Thâm Ý Qua Hình Tượng Phật, Bồ Tát ht. Thanh Từ o0o Nguồn



tải về 170.59 Kb.
trang3/5
Chuyển đổi dữ liệu20.10.2017
Kích170.59 Kb.
#33815
1   2   3   4   5

TƯỢNG PHẬT A DI ĐÀ


(Buddha Amita)

DANH HIỆU.

Đức Phật A Di Đà là vị giáo chủ ở cõi Cực-lạc phương tây A Di Đà có nghĩa vô lượng quang, vô lượng thọ. Nghĩa là hào quang và tuổi thọ của Ngài không thể lường được.



TIỀN THÂN.

Thời đức Phật Thế Tự Tại Vương, có vị quốc vương tên Kiều Thi Ca nghe Phật thuyết pháp liền bỏ ngôi vua xuất gia làm Tỳ-kheo hiệu là Pháp Tạng. Một hôm, Ngài đảnh lễ Phật cầu xin chứng minh cho Ngài phát 48 lời nguyện. Do nguyện lực ấy, sau này Ngài thành Phật hiệu A Di Đà ở cõi Cực-lạc. (Kinh Đại A Di Đà) Lại, một thuở xa xưa ở cõi San Đề Lam có ông vua tên Vô Tránh Niệm. Do đại thần Bảo Hải khuyến tiến, nhà vua gặp đức Phật Bảo Tạng, thành tâm cúng dường, quy y thọ giáo. Nhà vua phát nguyện sau này thành Phật sẽ làm giáo chủ một cõi cực kỳ trang nghiêm thanh tịnh để giáo hóa chúng sanh. Đức Phật Bảo Tạng thọ ký cho Ngài sau này sẽ thành Phật hiệu A Di Đà, cõi nước tên Cực-lạc ở phương Tây. Hiện giờ Ngài đã thành Phật và đang thuyết pháp tại đó. (Kinh Bi Hoa)



HẠNH NGUYỆN.

Đức Phật A Di Đà xưa phát 48 lời nguyện lớn, trong đó có lời nguyện sẵn sàng tiếp dẫn chúng sanh nào niệm danh hiệu của Ngài. Dù người ấy chỉ niệm mười câu danh hiệu Ngài, Ngài cũng tiếp dẫn vãng sanh về cõi Cực-lạc.



BIỂU TƯỚNG.

Đức Phật A Di Đà thường thờ có hai tượng: Tượng ngồi kiết già trên tòa sen, tay kiết định ấn, tương tự tượng Thích Ca. Tượng đứng trên hoa sen lơ lửng trong hư không, bên dưới là bể cả sóng dậy chập chồng, mắt Ngài nhìn xuống, tay mặt đưa lên ngang vai, tay trái duỗi xuống như sẵn sàng chờ đợi tiếp cứu những người đang trầm mịch. Tượng ấy gọi là tượng Di Đà phóng quang.



THÂM Ý.

Chúng ta cần tìm hiểu ý nghĩa tượng phóng quang này. Theo trong mật giáo giải thích: tay mặt Phật đưa lên biểu thị tứ thánh (Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Phật), tay trái duỗi xuống biểu thị lục phàm (Thiên, nhơn, A-tu-la, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục). Nghĩa là Ngài sẵn sàng tiếp độ lục phàm đưa lên quả vị tứ thánh. Ý nghĩa hình tượng này, chúng ta thấy rõ hơn, qua bốn câu kệ tán dương Ngài:

Ái hà thiên xích lãng,
Khổ hải vạn trùng ba;
Dục thoát luân hồi lộ,
Tảo cấp niệm Di Đà.

Tạm dịch:

Sông ái sóng ngàn thước,
Bể khổ dậy muôn trùng;
Kiếp luân hồi muốn thoát,
Sớm gấp niệm Di Đà.

Chúng ta là những chúng sanh đang đắm chìm trong sông ái, nước mắt đau thương thống khổ tràn trề như bể cả. Đức Phật Di Đà đang đứng chực trong hư không, đã duỗi cánh tay vàng chờ đợi cứu vớt chúng ta. Nhưng chúng ta có chịu ngoi đầu lên khỏi dòng sông ái, đưa tay cho Ngài cứu vớt hay không? Hay cứ mãi lặn hụp trong sông mê bể ái, để đức Phật mãi đợi chờ mà không có một sự đáp ứng nào? Cánh tay vàng kia cứ duỗi thẳng đợi chờ, mà đàn con dại này mãi say mê lội đuổi bắt những hòn bọt, lặn mò bóng trăng. Để rồi bị sóng cuốn nước trôi càng ngày càng ra khơi, khiến người mẹ hiền kia đã lạc giọng kêu gọi.

Kinh chép:

Các đức Như Lai trong mười phương nhớ thương chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu con trốn mẹ thì cái nhớ ấy cũng không ích gì. Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì mẹ và con trong đời này, trong các đời sau quyết không xa nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật niệm Phật thì trong hiện tại và ở tương lai nhất định thấy Phật, cách Phật không xa... (Kinh Lăng Nghiêm, chương Đại Thế Chí niệm Phật).

Hai người cùng hướng mặt về nhau mà đi, dù điểm phát xuất cách xa thế mấy, nhưng cũng được gặp nhau. Nếu hai người trở lưng mà đi, dù khi khởi hành họ ở bên cạnh nhau, song càng đi họ càng xa nhau. Đức Phật luôn luôn hướng về chúng ta, nếu chúng ta cứ né trốn Ngài thì làm sao gặp được Phật. Đáng lý chúng ta có cảm thì Phật mới ứng song ở đây đức Phật sẵn sàng ứng, mà chúng ta không chịu cảm, thật đúng câu Phật quở: "các ông là người mê muội đáng thương".

Người phát tâm tu Tịnh độ tin chắc đức Phật đang chờ đợi tiếp đón chúng ta về cõi Cực-lạc (tín), gắng công niệm Phật (hạnh), mong mỏi được sanh về cõi Phật (nguyện). Có đủ ba yếu tố này nhất định sẽ vãng sanh về Cực-lạc.

Hình ảnh đức Phật A Di Đà là hình ảnh mong chờ đón tiếp. Chúng ta phải sớm thức tỉnh nhận chân sự khổ đau, trong khi đang đắm chìm trong bể ái, để quay về với đức Từ bi. Phật là hiện thân cứu khổ, chúng ta là thực thể khổ đau. Một ngày nào chúng ta không còn đau khổ, ngày ấy đức Phật sẽ không còn duỗi tay chờ đợi cứu vớt chúng sanh.


TƯỢNG ĐỨC DI LẶC


(Maitreya)

LƯỢC SỬ.

Bồ-tát Di Lặc người Nam Ấn, sanh trong nhà Bà-la-môn, sau theo Phật Thích Ca xuất gia tu hành. Phật thọ ký: sau khi Phật Niết-bàn, Bồ-tát Di Lặc sanh về cung trời Đâu Suất, trụ trên đó bốn ngàn năm (4 000) - tính theo năm tháng ở thế gian là sáu mươi ức bảy ngàn muôn năm (6 070 000 000) sau đó sanh xuống thế giới này tu hành ở trong vườn Hoa Lâm, dưới cội cây Long Hoa thành Phật hiệu Di Lặc.



CÔNG HẠNH.

Ngài tu pháp quán các pháp Duy thức. Tất cả chúng sanh mê lầm chấp các pháp thế gian là thật có (biến kế sở chấp), nên bị sanh tử luân hồi, sự thật các pháp đều do nhân duyên sanh khởi (y tha khởi), in tuồng như có; mà không thật có. Chung qui các pháp không ngoài tánh chân thật viên mãn (viên thành thật), lúc nào cũng tròn đầy sáng suốt không biến hoại. Quán như thế, phá được cái chấp mê lầm của phàm phu, nhận thấy hiện tướng các pháp do nhân duyên sanh khởi, thấu đạt chân tánh các pháp là chân thật tròn đầy. Đó là giác ngộ chứng quả.



BIỂU TƯỚNG.

Tượng Ngài thờ theo lối Tam Thế Phật cũng tương tự tượng Phật Thích Ca. Chỉ đáng chú ý nhất bức tượng hình một vị Hòa thượng mập mạp, miệng cười toe toét, mặc áo phơi ngực, bày cái bụng to tướng, chung quanh có sáu đứa bé quấy nhiểu, đứa chọc tay vào mũi, đứa móc miệng đứa chìa vào hông..., Ngài vẫn cười tự nhiên. Tượng này cũng gọi tượng Bồ-tát Di Lặc. Đây là y cứ vào điển tích Bố Đại Hòa thượng - Hòa thượng mang đãi lớn mà tô tượng.

Bố Đại Hòa thượng xuất hiện vào đời nhà Lương ở Trung Hoa, Ngài ăn mặc xốc xếch, đi đâu thường mang cái bị lớn, gặp ai có món gì xin món ấy dồn vào bị, gặp những bọn trẻ con đem ra phân phát cho chúng. Bọn trẻ con thích Ngài lắm. Hôm sắp tịch, Ngài ngồi trên tảng đá bên chùa Nhạc Lâm, nói bài kệ:

Di Lặc chơn Di Lặc,


Phân thân thiên bách ức;
Thời thời thị thời nhân,
Thời nhân tự bất thức.

Dịch:


Di Lặc thật Di Lặc,
Phân thân trăm, ngàn, ức;
Luôn luôn chỉ người đời,
Người đời tự chẳng biết.
THÂM Ý.

Pho tượng này vừa căn cứ vào hóa thân Bồ-tát, vừa hàm chứa ý nghĩa sâu xa. Di Lặc Bồ-tát là hiện thân của đức tánh hỷ xả. Bởi vì, Ngài đã thấy các pháp do nhân duyên sanh khởi, không thật chỉ có giả danh, nên không chấp các pháp. Các pháp ấy không rời chân tánh viên mãn, nên dù sanh diệt biến hoại vẫn không thấy mất còn tăng giảm. Một hôm Hòa thượng Bảo Phước gặp Hòa thượng Bố Đại liền hỏi: - Đại ý Phật pháp là thế nào?

Bố Đại buông bị lớn xuống đất, đứng thẳng khoanh tay.

Hỏi tiếp: - Chỉ là như vậy, hay lại có việc hướng thượng?

Bố Đại mang bị lên vai, đi.

Qua hành động trên, chúng ta thấy hạnh chánh yếu của Ngài là Xả. Đại ý Phật pháp là buông bỏ tất cả. Còn đeo đẳng, còn chấp chặt thì không thể nào thấu đạt được Phật pháp. Nhưng, xả bằng cách gắng gượng, xả mà vẫn còn luyến tiếc thì cái xả ấy cũng chưa thật là xả. Phải xả bằng cách vui vẻ thích thú, thì cái xả ấy mới thật là hỷ xả. Khi xả tất cả, người ta tưởng như không còn gì nữa, nhưng không. Sẽ còn đại Bồ-đề, là pháp hướng thượng. Cho nên, đến câu hỏi thứ hai, Ngài mang bị lên vai đi. Lấy đức hỷ xả làm chánh yếu, nên pho tượng Ngài lúc nào nơi miệng cũng nở nụ cười hỷ hả. Do vui vẻ mà xả, cũng do xả nên được vui. Vì thế, Ngài vui cười mãi mãi, dù bất cứ ở hoàn cảnh nào. Đến như sáu đứa bé chơi nghịch ngợm, đứa móc miệng, đứa chỉ tay vào mắt, đứa ngoáy lỗ tai, đứa chọt vào mũi, đứa đâm vô ngực, đứa lói vào hông, mà Ngài vẫn nở nụ cười tự tại. Sáu đứa bé ấy được mệnh danh là Lục tặc. Nghĩa là sáu đứa giặc hằng theo quấy nhiễu những kẻ tu hành. Chúng nó tượng trưng cho mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý của con người.

Tại sao mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý của chúng ta mà gọi là sáu đứa giặc? Nếu muốn giết hết giặc tức là phải tiêu diệt chúng hết sao? -Vì sáu cơ quan này tiếp xúc với ngoại cảnh, sanh nhiễm ái, gây ra tội lỗi đau khổ, nên gọi chúng là giặc. Như mắt thấy sắc sanh đắm trước, dục vọng dấy khởi, rồi muôn ngàn tội lỗi theo đó mà hình thành. Khi tai nghe tiếng hay, sanh say mê, tâm hồn xao xuyến, chạy đuổi theo tiếng hay mà quên hết những gì cao thượng thanh bai. Lúc mũi ngửi mùi hương sanh lòng ưa thích, càng ưa thích càng kiếm tìm, để thỏa mãn lòng ưa thích, người ta không ngại gì tội lỗi, do đó tội lỗi chập chồng. Lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý nghĩ pháp cũng như thế. Đó là nói về chiều thuận của nó. Nếu về chiều nghịch, mắt thấy sắc xấu sanh chán ghét, mũi ngửi mùi hôi sanh gớm nhờm, tai nghe tiếng dở sanh bực bội... là gốc khiến sân hận nổi lên. Tóm lại, tiếp xúc cái thích với nó thì sanh tham, cái không thích thì sanh sân cả hai điều là cội nguồn tội lỗi, nên gọi nó là sáu đứa giặc.

Tuy nhiên, không phải phá hoại sáu cơ quan ấy gọi là giết hết giặc. Phá hoại nó, chúng ta sẽ thành kẻ tật quyền, không lợi gì cho sự tu tập. Chúng ta phải học theo gương đức Di Lặc, xả tất cả chấp ngã, chấp pháp. Ngã pháp đã xả hết, chúng ta sẽ tự tại trước mọi cảnh, chừng ấy dù bọn lục tặc phá phách đến đâu cũng không làm não loạn tâm ta. Ta đã thắng được chúng và hàng phục chúng trở thành tay sai đắc lực của ta. Lúc chúng ta còn là phàm phu sáu cơ quan ấy là sáu đứa giặc hằng phá hoại ta, khi chúng ta chứng được quả thánh sáu cơ quan ấy trở thành sáu thứ thần thông (thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, thần túc thông, tha tâm thông, túc mạng thông, lậu tận thông). Thế là, sáu cơ quan ấy thành giặc thù hay thắng dụng đều do tâm chấp ngã pháp hay xả ngã pháp của chúng ta mà ra. Nó không phải tội lỗi, không phải công ơn, tội lỗi hay công ơn gốc ở tâm chấp hay xả của chúng ta mà thôi.

Biết như vậy, chúng ta gắng tập đức hỷ xả của ngài Di Lặc buông bỏ tất cả hận thù, buông bỏ mọi cố chấp, buông bỏ lòng tham trước... Tất cả đều buông bỏ thì lòng chúng ta nhẹ nhàng như quả bóng đứt dây, thênh thang như hư không bao hàm vạn tượng, vui vẻ hồn nhiên như đứa trẻ thơ nhìn vào ống kính vạn hoa. Được thế, còn gì làm ta đau khổ, còn gì khiến ta phải bực bội đắm mê. Đến đây, tâm như bể rộng mênh mông, trời cao thăm thẳm, mặc tình thuyền bè qua lại mà không lưu lại một vết tích gì trong bể, tùy duyên trăm ngàn mây nổi mà không ngại nhau trong hư không.

Thờ tượng đức Di Lặc hay lễ bái Ngài, chúng ta phải nhớ hạnh hỷ xả là pháp tu chánh yếu để giải thoát mọi khổ đau. Có hạnh hỷ xả là có giải thoát, có an vui. Hỷ xả là thần dược trị lành mọi bệnh chấp trước của chúng sanh. Nụ cười của đức Di Lặc là nụ cười muôn thuở, không bao giờ biến đổi.


 



tải về 170.59 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương