó với nhiều lối diễn văn độc đáo, trong những cách nhắc nhở đến ngày trọng đại này trong Qur'an Allah thường kết hợp giửa đức tin vào ngày đó với đức tin vào Ngài.

Thí dụ như câu kinh:

ﭧ ﭨ ﮋ ﮓ ﮔ ﮕ ﮖ ﮗ ﮘ ﮙ ﮚ ﮛ ﮜﮊ البقرة: ٢٣٢

Ðó là điều dùng để khuyên bảo những ai trong các người tin tưởng vào Allah và ngày tận thế Baqoroh: 232.
- Thiên Kinh Qur'an nhắc đến ngày tận thế nhiều như thể lật trang nào cũng thấy nói về hoàn cảnh và diễn biến xảy ra xung quang vấn đề đó với rất nhiều lối văn đa dạng và phong phú.

- Vì tầm quan trọng đặc biệt như thế mà Allah đặt cho ngày này với nhiều tên khác nhau nhằm khẳng định chắc chắn sẽ xảy ra như: ngày xét xử, ngày sự thật, ngày phục sinh.

- Trong một số tên đó cũng phần nào nói lên những sự kiện sẽ xảy ra vào ngày đó như: ngày bao trùm, ngày thảm họa, ngày đinh tai nhức óc, ngày chia rẻ.

- Một số tên khác được nhắc đến trong Qur'an: ngày thưởng phạt, ngày tính toán, ngày triệu tập, ngày vĩnh cữu, ngày bước ra (khỏi mộ), ngày ân hận (đối với kẻ bất tuân), ngày công lý.

- Sự sáng suốt khi nhắc đến vấn đề này là làm con người luôn thức tỉnh và giác ngộ đến những gì sẽ xảy ra vào ngày thưởng phạt đó nên luôn hành đạo, tranh thủ làm việc thiện, sống thanh bình tốt lành trên đời này và luôn kính sợ Allah.

- Một những những lối diễn văn tìm được là Qur'an luôn kết hợp giửa đức tin vào ngày tận thế cùng với làm việc thiện, lối diễn văn này có rất nhiều, như câu kinh:

ﭧ ﭨ ﮋ ﮙ ﮚ ﮛ ﮜ ﮝ ﮞ ﮟ ﮠ ﮡ ﮊ التوبة: ١٨

Thực ra, người đứng ra chăm sóc và bảo quản các Masjid của Allah là người tin tưởng Allah và tin vào ngày phán xét cuối cùng Al-Tâubah: 18.


Allah phán ở chương khác:

ﭧ ﭨ ﮋ ﮑ ﮒ ﮓ ﮔ ﮕﮖ ﮗ ﮘ ﮙ ﮚ ﮛ ﮊ الأنعام: ٩٢

Và đối với những ai tin tưởng vào ngày phán xét cuối cùng sẽ tin vào Qur’an và họ luôn chu toàn lễ nguyện Solah của họ Al-An-a'm: 92.
Là con người ai cũng thường hay bị quên lẵng, lơ là về ngày sau, họ xem trọng và yêu thích cuộc sống trần gian hơn rồi làm họ xem nhẹ đi những hành phạt đau đớn của hỏa ngục và niềm hưởng thụ vô tận của thiên đàng vì vậy, Qur'an đã thường xuyên nhắc nhở hồng làm họ ghi nhớ trong tâm khảm ngày đó chắc chắn sẽ đến với họ và là động cơ thúc đẩy họ làm việc thiện nhiều hơn, qui phục Allah hơn, như được phán:

ﭧ ﭨ ﮋ ﭴ ﭵ ﭶ ﭷ ﭸ ﭹ ﭺ ﭻ ﭼ ﭽ ﭾ ﭿ ﮀ ﮁ ﮂﮃ ﮄ ﮅ ﮆ ﮇ ﮈﮉ ﮊ ﮋ ﮌ ﮍ ﮎ ﮏ ﮐ ﮑ ﮒ ﮊ التوبة: ٣٨

Hỡi những người có đức tin! Tại sao khi được yêu cầu ra đi thánh chiến vì chính nghĩa của Allah, các người lại ngồi lì dưới đất? Phải chăng các người thích đời sống trần tục này hơn đời sau? Nhưng sự hưởng nhàn ở đời này thật là quá nhỏ nhoi so với đời sau Al-Tâubah: 37.
Quả thật, không gì có thể lôi cuốn con người ra khỏi chốn lầm than mù quán tâm tối chỉ biết sống ở trần gian này ngoại trừ đức tin nơi Allah và đức tin vào ngày sau. Với lòng tin tưởng đó làm cho họ biết chắc rằng tất cả những vật hiện hữu hay những gì mà họ đang sở hữu và hưởng thụ trên trần gian này chỉ là tạm bợ không tồn tại mãi, chỉ có những gì được Allah hứa hẹn ban cho ở ngày thưởng phạt mới tốt đẹp, mới tồn tại vĩnh viễn và cũng nhờ sự tin tưởng ở ngày đó sẽ giúp con người tránh khỏi tội lỗi, bất công, chiếm đoạt, bằng mọi thủ đoạn với mọi cách để thành công trong nhất thời rồi lại bị đọa đày hành hạ trong hỏa ngục sau này.

Một khi đã có đức tin vững chắc vào ngày sau con người sẽ thấu hiểu được sự hưởng thụ vui vẻ ở trên đời này chỉ là nhất thời không thể so sánh được với sự hưởng thụ vui sướng vĩnh cữu ở ngày sau, nên họ không quan tâm so đo mà tranh đấu để được hưởng ở đời này dù với phương tiện bất chánh để rồi chuộc tội đau đớn ở sau này. Từ đó, họ cũng biết chắc rằng sự đau đớn khổ hạnh ở trên đời này không thể so sánh với hình phạt đau đớn khủng khiếp trong ngày phán xét, nên từ đó họ an tâm mà sống với cuộc sống thanh bình, luôn sợ hình phạt mai sau mà tránh phạm giáo lý và tránh những tội lỗi để khỏi chuốc lấy hậu quả về sau.


c) Ải trong ngôi mộ:

Chúng ta tin tưởng cái chết là sự thật, Allah phán:

ﭧ ﭨ ﮋ ﯻ ﯼ ﯽ ﯾ ﯿ ﰀ ﰁ ﰂ ﰃ ﰄ ﰅ ﰆ ﰇ ﮊ السجدة: ١١

Hãy bảo (họ Muhammad): "Thần chết phụ trách việc bắt hồn các người rồi các người sẽ được đưa về gặp Thượng Đế của các người trở lại" Al-Sajadah: 11.


Chết là điều tất yếu không thể dấu được một ai cả cũng không phải là điều để nghi ngờ lại càng không phải là điều để lưởng lự, bởi vì cái chết đến với mọi người, mọi giới và mọi tầng lớp. Tin tưởng tất cả mọi người chết vì bệnh hoặc bị giết hoặc bất cứ lý do gì chẳng qua đó là số mệnh của y và thời khắc ở trần gian của y đã hết, như được phán:

ﭧ ﭨ ﮋﮢ ﮣ ﮤ ﮥ ﮦ ﮧﮨ ﮩ ﮪ ﮫ ﮊ الأعراف: ٣٤

Bởi thế, khi thời hạn đã mãn, họ sẽ không thể trì hoãn lại được một giờ (khắc) nào, và cũng không thể ra đi sớm hơn (một giờ khắc nào) Al-A'raaf: 34.
Chúng ta tin tưởng con người sau khi chết phải trải qua ải thử thách trong ngôi mộ sau khi chôn, mỗi người sẽ phải trả lời ba câu hỏi: Thượng Đế của anh là ai, tôn giáo của anh là gì và Nabi của anh là ai?. Đối với người có đức tin sẽ được Allah ban cho sự bình tâm trong việc trả lời và họ đáp: Thượng Đế của tôi là Allah, tôn giáo của tôi là Islam và Nabi của tôi là Muhammad , còn đối với những kẻ bất tuân, những người lầm lạc và những kẻ phủ nhận Allah, chúng sẽ đáp: ah ah... tôi không biết và những kẻ đạo đức giả và những người còn ngờ vực sẽ đáp: tôi không biết, tôi nghe mọi người nói điều gì đó rồi tôi nói theo họ.

Tin tưởng về sự hành hạ và sự hưởng thụ dưới ngôi mộ, hành phạt thì dành cho những kẻ bất tuân, những kẻ đạo đức giả, những kẻ phủ nhận Allah, như được phán:

ﭧ ﭨ ﮋ ﯔ ﯕ ﯖ ﯗ ﯘ ﯙ ﯚ ﯛ ﯜ ﯝ ﯞ ﯟﯠ ﯡ ﯢ ﯣ ﯤ ﯥ ﯦ ﯧ ﯨ ﯩ ﯪ ﯫ ﯬ ﯭ ﯮ ﯯ ﯰ ﮊ الأنعام: ٩٣

Và nếu Ngươi (Muhammad) có thể nhìn thấy được tình cảnh của những kẻ gian ác giẫy giụa đau đớn vào lúc sắp chết khi các Thiên Thần giăng tay đến và nói: "Hãy giao hồn của các người cho ta. Ngày nay, các người sẽ nhận lấy hình phạt nhục nhã vì tội các người đã từng nói cho Allah những điều không đúng với sự thật và các ngươi đã khinh thường và phủ nhận các dấu hiệu của Ngài" Al-An-a'm: 93.


Allah phán ở chương khác:

ﭧ ﭨ ﮋ ﮞ ﮟ ﮠ ﮡ ﮢﮣ ﮤ ﮥ ﮦ ﮧ ﮨ ﮩ ﮪ ﮫ ﮬ ﮊ غافر: ٤٦

Hoả ngục mà chúng sẽ bị dắt ra chạm trán cả buổi sáng lẫn buổi chiều. Và vào ngày mà giờ (xét xử) sẽ được thiết lập rồi sẽ có lời (bảo thiên thần): "Hãy đưa dòng họ của Fir-a'un vào chỗ trừng phạt khắc nghiệt nhất" Ghofir: 46.
Có Hadith do Muslim ghi lại từ ông Zaid bin Thabit  thuật lại lời Nabi :

عَنْ زَيْدِ بْنِ ثَابِتٍ  قَالَ: قَالَ النَّبِيُّ : ((فَلَوْ لاَ أَنْ لاَ تَدَافَنُوا لَدَعَوْتُ اللَّهَ أَنْ يُسْمِعَكُمْ مِنْ عَذَابِ الْقَبْرِ الَّذِي أَسْمَعُ مِنْهُ.)) ثُمَّ أَقْبَلَ عَلَيْنَا بِوَجْهِهِ فَقَالَ: ((تَعَوَّذُوا بِاللَّهِ مِنْ عَذَابِ النَّارِ.)) قَالُوا: نَعُوذُ بِاللَّهِ مِنْ عَذَابِ النَّارِ. فَقَالَ: ((تَعَوَّذُوا بِاللَّهِ مِنْ عَذَابِ الْقَبْرِ.)) قَالُوا: نَعُوذُ بِاللَّهِ مِنْ عَذَابِ الْقَبْرِ. رواه مسلم.

"Nếu không vì sợ mọi người bỏ đi việc chôn cất người chết là Ta đã cầu xin Allah cho các người nghe sự hành hạ ở dưới mộ như Ta đang nghe." Sau đó Rosul  quay mặt nhìn chúng tôi và nói: "Mọi người hãy cầu xin Allah che chở tránh khỏi sự hành hạ trong hỏa ngục đi." Chúng tôi đồng lên tiếng: Cầu xin với Allah che chở chúng tôi tránh khỏi hỏa ngục. Rosul  tiếp : "Mọi người hãy cầu xin Allah che chở tránh khỏi sự hành hạ trong mộ đi.". Chúng tôi đồng lên tiếng: Cầu xin với Allah che chở chúng tôi tránh khỏi sự hành phạt trong mộ.
Còn sự hưởng thụ sung sướng dưới mộ thì dành cho những người có đức tin trung trực, như Allah đã phán:

ﭧ ﭨ ﮋ ﭑ ﭒ ﭓ ﭔ ﭕ ﭖ ﭗ ﭘ ﭙ ﭚ ﭛ ﭜ ﭝ ﭞ ﭟ ﭠ ﭡ ﭢ ﭣ ﭤ ﮊ فصلت: ٣٠

Quả thật, những ai nói: "Thượng Đế của chúng tôi là Allah" (thật chân thành) rồi đứng vững như bàn thạch (trong việc tôn thờ Allah), các Thiên thần sẽ xuống động viên họ, bảo: "Chớ lo sợ cũng chớ buồn phiền mà hãy vui vẻ lên với tin mừng về thiên đàng (hạnh phúc) mà qúi vị đã được hứa" Fussilat: 30.
Allah phán ở chương khác:

ﭧ ﭨ ﮋ ﭭ ﭮ ﭯ ﭰ ﭱ ﭲ ﭳ ﭴ ﭵ ﭶ ﭷ ﭸ ﭹ ﭺ ﭻ ﭼ ﭽ ﭾ ﭿ ﮁ ﮂ ﮃ ﮄ ﮅ ﮆ ﮇ ﮈ ﮉ ﮊ ﮋ ﮌ ﮍ ﮎ ﮏ ﮐ ﮑ ﮒ ﮓ ﮊ الواقعة: ٨٣ – ٨٩

Thế tại sao các người không (can thiệp) khi cái chết lên tận cổ (của y) ? * Mà lúc đó các người chỉ lấy mắt nhìn vào nó. * Và TA (Allah) ở gần y hơn các người nhưng các người không nhìn thấy. * Nếu tự cho mình không bị phán xử * Thì tại sao các người không đưa linh hồn trở lại (cho thân xác), nếu các người nói thật ? * Còn nếu y là một trong những người đức độ * Thì sẽ được an nghỉ với hương thơm và thiên đàng hạnh phúc Al-Waqi-a'h: 83 – 89.
Ông Al-Baró bin A'zib  thuật lại lời Nabi  nói về người có đức tin khi trả lời được ba câu hỏi của hai Thiên Thần dưới ngôi mộ:

((يُنَادِي مُنَادٍ مِنَ السَّمَاءِ أَنْ صَدَقَ عَبْدِي فَأَفْرِشُوهُ مِنَ الْجَنَّةِ وَأَلْبِسُوهُ مِنَ الْجَنَّةِ وَافْتَحُوا لَهُ بَاباً إِلَى الْجَنَّةِ))، قال: ((فَيَأْتِيهِ مِنْ رَوْحِهَا وَطِيْبِهَا ويُفْسَحُ لَهُ فِي قَبْرِهِ مُدَّ بَصَرِهِ)) رواه أحمد وأبوداود.

"Có tiếng phán trên trời cao xuống rằng: TA (Allah) đã chứng thật lời đáp của nô lệ TA là đúng. Hãy trải thảm và mặc đồ từ thiên đàng, song hãy mở cửa cho họ nhìn thấy thiên đàng." Rosul  nói tiếp : "Khi đó, có mùi thơm rất tuyệt vời đến với họ và ngôi mộ của họ được mở rộng ra xa hơn tầm mắt." Hadith do Ahmad và Abu Dawud ghi lại.
Những tin tức nói về sự an nhàn hưởng thụ hay bị hành hạ và sự hỏi cung của hai Thiên Thần dưới ngôi mộ được Rosul  truyền dạy bắt buộc mỗi người Muslim phải tin đó là thực, nhưng không được phép tự giải thích xảy ra như thế nào ngoại trừ dựa theo những Hadith truyền đạt lại nói về vấn đề đó. Bởi vì, đầu óc con người không có khả năng tưởng tượng đến đều đó và vả lại điều đó cũng không liên quan gì đến cuộc sống trần gian này.

Tương tự thế sự việc xảy ra dưới mộ thuộc về điều huyền bí con người không cảm nhận được, còn nếu có thể cảm nhận được thì đức tin vào sự huyền bí không còn ý nghĩa gì nữa và cũng không bắt buộc chúng ta tin vào sự huyền bí chi nữa, giống như Nabi  đã nói:

قَالَ النَّبِيُّ : ((فَلَوْ لاَ أَنْ لاَ تَدَافَنُوا لَدَعَوْتُ اللَّهَ أَنْ يُسْمِعَكُمْ مِنْ عَذَابِ الْقَبْرِ الَّذِي أَسْمَعُ مِنْهُ.)) رواه مسلم.

"Nếu không vì sợ mọi người bỏ đi việc chôn cất người chết là Ta đã cầu xin Allah cho các người nghe sự hành hạ ở dưới mộ như Ta đang nghe." Hadith do Muslim ghi lại.


Chỉ có con người và ma quỉ không nghe được tiếng thê thảm dưới mộ mà thôi chứ còn tất cả động vật khác thì chúng nghe được tiếng than thảm thiết đó.
d) Những dấu hiệu trước ngày tận thế:

Trong những điều bắt buộc người Muslim phải có đức tin về nó là ngày tận thế chắc chắn xảy ra và khi nào sẽ xảy ra thì tất cả nhân loại không loài nào biết cả mà chỉ có Allah duy nhất mới rõ, như đã phán:

ﭧ ﭨ ﮋ ﯯ ﯰ ﯱ ﯲ ﯳﯴ ﯵ ﯶ ﯷ ﯸ ﯹﯺ ﯻ ﯼ ﯽ ﯾ ﯿﰀ ﰁ ﰂ ﰃ ﰄﰅ ﰆ ﰇ ﰈ ﰉﰊ ﰋ ﰌ ﰍ ﰎﰏ ﰐ ﰑ ﰒ ﰓ ﰔ ﰕ ﰖ ﰗ ﰘ ﰙ ﰚ ﮊ الأعراف: ١٨٧

Họ hỏi Ngươi (Muhammad) về ngày tận thế chừng nào sẽ xảy ra ? Hãy bảo họ: "Duy chỉ Thượng Đế của Ta biết rõ nó, chỉ riêng Ngài tiết lộ thời điểm của nó. Nó sẽ nặng nề (đối với mọi vật) trong các tầng trời và trái đất. Nó sẽ xảy đến với các người một cách bất ngờ." Họ hỏi Ngươi làm như Ngươi quen thuộc với nó lắm. Hãy bảo họ: "Chỉ riêng Allah biết rõ nó nhưng đa số nhân loại không biết gì cả" Al-A'raaf: 187.


Được truyền lại từ Nabi  rất nhiều Hadith nói về những dấu hiệu của ngày tận thế gồm những dấu hiệu nhỏ và những dấu hiệu lớn, những dấu hiệu nhỏ xoay quanh vấn đề sự hư đốn của con người, sự bất hòa giữa họ với nhau, sự sai lệch của con người về đường lối chân lý của Allah.

1) Về những dấu hiệu nhỏ của ngày tận thế điển hình như: qua Hadith Đại Thiên Thần Jibroil đã hỏi Nabi  như sau:

قَالَ: فَأَخْبِرْنِي عَنْ السَّاعَةِ. قَالَ : ((مَا الْمَسْئُولُ عَنْهَا بِأَعْلَمَ مِنْ السَّائِلِ)) قَالَ: فَأَخْبِرْنِي عَنْ أَمَارَتِهَا. قَالَ : ((أَنْ تَلِدَ الأَمَةُ رَبَّتَهَا وَأَنْ تَرَى الْحُفَاةَ الْعُرَاةَ الْعَالَةَ رِعَاءَ الشَّاءِ يَتَطَاوَلُونَ فِي الْبُنْيَانِ)) متفق عليه.

- Đại Thiên Thần Jibroil  hỏi: hãy báo cho tôi biết khi nào sẽ tận thế ?

- Nabi  đáp: "Tôi không biết, về vấn đề đó người hỏi biết rõ hơn tôi."

- Đại Thiên Thần Jibroil  hỏi tiếp: hãy báo cho tôi biết các dấu hiệu nhận biết về nó.

- Nabi  đáp: "Những nhà thủ lĩnh xuất thân từ những người mẹ là nô lệ, rồi sẽ thấy những người chân không giày, thân không quần áo, những người nghèo khổ không có gì để ăn, những người chăn cừu tranh nhau xây dựng nhà cửa (ai đẹp hơn, ai cao hơn)." (ngụ ý: hoàn cảnh của họ thay đổi thật nhanh chóng trước kia họ rất nghèo khổ nhưng nay lại có thể xây được nhà cao cửa rộng, điều đó là một trong những dấu hiệu gần đến ngày tận thế. Trích từ Sharh Al-Ar-ba-i'n Al-Nabawy của Shaikh Muhammad bin Soleh Al-Uthaimeen) Hadith do Al- Bukhory và Muslim ghi lại.
Trong những dấu hiệu nhỏ của ngày tận thế nữa là: có người đàn ông hỏi Rosul : Khi nào thì tận thế ? Người đáp:

قَالَ رَسُولُ اللَّهِ : ((إِذَا ضُيِّعَتْ الأَمَانَةُ فَانْتَظِرْ السَّاعَةَ)) قَالَ: كَيْفَ إِضَاعَتُهَا يَا رَسُولَ اللَّهِ؟ قَالَ: ((إِذَا أُسْنِدَ الأَمْرُ إِلَى غَيْرِ أَهْلِهِ فَانْتَظِرْ السَّاعَةَ)) رواه البخاري.

- "Khi nào sự tin cậy lẫn nhau bị con người đánh mất đi thì hãy chờ đến ngày tận thế đi."

- Người đàn ông hỏi tiếp: vậy đánh mất như thế nào, thưa Rosul của Allah?

- Rosul  đáp: "Khi vấn đề bị đổ thừa cho người không phải là chủ nhân của nó thì hãy chờ đến ngày tận thế đi." Hadith do Al-Bukhory ghi lại.
2) Về những dấu hiệu lớn của ngày tận thế: đó là những dấu hiệu lớn xảy ra cận kề với ngày tận thế và kéo theo sau là ngày tận thế, những dấu hiệu đó xảy ra liên tiếp nhau như thể nhiều thắt gút được cột gút trên một sợi dây.

Có Hadith Soheeh (chính xác) nói về mười dấu hiệu lớn đó như sau:

عَنْ حُذَيْفَةَ بْنِ أَسِيدٍ الْغِفَارِيِّ  قَالَ: اطَّلَعَ النَّبِيُّ  عَلَيْنَا وَنَحْنُ نَتَذَاكَرُ. فَقَالَ : ((مَا تَذَاكَرُونَ ؟)) قَالُوا: نَذْكُرُ السَّاعَةَ. قَالَ: ((إِنَّهَا لَنْ تَقُومَ حَتَّى تَرَوْنَ قَبْلَهَا عَشْرَ آيَاتٍ)) فَذَكَرَ: ((الدُّخَانَ وَالدَّجَّالَ وَالدَّابَّةَ وَطُلُوعَ الشَّمْسِ مِنْ مَغْرِبِهَا وَنُزُولَ عِيسَى ابْنِ مَرْيَمَ  وَيَأَجُوجَ وَمَأْجُوجَ وَثَلاَثَةَ خُسُوفٍ: خَسْفٌ بِالْمَشْرِقِ وَخَسْفٌ بِالْمَغْرِبِ وَخَسْفٌ بِجَزِيرَةِ الْعَرَبِ وَآخِرُ ذَلِكَ نَارٌ تَخْرُجُ مِنْ الْيَمَنِ تَطْرُدُ النَّاسَ إِلَى مَحْشَرِهِمْ)) رواه مسلم.

Ông Huzaifah ibnu Aseed Al-Ghoffary  kể: Rosul  đến với chúng tôi một cách tình cờ trong lúc chúng tôi đang tham khảo nhau về ngày tận thế.

- Người hỏi: "Mọi người đang bàn nhau điều gì vậy ?"

- Chúng tôi trả lời: Thưa chúng tôi đang nói về ngày Tận thế.

- Người nói: "Ngày đó sẽ không xảy ra ngoại trừ xảy ra trước đó mười dấu hiệu." Những dấu hiệu đó là: "Mây khói che phủ cả bầu trời, xuất hiện Ðajjaal, xuất hiện con vật (biết nói chuyện), mặt trời mọc lên từ hướng tây, Nabi Ysa con bà Mariyam giáng trần, xuất hiện Yajuđ và Majuđ, ba hiện tưởng về nhật thực thật lớn xảy ra: một lần xảy ra ở hướng đông, một lần xảy ra ở hướng tây và lần khác xảy ra tại bán đảo Arab và cuối cùng là ngọn lửa khổng lồ sẽ xuất hiện từ Yemen xua đuổi con người chạy đến nơi tụ hợp cuối cùng." Hadith do Muslim ghi lại.
Một trong những dấu hiệu trọng đại đó sẽ được nói sơ qua về sự xuất hiện của Dajjaal: Dajjaal là kẻ chuyên tạo ra sự phủ nhận bất tín, sự lầm lạch, từ y xuất hiện nhiều sự thử thách và sợ hãi xảy ra liên tiếp. Về xự xuất hiện kinh tỏm kia mà mỗi vị Nabi đều khuyến cáo cộng đồng mình về sự xuất hiện đáng sợ đó đồng thời diễn tả về sự xuất hiện, về tính cách và hình dáng của Dajjaal thật tỉ mỉ với điều đó không thể che dấu được đối với ai còn sáng mắt.

Ông Anas  thuật lại lời Nabi :

عَنْ أَنَسٍ  قَالَ: قَالَ رَسُولُ اللَّهِ : ((مَا مِنْ نَبِيٍّ إِلاَّ وَقَدْ أَنْذَرَ أُمَّتَهُ الأَعْوَرَ الْكَذَّابَ أَلاَ إِنَّهُ أَعْوَرُ وَإِنَّ رَبَّكُمْ لَيْسَ بِأَعْوَرَ وَمَكْتُوبٌ بَيْنَ عَيْنَيْهِ ك ف ر)) متفق عليه.

"Không một Nabi nào mà lại không khuyến cáo cộng đồng mình về một tên một mắt xảo trá. Quả thật, y (Dajjaal) là một tên một mắt còn Thượng Đế của mọi người không bị một mắt, nằm giữa hai mắt của y ghi ba chữ Ka Fa Ro (tức Kafir kẻ phủ nhận Allah)." Hadith do Al-Bukhory và Muslim ghi lại.


Ông Abu Huroiroh  thuật lại lời Rosul :

عَنْ أَبِي هُرَيْرَةَ  قَالَ: قَالَ رَسُولُ اللَّهِ : ((أَلاَ أُحَدِّثُكُمْ حَدِيثاً عَنْ الدَّجَّالِ مَا حَدَّثَ بِهِ نَبِيٌّ قَوْمَهُ: إِنَّهُ أَعْوَرُ، وَإِنَّهُ يَجِيءُ مَعَهُ بِمِثَالِ الْجَنَّةِ وَالنَّارِ فَالَّتِي يَقُولُ إِنَّهَا الْجَنَّةُ هِيَ النَّارُ وَإِنِّي أُنْذِرُكُمْ كَمَا أَنْذَرَ بِهِ نُوحٌ قَوْمَهُ)) متفق عليه.

"Chẳng lẽ, Ta lại không nói cho mọi người biết về câu chuyện của Dajjaal, với câu chuyện này không một Nabi nào mà lại không nói rằng: quả thật, y là một kẻ một mắt, khi y xuất hiện mang theo vật giống như thiên đàng và vật khác giống như hỏa ngục, vật được cho là thiên đàng đấy chính là hỏa ngục. Và quả thật, Ta khuyến cáo mọi người về điều đó giống như Nabi Nuh đã khuyến cáo thị dân mình." Hadith do Al-Bukhory và Muslim ghi lại.
Có Hadith khác:

عَنْ النَّوَّاسِ بْنِ سَمْعَانَ  قَالَ: قُلْنَا: يَا رَسُولَ اللَّهِ وَمَا لَبْثُهُ فِي الأَرْضِ؟ قَالَ : ((أَرْبَعُونَ يَوْمًا يَوْمٌ كَسَنَةٍ وَيَوْمٌ كَشَهْرٍ وَيَوْمٌ كَجُمُعَةٍ وَسَائِرُ أَيَّامِهِ كَأَيَّامِكُمْ)) رواه مسلم.

Ông Al-Nâuwaas bin Sam-a'n kể: chúng tôi hỏi Nabi: Thưa Rosul của Allah! Dajjaal sống trên mặt đất được bao lâu? Rosul đáp: "Bốn mươi ngày, ngày đầu tiên dài như một năm, ngày kế tiếp dài như một tháng, ngày kế tiếp dài như một tuần và những ngày khác giống như ngày bình thường của mọi người." Hadith do Muslim ghi lại.
Và sẽ không thoát khỏi sự thử thách của Dajjaal ngoại trừ có được kiến thức và hành động, với kiến thức biết được rằng Dajjaal là một cơ thể sống cần đến ăn và uống. Y là cơ thể sống không hoàn chỉnh với hình hài một mắt, giữa hai mắt y có viết chữ Kafir tức người phủ nhận Allah. Còn với hành động thì hãy cầu xin Allah bảo vệ che chở thoát khỏi sự thử thách đáng sợ của y trong Tashahhud cuối cùng của lễ Solah (tức cầu xin Allah che chở trong lúc dâng lễ Solah sau khi cầu xin bình an cho Nabi xong trước khi cho Salam), và thuộc mười câu kinh đầu của chương Al-Kahf, như Nabi  đã nói:

قَالَ : ((مَنْ حَفِظَ عَشْرَ آيَاتٍ مِنْ أَوَّلِ سُوْرَةِ الْكَهْفِ عُصِمَ مِنَ الدَّجَّالِ)) رواه مسلم.

"Ai thuộc mười câu kinh đầu tiên của chương Al-Kahf được bảo vệ tránh khỏi Dajjaal." Hadith do Muslim ghi lại.
e) Sự phục sinh:

Qua Thiên Kinh Qur'an và Sunnah của Rosul  cộng với trí óc minh mẫn và cả qui luật tự nhiên chứng minh rằng sự phục sinh là có thật. Đối với người Muslim phải tin tưởng chắc chắn giờ khắc vĩ đại đó là có thật con người sẽ được dựng sống lại từ ngôi mộ, mỗi linh hồn đều trở về thể xác của mình và tất cả nhân loại đứng dậy đến trình diện trước Allah Đấng Chúa Tể của vũ trụ và muôn loài, như được phán:

ﭧ ﭨ ﮋ ﯜ ﯝ ﯞ ﯟ ﯠ ﯡ ﯢ ﯣ ﯤ ﯥ ﯦ ﯧ ﮊ المؤمنون: ١٥ – ١٦

Rồi sau đó, chắc chắn các người sẽ chết. * Rồi vào ngày phục sinh, chắc chắn các người sẽ được dựng sống lại Al-Mụminun: 15 – 16.


Nabi  nói:

قَالَ النَّبِيُّ : ((يُحْشَرُ النَّاسُ يَومَ الْقِيَامَةِ حُفَاةً عُرَاةً غُرْلاً)) متفق عليه.

"Mọi người được phục sinh trở lại trong ngày phục sinh chân không giày, thân không quần áo và không cắt da qui đầu." Hadith do Al-Bukhory và Muslim ghi lại.
Tất cả người Muslim thống nhất rằng giờ phục sinh là có thật, vào ngày phục sinh đó Allah sẽ ban thưởng cho mọi người về những nhiệm vụ đã bắt buộc họ phải hoàn thành như các Rosul  của Ngài đã hứa.

Allah phán:

ﭧ ﭨ ﮋ ﮮ ﮯ ﮰ ﮱ ﯓ ﯔ ﯕ ﯖ ﯗ ﮊ المؤمنون: ١١٥

Phải chăng các người nghĩ rằng TA tạo hóa các người để giải trí và rằng các người sẽ không trở lại với TA ? Al-Mụminun: 115.


Những người Kafir (phủ nhận Allah) chống đối việc con người sẽ được phục sinh lại sau khi chết, họ cho rằng việc đó không thể nào xảy ra. Với sự khả định này của họ quả thật vô căn cứ vì có rất nhiều bằng chứng từ Thiên Kinh Qur'an, những câu chuyện đã xảy ra và lý trí minh mẫn cho thấy rằng suy nghĩ của những người Kafir là sai.

- Bằng chứng qua Qur'an:

Allah phán:

ﭧ ﭨ ﮋ ﮮ ﮯ ﮰ ﮱ ﯓ ﯔﯕ ﯖ ﯗ ﯘ ﯙ ﯚ ﯛ ﯜ ﯝﯞ ﯟ ﯠ ﯡ ﯢ ﯣ ﮊ التغابن: ٧

Những kẻ không có niềm tin khẳng định rằng chúng sẽ không được phục sinh trở lại (để chịu sự phán xử). Hãy bảo họ (Muhammad)!: Không, thể bởi Thượng Đế của Ta chứng giám, chắc chắn rằng các người sẽ được dựng sống lại rồi sẽ được báo cho biết về mọi điều mà các người đã từng làm. Và điều đó đối với Allah rất dễ dàng Al-Taghobun: 7.


Allah phán ở chương khác:

ﭧ ﭨ ﮋ ﭸ ﭹ ﭺ ﭻ ﭼ ﭽﭾ ﭿ ﮀ ﮁ ﮂ ﮃ ﮄﮅ ﮊ سبأ: ٣

Và những người Kafir (phủ nhận Allah) bảo: "Ngày phục sinh sẽ không xảy đến với chúng tôi." Hãy bảo họ (Muhammad): "Không đâu, Ta thề bởi Thượng Đế của ta, Ðấng biết điều vô hình chắc chắn ngày phục sinh sẽ xảy đến với các người" Sabạ: 3.
Đặc biệt là tất cả các Kinh Sách được ban xuống điều thống nhất như thế điển hình như: Zabur (Kinh Thi Thiên) của Nabi Dawud , Tâuroh (Kinh Cựu Ước) của Do Thái giáo, Injil (Kinh Tân Ước) của Thiên Chúa giáo, Kinh Qur'an của người Muslim .v.v..
- Bằng chứng qua những câu chuyện đã xảy ra:

Quả thật, Allah đã từng cho con người nhìn thấy Ngài đã dựng người chết sống lại như thế nào ở ngay trần gian này, như trong Thiên Kinh Qur'an đã nhắc đến năm câu chuyện đó:



1- Câu chuyn thứ nhất: Khi nhóm thị dân của Nabi Musa  nói với Người: chúng tôi sẽ không tin những gì do thầy nói cho đến khi chúng tôi thấy được Allah hiển hiện. Thế là chúng bị Allah làm cho tất cả chúng đều chết rồi sau đó dựng sống họ lại, như được phán:

ﭧ ﭨ ﮋ ﮪ ﮫ ﮬ ﮭ ﮮ ﮯ ﮰ ﮱ ﯓ ﯔ ﯕ ﯖ ﯗ ﯘ ﯙ ﯚ ﯛ ﯜ ﯝ ﯞ ﯟ ﯠ ﯡ ﮊ البقرة: ٥٥ – ٥٦

Và hãy nhớ lại khi các người đã nói với Musa: "Chúng tôi sẽ không bao giờ tin tưởng thầy trừ phi chúng tôi thấy Allah hiển thị." Vì thế, lưỡi tầm sét đã đánh các người trong lúc các người trố mắt ra nhìn. * Rồi TA (Allah) làm cho các người sống trở lại sau cái chết của các người để cho các người còn có dịp tạ ơn TA Al-Baqoroh: 55 – 56.
2- Câu chuyn thứ hai: có một người đàn ông thuộc con cháu Ismail bị giết. Sau đó, Allah ra lệnh họ giết một con bò đi rồi dùng bất cứ bộ phận nào của con bò đánh vào xác chết thì xác chết sẽ sống lại báo cho biết ai là kẻ giết y, như được phán:

ﭧ ﭨ ﮋ ﭾ ﭿ ﮀ ﮁ ﮂﮃ ﮄ ﮅ ﮆ ﮇ ﮈ ﮉ ﮊ ﮋ ﮌﮍ ﮎ ﮏ ﮐ ﮑ ﮒ ﮓ ﮔ ﮕ ﮖ ﮊ البقرة: ٧٢ – ٧٣

Và hãy nhớ lại khi các người đã giết một sinh mạng nhưng cãi nhau về vụ án mạng đó. Và Allah đưa ra (ánh sáng) điều (bí ẩn) mà các ngươi đã giấu giếm. * Bởi thế, TA (Allah) đã phán: "Hãy đánh vào người chết với một bộ phận của con bò cái đã giết." Bằng cách đó, Allah làm cho người chết sống lại (rồi khai tên của thủ phạm trong vụ án mạng) và làm cho các ngươi thấy dấu hiệu lạ của Ngài để may ra các người hiểu rõ (sự tình của vụ sát nhân Al-Baqoroh: 72 – 73.
3- Câu chuyn thứ ba: có một nhóm người bỏ trốn khỏi nhà nhằm tránh khỏi cái chết nhưng họ đã bị Allah làm cho họ chết rồi sau đó dựng họ sống trở lại, như được phán:

ﭧ ﭨ ﮋ ﮙ ﮚ ﮛ ﮜ ﮝ ﮞ ﮟ ﮠ ﮡ ﮢ ﮣ ﮤ ﮥ ﮦ ﮧ ﮨ ﮩ ﮪﮫ ﮬ ﮭ ﮮ ﮯ ﮰ ﮱ ﯓ ﯔ ﯕ ﯖ ﯗ ﯘ ﮊ البقرة: ٢٤٣

Há Ngươi (Muhammad) không để ý đến hằng ngàn người vì sợ chết mà bỏ nhà cửa của họ ra đi hay sao? Thế là Allah đã phán với họ: "Hãy quyết tử! rồi Ngài làm cho họ sống trở lại." Quả thật, Allah rất mực Nhân từ với loài người nhưng đa số nhân loại lại phụ ơn (Ngài) Al-Baqoroh: 243.
4- Câu chuyn thứ tư: có một người đàn ông tên U'zair đi ngang qua vùng đất thiêng liêng Maqdis ở Palestin bị hoang vắng không người ở, nhà cửa thì tiêu tàn làm ông thốt lên câu: "Làm sao Allah phục sinh lại thị trấn này sau khi nó đã chết (thế này?)" Thế là ông bị Allah làm cho chết một trăm năm rồi dựng ông ta sống trở lại, như được phán:

ﭧ ﭨ ﮋ ﮛ ﮜ ﮝ ﮞ ﮟ ﮠ ﮡ ﮢ ﮣ ﮤ ﮥ ﮦ ﮧ ﮨ ﮩ ﮪﮫ ﮬ ﮭ ﮮ ﮯ ﮰ ﮱﯓ ﯔ ﯕ ﯖﯗ ﯘ ﯙ ﯚ ﯛ ﯜ ﯝﯞ ﯟ ﯠ ﯡ ﯢ ﯣ ﯤ ﯥ ﯦ ﯧ ﯨ ﯩﯪ ﯫ ﯬ ﯭ ﯮ ﯯ ﯰﯱ ﯲ ﯳ ﯴ ﯵ ﯶ ﯷ ﯸ ﯹﯺ ﯻ ﯼ ﯽ ﯾ ﯿ ﰀ ﰁ ﰂ ﰃ ﰄ ﰅ ﰆ ﮊ البقرة: ٢٥٩

Hoặc như ai đó đã đi ngang qua một thị trấn hoang tàn, nhà cửa sụp đổ. Y bảo: "Làm sao Allah phục sinh lại thị trấn này sau khi nó đã chết (thế này?)." Bởi thế, Allah làm cho y chết một trăm năm rồi dựng y sống lại. (Allah hỏi y qua trung gian Thiên Thần): "Nhà ngươi ở lại đây bao lâu rồi?" Y đáp: "Thưa, bề tôi ở lại đây một ngày hay một buổi gì đó." (Allah) bảo y: "Không, nhà ngươi ở lại đây một trăm năm rồi. Hãy nhìn vào thức ăn và thức uống của ngươi đi, tất cả vẫn còn nguyên không bị hư. Kế tiếp, hãy nhìn vào con lừa của ngươi đi, TA lấy đó làm bằng chứng cho nhân loại. Cho nên ngươi hãy nhìn vào những khúc xương (khô của con lừa) TA sẽ xắp sắp xếp chúng lại (thành dạng con lừa) rồi làm cho thịt mọc lại từ xương (rồi làm cho nó đứng dậy sống trở lại) như thế nào." Bởi thế, khi y thấy được tất cả quá trình đó trước mặt y làm vội thốt lên: "Bề tôi đã biết rõ quả thật, Allah có khả năng trên tất cả mọi vật." Al-Baqoroh: 259.
5- Câu chuyn thứ năm: câu chuyện Allah phục sinh những con chim cho Nabi Ibrohim  xem, như được phán:

ﭧ ﭨ ﮋ ﭑ ﭒ ﭓ ﭔ ﭕ ﭖ ﭗ ﭘﭙ ﭚ ﭛ ﭜﭝ ﭞ ﭟ ﭠ ﭡ ﭢﭣ ﭤ ﭥ ﭦ ﭧ ﭨ ﭩ ﭪ ﭫ ﭬ ﭭ ﭮ ﭯ ﭰ ﭱ ﭲ ﭳ ﭴ ﭵﭶ ﭷ ﭸ ﭹ ﭺ ﭻ ﭼ ﮊ البقرة: ٢٦٠

Và hãy nhớ khi Ibrohim thưa (với Allah): "Lạy Thượng Đế của bề tôi! Xin Ngài cho bề tôi thấy việc Ngài làm cho người chết sống lại như thế nào?" Allah phán bảo (Ibrohim): "Hẳn nhà Ngươi không tin (việc phục sinh) hay sao?" (Ibrohim) thưa: "Bẫm không phải thế, nhưng để cho bề tôi được yên tâm hơn (về việc đó)." (Allah) phán: "Hãy bắt bốn con chim, bằm thịt chúng ra rồi trộn lẫn thịt chúng lại, sau đó đặt lên mỗi ngọn núi một ít thịt bằm đó. Sau đó, Ngươi hãy gọi chúng, chúng sẽ bay nhanh đến với ngươi." Và hãy biết rằng Allah là Đấng Tối Cao, Đấng Rất Mực Sáng Suốt. Al-Baqoroh: 260.


Каталог: data
data -> HƯỚng dẫn càI ĐẶt và SỬ DỤng phần mềm tạo bài giảng e-learning
data -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
data -> Qcvn 81: 2014/bgtvt
data -> Trung taâm tin hoïC Ñhsp ñEÀ thi hoïc phaàn access
data -> PHỤ LỤC 2 TỔng hợp danh mục tài liệu tham khảO
data -> Công ty cổ phần Xây dựng Điện vneco3
data -> Nghiên cứu một số đặc điểm
data -> NHỮng đÓng góp mới của luậN Án tiến sĩ CẤP ĐẠi học huế Họ và tên ncs : Nguyễn Văn Tuấn
data -> Mẫu 01/hc-sn-dn (Ban hành kèm theo Thông tư số 83/2007/tt-btc ngày 16/7/2007 của Bộ Tài chính) TỜ khai hiện trạng sử DỤng nhà, ĐẤt thuộc sở HỮu nhà NƯỚc và ĐỀ xuất phưƠng án xử LÝ

tải về 1.06 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương