Thánh nhạc và đời sống đức tin của Dân Chúa tại Việt Nam 50 năm qua


ỦY BAN THÁNH NHẠC TRỰC THUỘC HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC



tải về 216.13 Kb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu29.07.2016
Kích216.13 Kb.
#9075
1   2   3   4

5. ỦY BAN THÁNH NHẠC TRỰC THUỘC HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC

Từ khi được thành lập, qua bốn đời Đức Cha đặc trách, với sự cộng tác của các Phó Ban và các Tổng thư ký, các ủy viên, Ban Thánh nhạc các Giáo phận đã góp phần tích cực cổ võ, chấn chỉnh và hướng dẫn sinh hoạt Thánh nhạc qua trên 24 cuộc Đại Hội và Hội Thảo (Thành phần tham dự: Ban thường vụ Ủy ban Thánh nhạc toàn quốc; Các Trưởng Ban Thánh nhạc của 26 Giáo phận; Các giáo sư đặc trách Thánh nhạc của 7 Chủng viện; Trưởng Ban Thánh nhạc các Hội dòng chính (thông qua Đức Giám mục đặc trách các Hội dòng); Các thành viên của Câu lạc bộ những người viết Thánh ca; Ban giảng viên các lớp đào tạo Thánh nhạc tại Trung tâm Mục vụ; Các nhạc sĩ Thánh nhạc đã từng cộng tác với Ban Thánh Nhạc từ trước đến nay; Các linh mục, tu sĩ và các nhạc sĩ đã cộng tác với các kỳ Đại Hội Thánh Nhạc, phổ biến nội san HƯƠNG TRẦM, thành lập CÂU LẠC BỘ NHỮNG NGƯỜI VIẾT THÁNH CA, phổ biến những tập nhạc đáp ứng nhu cầu Phụng Vụ….. và đang chuẩn bị những TUYỂN TẬP THÁNH CA VIỆT NAM, để giới thiệu những bài Thánh ca giá trị và đáng được sử dụng chính thức. Các hoạt động của Ủy Ban Thánh Nhạc toàn quốc trong những chục năm qua đã được ghi lại trong nội san HƯƠNG TRẦM.



a/ Nội san HƯƠNG TRẦM

Đây là nội san thánh nhạc chính thức của Ủy ban Thánh Nhạc trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam được phổ biến không định kỳ. Trong “Lời Giới Thiệu” trên trang đầu của Nội san số 1, Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Đặc trách Thánh nhạc (nay gọi là Chủ tich UBTN. HĐGM.VN), đã viết: “Nội san HƯƠNG TRẦM do Ban Thánh nhạc Việt Nam chủ trương nhằm phổ biến các hướng dẫn về thánh nhạc, hầu cung cấp tài liệu cho các linh mục, tu sĩ, chủng sinh, nhạc sĩ, ca trưởng, ca viên, mọi thành phần Dân Chúa và tất cả những ai quan tâm tới Thánh Nhạc. Nội dung gồm:



- Các bài thuyết trình về thánh nhạc

- Phần thảo luận tiếp theo các bài thuyết trình

- Các văn kiện và văn thư Tòa Thánh liên quan tới Thánh Nhạc

- Diễn đàn bốn phương (thơ, nhạc, họa, bình luận, nghiên cứu…)

Ước mong nội san mang lại những kiến thức cần thiết về Thánh Nhạc đồng thời cũng là nơi quy tụ mọi nỗ lực trong lãnh vực này để đạt tới mục đích thật của Thánh Nhạc là “tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu (Huấn thị về âm nhạc trong phụng vụ, số 4).”

Như vậy mục đích của HƯƠNG TRẦM là mở rộng cho mọi người hiểu biết về những vấn đề liên quan đến thánh nhạc và mời gọi mọi người cùng cộng tác để góp phần xây dựng nền thánh nhạc ngày thêm phong phú trong Giáo Hội và dưới sự hướng dẫn của Giáo Hội.

Từ số đầu tiên ra ngày 29-6-1996 đến nay là 9 số, ta có thấy được từng bước đi vững chắc theo đúng đường hướng và mục đích mà Hương Trầm đã đề ra. Một số đề tài đã được thuyết trình và được ghi lại. Những đề tài này đã được các hội thảo viên thảo luận, đóng góp và trao đổi với các thuyết trình viên. Do đó đem lại nhiều hiệu quả trong việc xây dựng và phát triển thánh nhạc tại Việt Nam. Sau đây là một số đề tài đã được thuyết trình:

(1) Bản văn các Bài Ca trong Thánh Lễ (Hương Trầm [HT], số 1)

(2) Hình thể Đối ca với Thánh vịnh (antiphona cum psalmo suo - HT.1)

(3) Hình thể Thánh vịnh Đáp ca (Psalmus responsorius - HT.2)

(4) Các Ca đoàn Phụng vụ sau Công đồng Vaticanô II (HT.5)

(5) Đi tìm một bản văn “Vãn Dâng Hoa” (HT.3)

(6) Đôi điều gợi ý để sáng tác thánh ca tiếng Việt (HT.4)

(7) Vai trò và nhiệm vụ của người ca trưởng (HT.4)

(8) Ca sinh hoạt tôn giáo (HT.4)

(9) Ca Kinh sách (HT.5)

(10) Những hình thức âm nhạc thường được sử dụng trong Phụng vụ (HT.6)

(11) Đệm đàn trong Phụng vụ (HT.6)

Ngoài những nội dung trên đây có tính hướng dẫn việc sáng tác và sử dụng thánh nhạc trong phụng vụ, còn có nhiều đề tài hữu ích liên quan đến thánh nhạc được đăng tải trong các số nội san này.



b/ Những cuộc vận động sáng tác

Theo yêu cầu của Hội đồng Giám mục Việt Nam, Ủy ban Thánh nhạc đã mở những cuộc vận động sáng tác thánh ca theo các chủ đề. Các nhạc sĩ công giáo từ nhiều giáo phận đã tích cực hưởng ứng viết và gửi bài về. Ủy ban Thánh nhạc đã dành nhiều thời giờ để lựa chọn, nhuận sắc, và sau khi trình duyệt, những sáng tác mới này đã được Đức cha đặc trách chuẩn nhận cho dùng trong Phụng vụ, và phổ biến từng tập theo chủ đề.

(1) Hướng về Năm Thánh 2000: gồm 28 bài về Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất, và về Năm Thánh.

(2) Chúa Thánh Thần, Đấng Ban Sự Sống: gồm 60 bài.

(3) Thiên Chúa Cha Giàu Lòng Thương Xót: 66 bài.

(4) Đức Mẹ La-Vang: 44 bài

(5) Vui Lên - Hát Mừng Đại Năm Thánh 2000: gồm 63 bài, chia ra:

- 11 bài Hành Hương - Sám hối

- 18 bài Thánh Thể

- 34 bài Ca Mừng Năm Thánh.

Có được những thành quả này là nhờ nhu cầu của cộng đoàn Dân Chúa thúc bách, sự nhiệt tình cộng tác của đội ngũ nhạc sĩ, của Ban Biên tập, đứng đầu là linh mục nhạc sư Kim Long đã dày công lựa chọn và nhuận sắc, nhưng trên hết là nhờ sự khôn ngoan và sự quan tâm sâu sát của Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, chủ tịch Ủy ban Thánh nhạc HĐGM.VN.

* Về việc phổ nhạc Kinh Kyrie và Thánh vịnh Đáp ca trong thánh lễ: Ngày 10-11-2009, Đức cha chủ tịch UBTN đã gửi thư cho Đức giám mục thư ký Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích để xin những chỉ dẫn cần thiết về việc soạn nhạc cho những phần này trong thánh lễ sao cho đúng hướng dẫn của Giáo Hội và thích nghi hài hòa với ngôn ngữ Việt Nam.           



c/ Câu lạc bộ những người sáng tác thánh ca:

- Do Linh mục Mai Tính phụ trách

- Sinh hoạt định kỳ vào chiều mỗi khi đại hội hay hội thảo Thánh nhạc toàn quốc

- Đã phát hành các tuyển tập sáng tác mới sau khi được chuẩn nhận.



d/ Tuyển tập Thánh ca:

Bước đầu, đã thực hiện được một Tuyển tập Thánh ca chung cho cả nước gồm các bài có từ thời kỳ đầu của nền thánh nhạc Việt Nam cho đến năm 1975. Tuyển tập này gần 500 bài Thánh ca được tuyển chọn từ hơn 4000 bài Thánh ca của nhiều tác giả.

- Ban Tuyển chọn gồm có Đức cha chủ tịch và các thành viên được Đức cha chủ tịch chỉ định hoặc được mời cộng tác.

- Nội dung tuyển chọn:

Tuyển chọn các bài Thánh ca (đã được phép sử dụng) từ ngày đầu tiên khai sinh nền thánh nhạc VN cho đến khoảng năm 1973 - 1975.

Gồm các sáng tác của các nhạc đoàn và các nhạc sĩ:



- Lê Bảo Tịnh (Hà Nội) gồm Hợp tuyển, Tuyển tập, Tuyển tập Tân biên

- Sao Mai (Bùi Chu) trong đó có Nhạc sĩ Hải Linh

- Tiếng chuông Nam (Thanh Hoá)

- Nhóm Ca Thánh (Phát Diệm)

- Nhóm Thiên Cung (Hải Phòng)

- Nhóm Minh Nhạc (Bắc Ninh)

- Cha Thích (Huế) - Cha Phaolô Qui, Phaolồ Đạt (Sàigòn)

- Thánh Gia, Philipphê Minh (Vĩnh Long)

- Suối Nhạc (Cha Tiến Dũng) và các linh mục nhạc sĩ: Đinh Quang Tịnh, Chính Trung, Hoàng Diệp, Thiện Cẩm,v..v..

- Vinh Hạnh, Kim Long, Phạm Liên Hùng, Hương Phong, Văn Chi, Dao Kim và các nhạc sĩ trong tuyển tập Chúc Tụng Chúa 1 và 2  của ĐCV Sàigòn.

- Tiêu chuẩn tuyển chọn:

*  Các bài xuất hiện nhiều trong các tuyển tập thánh ca của các giáo phận, các cộng đoàn dòng tu và giáo xứ, v..v..

*  Các bài Đúng và Hay (Đúng trước Hay sau: xét về Lời và Nhạc, Lời: ưu tiên)



*  Đa phần là những bài có tính cộng đồng (ít bè).

- Các bước tuyển chọn:

*  Thu tập các tài liệu gốc

* Nhóm tuyển chọn sẽ copy (photo) các bài có trong tay (đã được sơ tuyển) và gửi đến các thành viên cùng với Các trưởng ban Thánh Nhạc của 26 Giáo phận và 7 Đại Chủng Viện trong cả nước để xem xét, và xin ghi chú những gì cần xem lại trong từng bài hát để ban tuyển chọn dễ dàng lưu tâm (và sửa chữa nếu được).

*  Các thành viên có thể đề nghị những bài Thánh ca mà mình có trong bộ sưu tập của mình.

* Kêu gọi sự hỗ trợ của những vị hoạt động Thánh nhạc từ trứơc đến nay cung cấp thêm tài liệu cho ban sơ tuyển.

* Ban sơ tuyển sẽ lần lượt gửi từng phần (chủ đề: ca nguyện, thánh lễ, Mùa phụng vụ, Đức Mẹ, các Thánh, v..v..) để cho các vị hữu trách và các ban Thánh nhạc kịp xem và hoàn tất rồi sẽ gửi lại cho Ban Sơ Tuyển.

6. CA ĐOÀN

Ca đoàn là một danh từ mới dùng trong những năm gần đây. Ngày trước, (trước CĐ Vat.II), tiếng La-tinh là ngôn ngữ cầu nguyện chung cho toàn thể Giáo hội Công giáo. Nên chỉ có một số người (thường toàn nam giới) biết hát tiếng La-tinh được quy tụ lại để hát lễ, hoặc hát chầu. Những người hát trong nhà thờ này được gọi là hội hát hay ban ca vịnh.

Sau CĐ Vat.II (1965), ngoài tiếng La-tinh, tiếng bản xứ được dùng trong các cử hành phụng vụ. Cuộc canh tân phụng vụ này vừa thúc đẩy các nhạc sĩ sáng tác thánh ca bằng ngôn ngữ của mình, vừa thúc giục việc hình thành các ca đoàn hầu đáp ứng nhu cầu phụng vụ của cộng đoàn, cũng như thi hành những quyết định của Công Đồng (x. HCPV, 112-121).

Ca đoàn có một vai trò đặc biệt trong cử hành phụng vụ, nhất là mỗi khi cử hành thánh lễ. Những cộng đoàn giáo xứ hay dòng tu nào chăm sóc ca đoàn một cách chu đáo thường gặt hái được nhiều hiệu quả thiêng liêng. Vì như có ai đó đã nói: Trong thánh lễ có 2 phần được cộng đoàn tham dự lưu tâm hơn cả là: bài giảng và các bài hát.

Biết rằng hát cộng đồng là ưu tiên trong Phụng vụ, nhưng ca đoàn bao gồm những người được chọn ra từ cộng đoàn; họ là những người có khả năng âm nhạc cần thiết giúp cộng đoàn tập hát và nâng đỡ cộng đoàn trong khi ca hát trong những phần mà khả năng cộng đoàn chưa vươn tới được.

Người ta không thể thống kê 50 năm qua có bao nhiêu ca đoàn, ngay cả hiện nay cũng không thể thống kê một cách chính xác được. Thông thường số lượng ca đoàn tùy thuộc số giáo dân và nhu cầu phục vụ. Có những giáo xứ chỉ có 1 hay 2 ca đoàn; nhưng cũng có những cộng đoàn giáo xứ có đến 8 hay 9 ca đoàn. Thành phần ca viên rất đa dạng: người lớn tuổi, người trẻ và các thiếu nhi, có cả nam lẫn nữ. Các anh chị em tham gia ca đoàn ở Việt Nam (và ngay ở hải ngoại) đều là những con người thiện chí, hy sinh và can đảm, vì họ đều là những người tự nguyện “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”, là những cộng sự viên nhiệt thành của các cha chính xứ hay của ban mục vụ giáo xứ (ở những nơi không có linh mục quản xứ).

Một số ca đoàn nổi tiếng vì tính nghệ thuật cao, ít nhiều tác động tốt đến sinh hoạt của các ca đoàn khác, như ca đoàn Chim Việt (do cha Ngô Duy Linh sáng lập), Tinh Thần, ca đoàn Quê Hương (giáo xứ Phanxicô Đakao), ca đoàn Cung Chiều (cộng đoàn Dòng Tên, Đắc-lộ, đường Lý Chính Thắng, quận 3, Tp. HCM),v..v..Nổi bật nhất là ca đoàn HỒN NƯỚC.

Ca Đoàn HỒN NƯỚC:

Năm 1956 trở về Việt Nam, nhạc sĩ Hải Linh cùng linh mục Vũ Đình Trác hoạch định đường lối mới cho Nhạc Đoàn Sao Mai. Một trong 3 công việc được hoạch định là thành lập 1 ca đoàn, để trình tấu hợp ca. Mùa Noel 1957, ca đoàn Hồn Nước ra mắt bà con Sàigòn một cách long trọng tại rạp Olympic. Sau đó tại Thảo Cầm Viên Sàigòn, ca đoàn đã biểu diễn hợp xướng với Ban Nhạc Hòa Tấu New York của Nhạc trưởng Sherman dưới sự điều khiển của chính nhạc sư Hải Linh.

Năm 1958, Ca đoàn Hồn Nước lại chủ động trong Đại hội Thánh Mẫu Toàn quốc, do Trung Tâm Công Giáo Tiến Hành tổ chức. Khắp nơi nhiệt liệt hoan nghênh ca đoàn Hồn Nước như một công trình nghệ thuật hợp ca, đóng góp cho nền âm nhạc của dân tộc. Đặc biệt là những bài Trường Ca theo hệ thống ngũ cung đầy màu sắc dân ca. Năm 1970, dưới sự dẫn dắt của nhạc trưởng Hải Linh (trở về Sàigòn sau những năm tháng khảo cứu về âm nhạc giáo dục tại Hoa Kỳ) , Ca đoàn Hồn Nước đã đạt tới một trình độ nghệ thuật tinh vi. Năm 1972, trong dịp Đại Hội Thánh nhạc toàn quốc, do linh mục Tiến Dũng và linh mục nhạc sĩ Nguyễn Văn Minh tổ chức, ca đoàn Hồn Nước lại một lần nữa sáng chói trong đại hội.

Ca đoàn Hồn Nước là một trong những ca đoàn đã góp phần rất lớn trong việc “tôn vinh Thiên Chúa”, giới thiệu một phong cách hát thánh ca thật có “hồn” và góp phần thúc đẩy các ca đoàn thánh nhạc không ngừng luyện tập để “hát hay chính là cầu nguyện hai lần”.

Các ca đoàn ở Việt Nam đã góp phần không nhỏ trong đời sống đức tin của Dân Chúa tại Việt Nam. Theo những giáo dân địa phương kể lại, những năm tháng khó khăn ở miền Bắc (từ 1954-1975), có một số ca đoàn đã phải tìm cách tập hát hay tập dâng hoa ở trong các hang động (Tam Cốc, Phong Nha,v..v..) nhờ lúc nước lên và xuống, để tránh những phiền toái về mặt xã hội. Nhờ đó tiếng hát và lời Chúa được truyền tải đến mọi người. Trong việc truyền tải này, còn phải kể đến việc phổ biến các sách thánh ca của các nhạc sĩ, và các băng đĩa thánh nhạc do các ca sĩ và các trung tâm phát hành băng đĩa âm nhạc công giáo, mà phần đóng góp không nhỏ chính là giới ca sĩ công giáo. Trong số các anh chị em ca sĩ công giáo hoạt động âm nhạc, có nhiều ca sĩ xuất thân từ ca đoàn, như:

Cũng cần nhắc đến môi trường ca đoàn trong việc cung cấp các  

Đó là những đóng góp quý báu của các nhà xuất bản, của anh chị em ca sĩ và các nhà hoạt động âm nhạc khi đưa những tác phẩm thánh nhạc đến với cộng đồng dân Chúa.

7. ẤN PHẨM THÁNH NHẠC: 

Không thể liệt kê hết các đầu sách thánh ca đã được thực hiện, cũng như không thể lên danh sách đầy đủ các băng đĩa (audio, video, VCD, DVD). Một cách vô tình hay hữu ý, các băng đĩa này là một phương tiện truyền giáo hiệu nghiệm khi các bài thánh ca được vang lên dưới các mái ấm gia đình, trong các hàng quán, hay trên các phương tiện di chuyển. Nhiều người đã đến với Kitô giáo chỉ vì tình cờ rồi đến yêu thích nghe tiếng hát của ca đoàn, tiếng ca, tiếng đàn được ghi lại trong những băng đĩa nhà đạo.



8. HUẤN LUYỆN THÁNH NHẠC

Ủy ban Thánh nhạc HĐGM, cũng như Ban Thánh nhạc các giáo phận và các dòng tu luôn quan tâm đến việc đào tạo và huấn luyện nhân sự về thánh nhạc.

Một mặt các linh mục, tu sĩ, giáo dân có khả năng chuyên môn cao được gửi đi học ở nước ngoài (Ý, Pháp, Đức, Hoa Kỳ, v..v.), một mặt thụ huấn tại các trường lớp quy mô trong nước, như Đại học Thánh Nhân, Trường Suối Nhạc (do linh mục nhạc sư Tiến Dũng sáng lập và điều khiển). Trường SUỐI NHẠC đào tạo được nhiều thế hệ nhạc sĩ, ca trưởng, nhạc công tên tuổi, như: Thy Yên, P. Kim, v..v..

Những tên tuổi lớn trong nền thánh nhạc Việt Nam đã được đào tạo về âm nhạc và thánh nhạc tại ngoại quốc:

- Linh mục Ngô Duy Linh: Du học âm nhạc tại Paris, Pháp năm 1953. Ngài chọn học các môn Bình ca, Hòa âm, sáng tác và ca trưởng là những môn thực dụng cho ngành Thánh Nhạc Việt Nam đang trong giai đoạn phôi thai. Bộ môn Ca Trưởng và Hòa Âm.

- Hải Linh: 1950 du học ở nhạc viện Rôma chuyên về Thánh ca, tốt nghiệp Bình ca; và sau khi học ở Pháp, Hải Linh tốt nghiệp Sáng tác và Ca trưởng; 1956, tốt nghiệp ưu hạng  tại nhạc viện César Franck với luận án: “La Couleur Vietnamienne dans le Chant Grégorien - Màu sắc Việt Nam trong Bình Ca”; năm 1956 trở về Việt Nam và sau đó Hải Linh còn du học Mỹ.

- Linh mục Đinh Quang Tịnh tốt nghiệp khoa sáng tác tại nhạc viện (L’institut catholique) Césaz Franz.

- Linh mục nhạc sư Tiến Dũng (Antôn Nguyễn Tiến Dũng) du học Rôma và được công nhận là Magistero về Sáng tác nhạc tại Viện Giáo hoàng về Thánh Nhạc.

- Linh mục Hoàng Kim đỗ cử nhân ngành Hòa Âm tại Nhạc viện Paris (khoảng năm 1955-1958).

- Linh mục Kim Long tốt nghiệp Magistero ngành Bình Ca và cử nhân Thánh nhạc tại Viện Giáo hoàng về Thánh Nhạc (năm 1972).

- Linh mục Mi Trầm học nhạc tại Pháp.

- Linh mục Xuân Thảo du học Mỹ nhiều năm và đã hoàn thành xuất sắc luận án tiến sĩ với đề tài “HỘI NHẬP VĂN HÓA THÁNH CA PHỤNG VỤ TẠI VIỆT NAM”. Theo giáo sư tiến sĩ Trần Văn Khê, “Luận án này rất xuất sắc về đề tài tác giả đã nêu lên và là một công trình khoa học có một giá trị rất lớn về việc “Tìm hiểu, phân tích Dân ca và Thánh ca Việt Nam.

Song song với những vị du học thánh nhạc ở nước ngoài là những tên tuổi khác tự học, hay được đào tạo và huấn luyện ở trong nước, cũng đã đóng góp không ít cho kho tàng thánh nhạc Việt Nam, chẳng hạn: nhạc sĩ Viết Chung, Thy Yên, P. Kim, Tiến Linh, Cát Minh, Cung Chiều, Nguyễn Duy, Phanxicô, v..v..

Bên cạnh đó còn có các lớp riêng do các cá nhân tổ chức như các lớp nhạc, thánh nhạc, ca trưởng của Cha Kim Long, Cha Xuân Thảo, nhạc sĩ Đinh Thiện Bản (tại Dòng Chúa Cứu Thế, Kỳ Đồng), nhạc sĩ Phạm Đức Huyến, thầy Hải Linh,…Những lớp đào tạo và huấn luyện âm nhạc, thánh nhạc này đã đóng góp nhiều nhân sự cho nền thánh nhạc Việt Nam.

Sau phiên họp ngày 22-08-2006 tại Hoa viên Hiệp Nhất Dòng Chúa Cứu Thế, Ủy ban Thánh nhạc đã liên kết với Trung tâm Mục vụ Giáo phận Tp. HCM mở các lớp đào tạo về Thánh nhạc cho đến nay (5 học kỳ, mỗi học kỳ kéo dài 4 tháng):

- Nhạc lý, ký xướng âm: gồm 2 cấp

- Thanh nhạc (Luyện tiếng): gồm 2 cấp

- Phân tích hoà âm

- Hoà âm 1, 2

- Điều khiển ca đoàn:

1- Đánh các nhịp căn bản;

2- Phác hoạ tiết tấu;

3- Chỉ huy hợp xướng.

- Thánh nhạc trong Phụng vụ

- Đàn sơ cấp

- Đệm đàn trong Phụng vụ.

Tổng số người tham dự trong 9 khóa học (không kể 2 khóa Hè - trọn tháng 7 năm 2007 và 2008) gần 4000 lượt học viên .

Từ năm 1986, các đại chủng viện được mở lại để đào tạo các ứng sinh linh mục, nhu cầu giảng dạy môn thánh nhạc đã được đáp ứng. Linh mục Kim Long là người có công đầu trong việc hình thành một giáo trình có hệ thống về Thánh nhạc trong Phụng Vụ. Với giáo trình này, các ca đoàn sẽ biết phải hát những gì, hát cách nào cho đúng ý Hội Thánh, đúng với những quy định mà các văn kiện Hội Thánh đã đề ra. Giáo trình này không chỉ được giảng dạy trong các đại chủng viện, trong các đợt bồi dưỡng tại các giáo phận, mà còn được phổ biến trong các hội dòng và trong các lớp thánh nhạc tại các trung tâm mục vụ. Ở đây cũng không quên nỗ lực đào tạo tại một vài chủng viện, như chủng viện Thánh Giuse Tp. Hồ Chí Minh, Thánh Quý Cần Thơ.

Việc huấn luyện thánh nhạc trong Đại chủng viện thánh Phêrô Đoàn Công Quý, giáo phận Cần Thơ được quan tâm với chương trình dạy nhạc và thánh nhạc khá đầy đủ; trong đó các giáo huấn của Hội thánh về Thánh nhạc được trình bày cặn kẽ.

Khoàng trên dưới 30 năm qua (từ 1980), Các giáo phận và các Hội Dòng cũng liên tục mở các khóa Huấn luyện về Thánh nhạc (ngắn hạn hoặc dài hạn) cho các ca trưởng, ca viên, các tu sĩ. Các giáo phận: Hà Nội, Bùi Chu, Thái Bình, Huế, Qui Nhơn, Đà Lạt, Xuân Lộc, Phú Cường, Mỹ Tho, Vĩnh Long, v..v.. Tại Huế, Đức Tổng giám mục cho phép các tham dự viên là linh mục, chủng sinh, các đan tu Cát-Minh, các nữ tu cùng học chung với nhau. Các Hội Dòng: Thánh Phaolô thành Chartres (Tp. HCM và Đà Nẵng), Mến Thánh Giá Hà Nội, Tân Lập, Tân Việt, Khiết Tâm, Thái Bình, Chợ Quán và Đa-minh Thái Bình (Hố Nai), Đa-minh Bùi Chu (Tam Hiệp), v..v..

Trung bình mỗi khóa học kéo dài cả tháng và thường xuyên tổ chức mỗi năm. Các tham dự viên tham dự cách thích thú và hiệu quả. Nhờ đó hoạt động thánh nhạc từng bước được chấn chỉnh do anh chị em học viên ý thức và yêu mến, để lại những dấu ấn đức tin trong đời thường cho xứ đạo và cộng đoàn mà ai cũng nhận thấy.

B. NHẬN ĐỊNH

Mặc dầu, sau biến cố 1975, nhiều thay đổi về nhân sự, các ban thánh nhạc lúng túng trong việc phải tổ chức sinh hoạt như thế nào trong giai đoạn mới, thêm vào đó giai đoạn này các ban thánh nhạc giáo phận không được quan tâm sâu sát khiến trong các hoạt động thánh đã xảy ra nhiều biểu hiện không mấy lạc quan trong hoạt động thánh nhạc (sáng tác và sử dụng).

Tuy nhiên, qua cái nhìn rất tổng quát trên đây, ta thấy rõ sự đóng góp liên tục và thật nhiệt tâm của các nhạc sĩ, nghệ sĩ qua hơn nửa thế kỷ cho nền Thánh nhạc Việt Nam. Những đóng góp này thật đáng ghi nhớ và trân trọng. Mỗi người, theo tài năng và sự hiểu biết của mình đã góp rất nhiều công sức để giáo dân Việt Nam có được một phương tiện đặc biệt trong việc ca tụng Chúa, nhờ đó, với tác động của ân sủng, đức tin mỗi ngày một thêm sâu sắc.

Thánh nhạc có một vai trò rất quan trọng trong đời sống phượng tự và cầu nguyện của người công giáo Việt Nam. Vì tự bản chất, ngôn ngữ Việt Nam giàu nhạc điệu, khi đọc kinh hay khi đọc sách, âm thanh được phát ra lên xuống trầm bổng như là hát. Thế nên việc ca hát đã trở thành một thói quen không thể thiếu trong các cử hành phụng vụ. Đa phần người công giáo đều thuộc và có thể hát nhiều bài bình ca, như Tantum ergo, Salve Regina, Bộ lễ De Angelis, và hát nhuần nhuyễn nhiều bài thánh ca phổ thông Việt Nam, chẳng hạn như: Kinh Hòa Bình (lm Kim Long), Hang Belem (Hải Linh), Dâng Mẹ (Lm Hoài Đức), Bên Sông Babylon (Lm Tiến Dũng), Trăm Triệu Lời Ca (Đức cha Nguyễn Văn Hòa),Lắng Nghe Lời Chúa (Lm Nguyễn Duy), Cầu Cho Cha Mẹ (Phanxicô), Ca Khúc Trầm Hương (Lm Dao Kim), Bài Ca Dâng Hiến (Sr Trầm Hương),v..v.. Nhu cầu ca hát mỗi ngày mỗi tăng lên, nhất là từ sau khi Công đồng Chung Vaticanô II canh tân phụng vụ, cho phép sử dụng ngôn ngữ bản địa thay thế cho La ngữ. Đứng trước nhu cầu lớn của cộng đồng dân Chúa, các ban Thánh nhạc các giáo phận đã kêu gọi các nhạc sĩ sáng tác các bài Thánh ca mới với lời ca được khơi nguồn từ Thánh Kinh, từ bản văn Phụng vụ, cũng như từ các suy tư Thần học hoặc Giáo lý.

Hưởng ứng lời kêu gọi sáng tác, đã có rất nhiều bài Thánh ca mới được giới thiệu cho các cộng đoàn Phụng vụ. Bên cạnh đó, các cộng đoàn Phụng vụ, nhất là các giáo xứ, đã luôn có và phát triển thêm các ca đoàn Phụng vụ để giúp cộng đoàn cùng hát trong các cử hành Phụng vụ chính thức của Giáo hội.

Vì thế, cùng với Ủy ban Phụng tự, Ủy ban Thánh nhạc Hội đồng Giám mục Việt Nam luôn quan tâm đến những vấn đề Thánh nhạc trong Phụng vụ, để giúp các nhạc sĩ và các cộng đoàn (cách riêng là ca đoàn) biết phải hát những gì, hát cách nào cho đúng ý Hội thánh, đúng với những quy định mà các văn kiện của Hội thánh liên quan đến Thánh nhạc đã đề ra.

Nói chung:

1/ Thánh nhạc đã góp phần tích cực cho đời sống đạo của giáo dân Việt Nam: không những giáo dục đức tin mà còn hâm nóng đức tin của họ.

2/ Đáp ứng nhu cầu cầu nguyện của cộng đồng dân Chúa phù hợp với nhiều hoàn cảnh khác nhau.

3/ Nhiều khi có hiệu quả truyền giáo rất lớn: thánh nhạc được ghi băng dĩa, được nghe mọi nơi mọi lúc; thêm vào đó các ca đoàn của các giáo xứ cũng đem lời ca tiếng hát đến với mọi người, gây sự thu hút cho những anh em ngoài Ki-tô giáo,v..v..

4/ Những bài Thánh ca Giáng sinh, cầu cho cha mẹ, cho gia đình,v..v.. được nhiều người yêu thích, và để lại nhiều hiệu quả tốt đẹp trong đời sống của họ.

5/ Về lời ca: đã có những bước tiến trong tư tưởng và ý nghĩa: bản văn Thánh kinh được dệt nhạc nhiều hơn, nhiều bài Thánh ca mang chất Thần học và Phụng vụ hơn, nhất là từ sau Công đồng Vaticanô II.

6/ Đội ngũ sáng tác Thánh ca ở Việt Nam có thể nói là một trong những đội ngũ đông nhạc sĩ nhất, với số lượng sáng tác các bài Thánh ca mới nhiều nhất so với nhiều Giáo hội địa phương khác.

7/ Tuy nhiên còn nhiều vấn đề cần phải được gạn đục khơi trong ở cả hai lĩnh vực: sáng tác và sử dụng, sao cho đúng tinh thần phụng vụ của Giáo hội.

Cũng cần ghi nhận sự có mặt của Thánh ca, theo những người viết về Nhạc-Sử Việt Nam, đã góp phần không nhỏ vào việc hình thành nền Tân Nhạc Việt Nam. Thêm nữa, nhiều nhạc sĩ Công giáo, đã giới thiệu những sáng tác rất có giá trị và được phổ biến rộng rãi, như Nguyễn Xuân Khoát, Hùng Lân, Hải Linh…. nhất là ở thập niên 60, hai nhạc sĩ Ngô Duy Linh và Hải Linh đã làm nở rộ và thăng tiến nhạc hợp xướng trong Đạo cũng như ngoài đời.



tải về 216.13 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương