Tichtruyenphapcu



tải về 3.79 Mb.
Chế độ xem pdf
trang13/293
Chuyển đổi dữ liệu11.03.2023
Kích3.79 Mb.
#54358
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   293
tichtruyenphapcu


8. Những Ðại Ðệ Tử 
Không chân, tưởng chân thật... 
Giáo lý này được đức Phật thuyết khi Ngài ngụ tại tinh xá Trúc Lâm, và liên quan 
đến việc những đại đệ tử Phật tường trình rằng ngoại đạo Sanjaya chối từ không đến quy 
y Phật. Ðầu đuôi câu chuyện như sau: 
A. Ðời Sống Của Phật 
Bốn A-tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp quá khứ, đấng Ðạo sư của chúng ta sanh 
làm một hoàng tử Bà-la-môn trong thành Amaravatì là Sumedha (Siêu thuật). Sau khi đã 
thông đạt mọi xảo thuật, Ngài từ bỏ di sản lên đến vô số triệu của cha mẹ để lại, xuất gia, 
sống đời ẩn sĩ, ngụ trong vùng Himalaya, và ở đó tự mình thiền định đắc được thần thông. 
Một hôm Phật Nhiên Ðăng, đấng Thập lực, rời tinh xá Sadassana đến thành Ramma, dân 


chúng đi trước dọn đường. Sumedha hôm đó bay trên không, thấy con đường đã được 
dọn sạch, Sumadha chọn một đoạn đường chưa sạch, đợi đức Phật đến, lấy thân mình làm 
cầu, trải áo bằng da hươu trên bùn, nằm lên trên và nói: "Xin đừng để đức Phật và Tăng 
chúng bước trên bùn, xin Ngài hãy bước trên thân con, để tiếp tục cuộc hành trình". 
Khi Phật thấy Sumedha, Ngài nói: "Ông hoàng kia là một vị Phật tương lai. Bốn a-
tăng-kỳ và một trăm ngàn kiếp sau này ông ta sẽ thành Phật tên Cồ-đàm". Ðó là lời của 
Phật Nhiên Ðăng thọ ký cho ông hoàng Bà-la-môn Sumedha. Sau khi Phật Nhiên Ðăng 
đến những vị Phật sau: Kodanna, Màngala, Sumana, Revata, Sobhita, Anomadassì, 
Paduma, Naràda, Padumuttara, Sumedha, Sujàta, Piyadassì Atthadassì, Dhammadassì 
Siddhattha, Tissa, Phussa, Vipassì(Tỳ-bà-thi), Sikhì(Thi-khí), Vessabhù (Tỳ-xá-phù), 
Kakusandha (Câu-lưu-tôn), Konàgamana (Câu-na-hàm-mâu-ni) và Kassapa (Ca diếp). 
Lần lượt hai mươi bốn vị Phật ra đời và soi sáng thế gian. Và từ mỗi vị Phật, ông hoàng 
Bà-la-môn Sumedha đều nhận được lời thọ ký sẽ thành Phật. Bấy giờ sau khi Sumedha 
đã viên mãn 10 ba-la-mật, 10 ba-la-mật bậc hạ và 10 ba-la-mật bậc thượng, tất cả là 30 
ba-la-mật, Ngài được tái sanh là thái tử Vessantara và trong kiếp làm thái tử Vessantara, 
Ngài hành các pháp đại thí, hy sinh cả vợ và con làm chấn động quả đất. Mạng chung, 
Ngài tái sanh vào cõi trời Ðâu suất, cũng trong kiếp sống đó, các vị trời của mười ngàn 
thế giới tụ họp lại xưng tán Ngài: 
Thời đã đến, hỡi bậc Ðại Lực, 
Hãy giáng sanh thai mẹ đi thôi, 
Cứu nhơn thiên chìm đắm nổi trôi, 
Và khám phá con đường bất tử. 
Ngay sau đó Ngài tư duy năm điều đại quán. Và qua kiếp đó Ngài sanh vào dòng 
vua Thích ca, được nuôi dưỡng trong nhung lụa hoàng gia. Suốt thời gian này, Ngài tận 
hưởng tuổi xuân tốt lành, ở ba lâu đài tùy theo mùa trong năm, hưởng thụ nếp sống huy 
hoàng đế vương có thể sánh ngang cõi trời. Thời gian trôi qua, một hôm liên tiếp trong 8 
ngày, Ngài đến khu vườn để giải trí thì gặp ba thiên sứ, đó là một người già, một người 
bệnh và một người chết. Trong ba ngày đó, Ngài trở về hoàng cung lòng chấn động khôn 
tả. 
Vào ngày thứ tư Ngài gặp một người xuất gia, sống đời tu sĩ. Một ý tưởng bừng nở 
trong tâm trí: "Tốt hơn hết, ta nên từ bỏ thế gian, sống đời tu sĩ". 
Ôm ấp trong đầu ước mơ về đời sống tu hành, Ngài tiếp tục đến khu vườn, suốt 
ngày ngồi trên bờ hồ trong hoàng cung. Khi Ngài ngồi đó, trời Vissakamma đến, dưới 
dạng người thợ cạo và mặc vào Ngài y phục quý giá, trang điểm Ngài với mọi thứ trang 
sức. Ở đó Ngài nhận được tin hoàng tử La-hầu-la vừa ra đời. Cảm thấy lòng thương con 
mạnh mẽ trỗi dậy, Ngài sáng suốt nhận định: "Ta phải cắt đứt ngay sự ràng buộc này, nếu 
không sẽ lớn mạnh thêm nữa". Chiều đó Ngài trở về hoàng cung, Kisà Gotamì con gái 
của bà bác Ngài, đọc câu kệ sau đây: 
Hạnh phúc thay người mẹ, 


Hạnh phúc thay người cha, 
Hạnh phúc thay người vợ, 
Có người chồng như Ngài. 
Kisà Gotamì đọc câu kệ trên khiến Ngài phải buột miệng: "Gotamì đã nói cho ta 
biết đâu là chân hạnh phúc để tìm" 
Rồi Ngài lấy một chuỗi ngọc gửi tặng cô. 
Trở về cung, khi nằm xuống long sàng. Ngài thấy rõ diện mạo dơ xấu của những 
cung nữ đang ngủ. Ghê tởm, Ngài đánh thức người coi ngựa Xa-nặc, bảo đem ngựa Kiền-
trắc đến, và Ngài cưỡi Kiền-trắc mang theo Xa-nặc làm bạn đồng hành, có chư thiên 
mười ngàn cõi giới vây quanh. Ngài ra đi, thực hiện một cuộc xả ly vĩ đại. 
Phi ngựa đến bờ sông Anomà, Ngài rời bỏ thế gian và sống đời tu sĩ. 
Sống đời tu sĩ, Ngài tiếp tục đến Vương Xá và đi vào thành khất thực. Rồi Ngài 
rút lui vào núi Pandava, ngồi tu trong hang. Vua nước Ma-kiệt-đà đến nơi dâng vương 
quốc cho Ngài nhưng Ngài liền từ chối. Ngài hứa với vua là sẽ đến thăm vương quốc 
ngay khi Ngài chứng đạo. Rồi Ngài đến với Alàrà và Uddaka. Nhưng sau khi tu theo giới 
pháp của hai vị này. Ngài không chứng được đạo quả (A-la-hán). Sau đó Ngài dấn thân 
vào cuộc đại chiến trong sáu năm. 
Một sáng sớm ngày rằm của tháng Visìkhà, Ngài dùng bát cháo do Sujàtà dâng 
cúng, thả cho bát vàng trôi ngược trên sông Ni-liên, rồi suốt ngày trong rừng Mahàana 
(Ðại Lâm) Ngài nhập định vào các tầng thiền. Buổi chiều Ngài lằng nghe long vương 
Kàla tán thán đức hạnh cao quý của Ngài. Ngài bước lên tòa Bồ-đề, nhận bó cỏ của 
Sotthiya dâng, rải ra trước mặt mình và phát lời thệ nguyện: "Ta sẽ không rời khỏi tòa 
ngồi này cho đến khi Ta hoàn toàn dứt tham đắm ngũ dục thế gian và tâm Ta hoàn toàn 
giải thoát hết lậu hoặc". 
Sau đó Ngài ngồi quay mặt về hướng đông và chiến thắng Ma vương trước khi 
mặt trời lặn. Trong canh một Ngài chứng Túc mạng minh, canh hai Ngài chứng Thiên 
nhãn minh, cuối canh năm Ngài chứng Lậu tận minh, đạt đến Toàn Giác và đắc Thập lực, 
Tứ vô ngại biện và tất cả đức hạnh cao thượng, Ngài ngồi trên tòa Bồ-đề suốt bảy tuần. 
Vào tuần thứ tám, Ngài ngồi dưới cội đa của người chăn dê (cây-bồ-đề) và quán tưởng về 
sự thậm thâm vi diệu của pháp, cuối cùng Ngài đâm ra e ngại không có khả năng thuyết 
pháp độ sanh. 
Ngay lập tức, Phạm thiên Sahampati cùng với chư thiên mười ngàn cõi giới trong 
đó Ðại Phạm thiên thường đi theo, đến gặp Ngài và thỉnh cầu Ngài thuyết pháp. Quan sát 
thế gian với Phật nhãn, Ngài nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên. Ngài nghĩ tiếp: 
- Ta sẽ thuyết pháp cho ai trước tiên? 
Nhìn quanh thế giới, Ngài thấy Alàra và Uddaka đã qua đời, nhưng nhớ lại năm 
Tỳ-kheo đã từng tận tình phục vụ mình, Ngài đứng lên và đi đến Kàsipura, và gặp Upaka 
trên đường và nói chuyện với ông ta. 


Vào ngày rằm tháng Aasalha, Ngài đến Isipatana trong vườn Lộc Uyển, nơi năm 
Tỳ-kheo cư ngụ. Năm Tỳ-kheo xưng hô với Ngài không đúng cách, Ngài dạy họ cách 
xưng hô đúng. Rồi Ngài bắt đầu chuyển Pháp luân, ban nước bất tử đến một trăm tám 
mươi triệu chư thiên, nhưng trên hết cho Tỳ-kheo Annà-Kondanna (A-nhã Kiều-trần-
như). Sau khi đã chuyển bánh xe pháp, vào ngày thứ năm của nửa tháng, Ngài độ năm 
Tỳ-kheo trên, tất cả đều chứng A-la-hán. Cũng vào ngày ấy, Ngài thấy rằng chàng vọng 
tộc trẻ tuổi Yasa đã đủ nhân duyên xuất gia, và khi Yasa rời khỏi căn nhà, lòng nhờm tởm 
những gì đã thấy trong đêm, Ngài nhìn thấy anh gọi lại: 
- Ðến đây, Yasa! 
Và cho anh xuất gia. Cũng trong đêm đó Ngài độ cho Yasa chứng quả Dự lưu, và 
ngày tiếp theo chứng A-la-hán. Sau đó Ngài độ cho năm mươi bốn bạn hữu của Yasa 
xuất gia. 
Ngài gọi họ: 
- Hãy đến đây, Tỳ-kheo! 
Họ liền trở thành Tỳ-kheo, rồi Ngài độ họ chứng A-la-hán. 
Vậy là có sáu mươi mốt A-la-hán trên thế gian. An cư trong mùa mưa và làm lễ tự 
tứ xong. Ngài phái sáu mươi Tỳ-kheo đi khắp nơi: 
- Hãy đi, các Tỳ-kheo! Hãy thuyết giảng! 
Còn chính Ngài đến Uruvelà. Trên đường đi tại khu rừng Kappàsika, Ngài thuyết 
giáo cho ba mươi chàng trai thuộc nhóm Bhaddavaggiyas. Những người kém nhất trong 
nhóm chứng Sơ quả (Dự lưu) và những người ưu việt nhất chứng Tam quả (A-na-hàm). 
Tất cả những chàng trai này được nhận vào Tăng đoàn chỉ với lời gọi "Ðến đây, Tỳ-
kheo!" Xong, Ngài phái họ đi khắp nơi. Ðến Uruvelà, Ngài thi triển ba ngàn năm trăm 
phép thần thông và xuất gia cho Uruvelà-Kassapa, Nadì Kassapa và Gayà-Kassapa. Ðó là 
ba anh em Ca-diếp, những vị khổ hạnh bện tóc, có một ngàn đệ tử. Ngài dạy pháp cho 
những vị khổ hạnh này xong, nhận họ vào Tăng đoàn chỉ với lời nói: "Ðến đây, Tỳ-
kheo!" Tại Gayàsìa, Ngài độ họ chứng quả A-la-hán đi theo, Ngài đến vườn Latthivana 
gần thành Vương Xá, định thực hiện lời hứa với vua Bình-sa-vương (Bimbisàra) nước 
Ma-kiệt-đà. 
"Ðấng Ðạo sư đã đến!" Người ta kêu vang rân. Nghe tin báo, vua Bình-sa-vương 
đã đến cùng rất đông gia trưởng Bà-la-môn theo hầu, và đức Phật đã hoan hỉ thuyết pháp 
cho vua, độ vua và gần hết số Bà-la-môn đó chứng quả dự lưu, và quy y cho các Bà-la-
môn còn lại. Ngày sau Phật lắng nghe vua trời Ðế thích, dưới dạng một Bà-la-môn trẻ, 
đến thành Vương Xá tán thán công đức cao quý của Ngài, sau đó Ngài vào thành Vương 
Xá. Thọ thực trong hoàng cung xong, Ngài nhận lời vua cúng tinh xá Veluvana (Trúc 
Lâm) và ngụ ở đấy. Và tại đây, Xá-lợi-phất (Sàriputta), Mục-kiền-liên (Moggallàna) đã 
đến với Ngài 

tải về 3.79 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   ...   293




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương