THỜi sự y học số 194 bs nguyễn văn thịnh 1/ BÉo phì không phải chỉ do chế ĐỘ Ăn uốNG



tải về 74.16 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích74.16 Kb.
#13000
THỜI SỰ Y HỌC SỐ 194
BS NGUYỄN VĂN THỊNH

1/ BÉO PHÌ KHÔNG PHẢI CHỈ DO CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG.


NHỮNG ĐIỂM MỐC

CHỈ SỐ KHỐI LƯỢNG CƠ THỂ (IMC) : Sự tăng thể trọng (surpoids) và chứng béo phì (obésité) được định nghĩa bởi một chỉ số khối lượng cơ thể (indice de masse corporelle). Chỉ số này được tính bằng cách chia thể trọng của mình với kích thước nhân bình phương. Ngoại lệ những trường hợp dưới 16 tuổi và trên 70 tuổi (nơi những đối tượng này những chỉ dấu khác phải được xét đến), một IMC trên 25 chỉ rõ một tăng thể trọng (surpoids). Trên 30, ta nói bệnh béo phì. Ngược lại, chỉ số khối lượng có thể cũng cho phép phát hiện một sự thiếu cân.

DỊCH TỄ HỌC. Theo một báo cáo của OCDE và của OMS, được trình bày tuần qua, và sẽ được thảo luận bởi các bộ trưởng Y tế của các nước hội viên vào đầu tháng 10, cứ hai người thì có một bị tăng thể trọng hay béo phì trong một nửa của các nước của OCDE (33 nước hội viên). Các tỷ lệ đã tăng gấp gôi từ năm 1980. Những dữ kiện được thực hiện bởi OCDE ước tính rằng trong 10 năm nữa cứ ba người thì có hơn hai người sẽ bị tăng thể trọng và béo phì trong nhiều nước. Với những hậu quả về y tế và kinh tế.

NHỮNG NGUYÊN NHÂN. Mặc dầu các cách ăn uống và sự nhàn rổi đưa đến một hoạt động vật lý ít hơn bị vạch mặt chỉ tên trong những nguyên nhân chính của chứng béo phì, y học đã cho thấy rằng chúng không phải là những yếu tố duy nhất. Những yếu tố sinh học, di truyền, tâm lý hay xã hội cũng can thiệp vào. Các nhà nghiên cứu và thầy thuốc đang nghiên cứu nhằm cải thiện kho trị liệu và ngoại khoa được đề nghị.


PHÁP. Mặc dầu các tỷ lệ béo phì ở Pháp thuộc loại thấp nhất trong số các nước

của OCDE, nhưng chúng đã gia tăng một cách đều đặn. Khoảng cứ 10 người thì có một bị béo phì và gần 40% dân số bị tăng thể trọng. Về các trẻ em Pháp cũng có những tỷ lệ tương đối thấp và ổn định nhưng chúng có thể gia tăng trong những năm đến.



Ngoài sự nhàn rổi không hoạt động (sédentarisation), có nhiều yếu tố khác can thiệp vào trong sự xuất hiện của gia tăng thể trọng (surpoid).

Tần số bệnh béo phì (obésité) và đặc biệt là bệnh béo phì nặng (120 kg hoặc hơn) gia tăng trên toàn thế giới, đặc biệt là trong những nước mới phát khởi như Brésil và Trung Quốc. Nước Pháp không được tha miễn. Một chế độ ăn uống nhiều calo hơn và một hoạt động vật lý ít tiêu hao năng lượng hơn góp phần làm gia tăng các dự trữ năng lượng trong cơ thể và do đó trong mô mỡ. Nhưng nơi vài người, những vấn đề khác thêm vào sự bất quân bình giữa cung cấp và tiêu hao năng lượng. Những tế bào mỡ của họ, có nhiệm vụ tích trữ năng lượng, có số lượng gia tăng, do đó có một sự gia tăng các khả năng tích trữ. Vậy nếu những người này lên cân quá nhiều, đó cũng là bởi vì thân thể họ dành ưu tiên cho việc tích trữ các calo thực phẩm. Như thế, điều được gọi là “ sự thiếu ý chí ” mà những người béo phì rất thường bị buộc tội là một sự vạch mặt chỉ tên rất là không đúng. Mặt khác sự nghiên cứu rất tích cực trong lãnh vực này...

“ Ngoài những sự bất quân bình về chế độ ăn uống và sự nhàn rỗi không hoạt động, nhiều yếu tố can thiệp trong sự lên cân ”, GS Arnaud Basdevant, trưởng khoa dinh dưỡng của bệnh viện Pitié-Salpêtrière (Paris) đã giải thích như vậy. Chúng ta đã biết vai trò của di truyền, nhưng sự nghiên cứu cũng quan tâm đến vai trò của các vi khuẩn ruột bởi vì người ta tìm thấy vài trong số những vi khuẩn này có một tỷ lệ bất thường nơi những người béo phì. Thế mà vài khuẩn chí ruột (flore bactérienne intestinale) làm dễ sự hấp thụ các chất dinh dưỡng và sản xuất các chất có thể làm gia tăng sự tích trữ năng lượng trong những tế bào mỡ. Mặt khác, vài loại thuốc, các chất gây ô nhiễm, các virus cũng có thể làm gia tăng số các tế bào mỡ.


Ngoài ra, giờ đây người ta biết rằng stress có thể kích thích, trong thí nghiệm nơi động vật, sự tạo thành các tế bào mỡ. Sự nghiên cứu còn quan tâm đến những biến đổi của chính cấu trúc của mô mỡ : thật vậy, viêm và xơ hóa của mô này có thể giải thích một sự đề kháng nào đó đối với sự mất cân. Sau cùng, tất cả chúng ta có, với số lượng vô cùng nhỏ, mô mỡ được gọi là “ nâu ”, ngược lại với mô mỡ “ trắng ” (mô mỡ dùng để tích trữ năng lượng), góp phần vào sự tiêu hao năng lượng của chúng ta : thế mà loại mô mỡ này rõ rệt ít hoạt động hơn nơi vài người béo phì.

Như thế ta có thể tích tụ nhiều kilo vì nhiều lý do, thay đổi tùy theo người. Vì lẽ có nhiều dạng béo phì, nên việc điều trị phải đáp ứng với mỗi tình huống cá nhân. Các lời khuyên về các thói quen ăn uống và hoạt động vật lý là những điều không thay đổi, nhưng điều trị có thể đặc biệt hướng về những khía cạnh tâm lý, hành vi hay sinh học.

TÍN HIỆU NO NÊ.
Tuy nhiên còn phải dành thời giờ để điều tra tốt về những thói quen của mỗi người. Thí dụ, một số người béo phì không ăn khá đủ vào các bữa ăn, vì sợ béo phì thêm. Hậu quả, sự đói thúc họ gặm bất cứ cái gì một lúc sau đó. Vậy quy tắc là dạy lại cho họ ăn một cách đúng đắn và đủ lúc vào bàn. Để được như vậy, sự hỗ trợ của một thầy thuốc chuyên khoa ăn uống, tính đến các khẩu vị của mỗi người và dạy lại nấu ăn “ lành mạnh ” là điều qúy giá. Quy tắc thứ hai cần phải theo là ăn thong thả bởi vì trung tâm đói ghi số lượng các lần nuốt mỗi bữa ăn : thế mà khi ta ăn nhanh tốc độ, trung tâm này không khởi động tín hiệu no nê (signal de satiété), vì vậy ta có cảm tưởng là luôn luôn đói … Trái lại, những khả năng về thuốc men lại hạn chế hơn (thuốc duy nhất được đề nghị là orlistat, để hạn chế sự hấp thụ mỡ).

“ Tuy nhiên, có một sự nghiên cứu rất tích cực, nhất là về các chất có khả năng tác động lên cảm giác no nê, lên các yếu tố làm biến đổi khuẩn chí ruột và lên mô mỡ nâu, để làm gia tăng sự tiêu hao năng lượng. Vậy, lần này, các thuốc mới đặc hiệu chống bệnh béo phì sẽ xuất hiện trên thị trường từ nay đến 5-10 năm nữa ”, GS Basdevant đã xác nhận như vậy.


(LE FIGARO 27/9/2010)
Đọc thêm :
http://www.nhipcauykhoa.net/diendan/index.php?showtopic=18280&st=0&p=53018&#entry53018 (Thông Tin Y Học bệnh béo phì).
2/ TRẺ EM : NHỮNG ĐÊM NGỦ QUÁ NGẮN VÀ BÉO PHÌ.

Nhiều công trình nghiên cứu đã gợi ý một mối liên hệ giữa sự thiếu ngủ và nguy cơ bị béo phì nơi trẻ em. Một công trình nghiên cứu được tiến hành bởi hai thầy thuốc nhi khoa, các BS Janice Bell (đại học Washington) và Frederic Zimmerman (đại học Californie), xác nhận điều đó : 1930 trẻ em, tuổi từ O đến 13 tuổi, đã được theo dõi trong 5 năm, từ 1997 đến 2002 và được chia thành hai nhóm : nhóm của các trẻ nhỏ từ 0 đến 4 tuổi và nhóm của những trẻ trước thời kỳ thiếu niên (préadolescents) từ 5 đến 13 tuổi. Chỉ số khối lượng cơ thể (indice de masse corporelle) (tùy theo tuổi) đã được dùng làm tiêu chuẩn đánh giá. Cuối công trình nghiên cứu, 33% những trẻ nhỏ và 36% những trẻ lớn hơn có một sự thặng dư trọng lượng hay trở nên béo phì. Hai nguy cơ này tỏ ra quan trọng nơi những trẻ nhỏ ngủ ít nhất vào ban đêm, so với những trẻ có một giấc ngủ bình thường. Nơi những trẻ trước tuổi thiếu niên, các đêm ngủ quá ngắn đã không có vẻ như là một yếu tố béo phì về sau, nhưng là một yếu tố lên ký trong năm. Theo các tác giả, giấc ngủ ban đêm, nếu được đầy đủ, qua trung gian vùng dưới đồi, điều hòa những cơ chế sinh học, như sự cần bằng của các hormone phụ trách cảm giác đói (ghréline) và sự no nê (leptine).


(PARIS MATCH 23/9-29/9/2010)

3/ BỆNH BÉO PHÌ : PHẪU THUẬT LÀM GIẢM NGUY CƠ UNG THƯ.

Những can thiệp ngoại khoa dành cho những bệnh nhân mà sự thặng dư thể trọng đe dọa trầm trọng sự sống còn lâu dài.

SANTE. Ngoại khoa là điều trị duy nhất có hiệu quả chống lại vài chứng béo phì nghiêm trọng (obesité massive), hôm qua GS Jean-Marc Chevallier, thuộc khoa ngoại tổng quát và tiêu hóa thuộc bệnh viện Pompidou (Paris) nhân một bài thuyết trình tại Hàn lâm viện y khoa, đã giải thích như vậy. Ngoài việc làm mất cân, chiến lược này “ tham gia vào việc ngăn ngừa ung thư và làm giảm tỷ lệ mắc phải bệnh đái đường nơi những người béo phì ”, ông đã xác nhận như vậy. Ngoại khoa cũng cải thiện tỷ lệ sống sót lâu dài của những người béo phì, bằng cách làm giảm các tử vong do nhồi máu cơ tim.

Tuy nhiên, các can thiệp ngoại khoa, nhờ đến nhiều kỹ thuật, chỉ dành cho các bệnh nhân bị một chứng béo phì bệnh hoạn (obésité morbide), với một chỉ số khối lượng cơ thể (indice de masse corporelle) trên 40. Thậm chí trên 35 trong trường hợp có những biến chứng liên kết (bệnh đái đường, cao huyết áp...). Nhóm những bệnh nhân này chiếm hơn 600.000 người ở Pháp, theo điều tra toàn quốc Obépi mới đây. Trên thực tế, mỗi năm, 23.000 trong số những người này được giải phẫu.

Một nửa được đặt một vòng dạ dày (anneau gastrique), làm giảm thể tích của dạ dày và làm chậm lại sự đi qua của thức ăn. Can thiệp có thể ít xâm nhập, vì thiết bị được đặt theo đường nội soi (par voie coelioscopie) (đường xẻ khoảng 1cm). Với phương pháp có thể đảo ngược này, “ 80% các bệnh nhân đã mất hơn 50% trọng lượng thặng dư của họ trong hai năm, 20% trường hợp thất bại luôn luôn là do hai nguyên nhân : không tôn trọng những gò bó tiết thực và không theo dõi ”, GS Chevallier đã đánh giá như vậy.

Phẫu thuật khác, cổ điển nhất, nhằm tạo một đường vòng dạ dày (court-circuit gastrique) : các thức ăn trực tiếp vào ruột non, điều này làm giảm sự hấp thụ của chúng. Mới đây hơn, thủ thuật cắt bỏ dạ dày bao tay (gastrectomie en manchon) nhằm cài khuy móc (agrafer) dạ dày trên suốt chiều dài để làm giảm thể tích của nó. “ Mặc dầu khó hơn về kỹ thuật, kỹ thuật này có thể liên hệ đến nhiều bệnh nhân hơn trong tương lai, nhưng chúng tôi đã không có những kết quả lâu dài ”, thầy thuốc ngoại khoa nói tiếp như vậy.


(LE FIGARO 20/1/2010)
4/ SỐT RÉT : CÁC CON KHỈ ĐỘT LÀM LÂY NHIỄM CON NGƯỜI.

INFECTIOLOGIE. “ Coi chừng khỉ đột ! ”. Nhưng lần này, vì những lý do rất khác với những lý do được nêu lên bởi Georges Brassens trong bài hát nổi tiếng của ông ta. Thật vậy, cái con khỉ to lớn Phi Châu này, ngày nay đang bị đe dọa tiêu diệt, bị buộc tội là đã truyền bệnh cho chúng ta, cách nay đã rất lâu lắm rồi, tác nhân gây bệnh sốt rét, một tai ương chịu trách nhiệm mỗi năm một triệu người chết trên thế giới, chủ yếu là ở châu Phi.

Thủ phạm, nếu như ta có thể nói như vậy, vừa bị vạch mặt trong số mới nhất của Nature, bởi một nhóm các nhà nghiên cứu châu Phi, Mỹ, Pháp và Anh.Theo Eric Delaporte, thầy thuốc dịch tễ học thuộc Viên nghiên cứu nhằm phát triển và đồng tác giả của công trình nghiên cứu, “ Sự lây nhiễm đã xảy ra giữa –5000 đến – 400.000 năm, qua trung gian một con muỗi primatophile, lúc chích khỉ rồi chích qua người, đã truyền cho người ký sinh trùng Plasmodium falciparum, thể gây tử vong nhất, độc lực nhất và thường xảy ra nhất ” trong số năm loại được liệt kê nơi người.

Đó là một thông tin quan trọng. Thật vậy, năm qua, mãi cho đến khi người ta nhận thấy rằng các con khỉ lớn (bonobo, con tinh tinh (chimpanzé), khỉ đột) cũng có thể mang tác nhân gây bệnh sốt rét, các nhà khoa học vẫn hằng nghĩ rằng sự nhiễm ký sinh trùng sốt rét chỉ xảy ra duy nhất ở người mà thôi. Thế mà “ việc khám phá ổ chứa động vật này làm phức tạp sự việc, vì làm cho sự thanh toán ký sinh trùng lại còn khó khăn hơn ”, Eric Delaporte đã nhấn mạnh như vậy.


Để biết rõ hơn, các nhà nghiên cứu, dưới sự lãnh đạo của Beatrice Hahn, thuộc đại học Alabama (Birmingham, Hoa Kỳ) đã phân tích gần 3.000 mẫu nghiệm phân của các con khỉ sống hoang dã, được thu thập trên 57 vị trí xuyên khắp Trung Phi.
Séquençage de l’ADN.
Bài học đầu tiên từ công tác khổng lồ này, được phát động cách nay khoảng mười năm để xác định nguồn gốc của virus bệnh sida là, cả bonobo lẫn khỉ đột của Đông Phi không bị nhiễm bệnh sốt rét. Ngược lại, ký sinh trùng lan tràn rộng khắp, lên đến từ 32% đến 48%, nơi các con khỉ đột vùng Tây Phi (Cameroun, Gabon…) và các con linh tinh (chimpanzé).

Rồi, trong thì hai, các nhà khoa học, bằng một kỹ thuật độc đáo séquençage de l’ADN, đã chứng thực rằng, khác với các con tinh tinh (chimpanzé), “ các con khỉ đột (gorille) bị nhiễm bởi nhiều giống gốc P.falciparum, mà một là tổ tiên của giống gốc mà ta tìm thấy nơi người ”, nhà nghiên cứu của Institut de recherche pour le développement đã giải thích như vậy. Hậu quả : “ Chính các con khỉ đột đã làm lây nhiễm con người, nhưng không phải ngược lại. ”


Nhiều câu hỏi bây giờ được đặt ra. Các con khỉ đột có còn (qua trung gian của muỗi) là những ổ tiềm tàng gây nhiễm nơi người ? Ngoài ra, làm sao giải thích rằng P.falciparum gây bệnh cho người mà không gây bệnh cho cac con khỉ lành mang ký sinh trùng (porteurs sains) ? Việc hiệu chính một vaccin trong tương lai hay những điều trị mới nhiên hậu có thể tùy thuộc vào những câu trả lời này.

(LE FIGARO 26/9/2010)

5/ NHỮNG CHẤT BỔ SUNG THỨC ĂN CÓ GIÚP NGĂN NGỪA VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH THOÁI HÓA ĐIỂM VÀNG DO TUỔI TÁC (DMLA) ?
GS Catherine Creuzot-Garcher
Chef du service d’ophtalmologie CHU Dijon
et Laboratoire Œil et Nutrition Inra-Dijon.

Võng mạc, và đặc biệt là vùng trung tâm của nó, hoàng điểm (macula), không được tha miễn bởi những tác dụng có hại của sự lão hóa. Bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (DMLA : dégénérescence maculaire liée à l’âge) là một bệnh lý nhiều yếu tố, trong đó thuốc lá, bệnh béo phì, ánh nắng mặt trời, sự dinh dưỡng, tương tác với những yếu tố nguy cơ di truyền. Căn bệnh này, nguồn gốc của một phế tật thị giác nghiêm trọng, ảnh hưởng lên hơn 1 triệu người ở Pháp. Sau hết người ta biết rằng một bệnh nhân bị DMLA của con mắt bên này, sẽ có 50% nguy cơ thấy xuất hiện một dạng tiến triển của con mắt bên kia trong vong 5 năm tiếp theo sau đó. Tiên lượng khá u tối này đã biện minh cho nhiều công trình nghiên cứu, được thực hiện để hạn chế sự tiến triển của DMLA.

Mặc dầu nhiều nghiên cứu trước đây biện minh cho những thói quen thường dựa trên kinh nghiệm, nhưng ảnh hưởng của các chất bổ sung thức ăn (complément alimentaire) và nói chung của sự dinh dưỡng lên võng mạc, dựa trên những kết quả không hoàn toàn, thậm khí đôi khi mâu thuẫn nhau. Bước thực hiện thường gồm hai thì : những công trình nghiên cứu dịch tễ học quy mô lớn (études épidémiologiques à grande échelle) cho phép chung ta chọn lọc vài yếu tố dinh dưỡng nhằm làm kềm hãm sự xuất hiện của DMLA. Sau đó, những công trình nghiên cứu can thiệp (études d’intervention) (trong đó người ta kiểm soát chặt chẽ sự cung cấp các vi chất dinh dưỡng, micronutriments) sẽ cố gắng xác nhận giả thuyết này.
ƯU TIÊN RAU XANH.

Những công trình nghiên cứu lâm sàng, xác nhận lợi ích của các chất bổ sung thức ăn để ngăn ngừa những dấu hiệu của sự lão hóa, tương đối mới xuất hiện gần đây : tính hợp lý, biện minh cho việc sử dụng các chất bổ sung thức ăn để làm chậm lại tiến triển của DMLA, chủ yếu dựa trên công trình Areds 1 (Age Related Eye Diesease Study). Công trình nghiên cứu quy mô lớn, được tiến hành trong hơn 6 năm ở Hoa Kỳ, đã cho thấy rằng những chất bổ sung thức ăn, với chất cơ bản là vitamine C và E, bêta-carotène, kẽm và đồng, cho phép hạn chế những nguy cơ tiến triển thành DMLA nặng. Công trình nghiên cứu này, mặc dầu có cách nay hơn 10 năm, vẫn có nhiều khuyết điểm, nhất là những liều lượng được đề nghị rất là cao hơn những liều lượng được khuyến nghị ở Châu Âu, và việc sử dụng bêta-carotène, có tiềm năng nguy hiểm cho người hút thuốc.


Những công trình nghiên cứu khác đã gợi ý vai trò của các sắc tố điểm vàng (pigments maculaires) (lutéine và zéaxanthine), thay thế một cách có lợi bêta-carotène. Cũng vậy, một chế độ ăn uống giàu oméga-3 giới hạn sự tiến triển của DMLA, cũng như vitamine B nơi phụ nữ. Toàn bộ những giả thuyết này chẳng bao lâu nữa sẽ được đánh giá trong công trình Areds 2, mà các kết quả sẽ sẵn sàng từ nay đến vài năm nữa.

Những kết quả này đã cho phép xác định những khuyến nghị đối với những bệnh nhân, tùy theo nguy cơ bị DMLA của họ. Đối với những bệnh nhân đã bị DMLA một bên hay có những dấu hiệu tiến triển của sự lão hóa điểm vàng, người ta chủ trương làm chậm lại tiến triển của bệnh bằng sự tiêu thụ các chất bổ sung thức ăn. Tuy nhiên phải nhắc lại cho các bệnh nhân rằng việc cải thiện chế độ ăn uống mỗi ngày là dễ thực hiện và có lợi ích. Cần làm hiểu rõ thế nào là việc “ ăn tốt ” (bien manger) ! Ăn sardine (đóng hộp) hay cá mỡ hai lần mỗi tuần, trộn dầu colza vào salade, nhai vài quả hồ đào (cerneau de noix) trong tuần, ưu tiên dành cho rau xanh (chính ở đó chứa lutéine) là những sự việc dễ thực hiện đối với tất cả mọi người.

Sau hết, phải rất cảnh giác đối với sự tiêu thụ bừa bãi các chất bổ sung thức ăn, đặc biệt là các sản phẩm bán trên internet, bởi vì chúng không có một bảo đảm nào trong việc chế tạo.

Hiện nay chúng tôi cố gắng hạn chế tiến triển của bệnh một khi các dấu hiệu đầu tiên xuất hiện. Có lẽ từ nay đến vài năm nữa ta sẽ xác định còn tốt hơn “ profil ” của một bệnh nhân trước khi bệnh xuất hiện, nhằm xác định bệnh nhân nào sẽ được hưởng tốt nhất một sự phòng ngừa bằng các chất bổ sung thức ăn.


(LE FIGARO 27/9/2010)
Đọc thêm :
http://www.yduocngaynay.com/1-1NgVThinh_News_nr132.htm (TSYH số 132, bài số 8)
http://www.yduocngaynay.com/1-1NgVThinh_News_nr130.htm (TSYH số 130, bài số 10).
6/ KÍCH THÍCH ĐIỆN CÓ VẺ CÓ HIỆU QUẢ CHỐNG BỆNH ALZHEIMER.

Được áp dụng trong các trường hợp của bệnh Parkinson, sự kích thích điện vùng sâu não bộ (stimulation électrique cérébrale profonde) cũng cải thiện chuyển hóa não của những bệnh nhân bị bệnh Alzheimer. Andres Lozano, thuộc đại học Toronto, và các cộng sự đã cắm những điện cực vào trong não của 6 người vào những giai đoạn đầu của bệnh. Mục tiêu : kích thích một đám chất trắng ở giữa não bộ (le fornix), tạo thành đường dẫn truyền các thông tin về thùy hải mã (hippocampe), một cơ quan chủ chốt của trí nhớ. Nơi 6 bệnh nhân được thử nghiệm, chụp hình ảnh cho thấy sau một năm, não bộ sử dụng được tốt hơn như thế nào glucose, một nhiên liệu thiết yếu, do đó cải thiện hoạt tính chuyển hóa của nó. Nơi 3 trong số những bệnh nhân này, sự cải thiện này được liên kết với, hoặc là những năng lực trí nhớ (capacité mnésique) tốt hơn, hoặc một sự làm chậm lại sự suy đồi nhận thức toàn bộ (déclin cognitif global).


(SCIENCE ET VIE 10/2010)
7/ UNG THƯ VÚ : LIỆU PHÁP PHÓNG XẠ TRONG LÚC MỔ.
BS Magali Le Blanc-Onfroy, thầy thuốc chuyên về ung thư, trưởng khoa liệu pháp phóng xạ thuộc Centre René-Gauducheau de Nantes, giải thích kỹ thuật mới, cho phép tránh 6 tuần phóng xạ liệu pháp sau mổ.

Hỏi : Protocole thông thường của một điều trị phóng xạ liệu pháp (traitement de radiothérapie) đối với một ung thư vú là gì ?

BS Magali Le Blanc-Onfroy : Mục đích của điều trị này, được cho sau phẫu thuật, là hạn chế các nguy cơ tái phát tại chỗ. Những tia X hủy diệt các tế bào ác tính còn tồn đọng. Nói chung, protocole bao gồm 25 buổi phóng xạ nhằm toàn bộ vú ; rồi ở thì hai, 5 đến 8 buổi khác, trong đó, lần này, sự phóng xạ chỉ nhằm vào nơi mổ. Trong trường hợp bị di căn các hạch kế cận, thực hiện một phóng xạ hạch có thể tỏ ra hữu ích.

Hỏi : Những kết quả thu được với liệu pháp phóng xạ quy ước này là gì ?
BS Magali Le Blanc-Onfroy :
Điều trị này, làm giảm khoảng 75% các nguy cơ tái phát tại chỗ, có lợi ích to lớn là cho phép một ngoại khoa bảo tồn (chirurgie conservatrice). Nhưng phóng xạ liệu pháp cũng có những bất lợi của nó : sáu tuần các buổi điều trị phóng xạ liệu pháp, thật là là dài và gò bó đối với các bệnh nhân. Cũng phải nêu lên những tác dụng phụ tại chỗ trên da : các phản ứng viêm đôi khi đau đớn và sự xơ hóa da (fibrose cutanée). Trong vài trường hợp hiếm hoi, ta quan sát thấy những hậu quả ở phổi, với triệu chứng ho khan mãn tính.

Hỏi : Phương pháp mới với hệ thống Intrabeam là gì ?

BS Magali Le Blanc-Onfroy : Đó là một phóng xạ liệu pháp, lần này được cho ngay trong lúc mổ : sau khi cắt bỏ khối u và hạch lính canh (ganglion sentinelle), phẫu thuật viên đặt một applicateur hình cầu vào trong xoang mổ.

Sau đó một liều phóng xạ liệu pháp được phát ra qua một ông tia X (tube à rayons X), phát ra những photon có năng lượng thấp (50 kilovolt) trong 20 đến 50 phút. Sự phóng xạ trong khi mổ (irradiation peropératoire) này chính xác hơn phóng xạ liệu pháp quy ước bởi bị nó được thực hiện trước khi xảy ra sự điều biến vú (remodelage du sein). Sau buổi điều trị phóng xạ, thầy thuốc ngoại khoa đóng lại vết mổ như lúc thực hiện động tác một cách cổ điển.



Hỏi : Trong những trường hợp nào ta có thể sử dụng kỹ thuật phóng xạ mới này ?
BS Magali Le Blanc-Onfroy : Phóng xạ liệu pháp trong lúc mổ (radiothérapie peropératoire) này điều trị những khối u có kích thước nhỏ (dưới hoặc bằng 2 cm) và các kết quả sinh thiết không cho thấy tính hung dữ của ung thư cần phải sử dụng hóa học liệu pháp. Hiện nay, liệu pháp phóng xạ này chỉ được dành cho những phụ nữ tuổi 60 có ung thư vú lần đầu tiên.

Hỏi : Những điều tiếp theo sau có thể có của protocole mới này ?

BS Magali Le Blanc-Onfroy : Đối với những bệnh nhân được xác nhận có một khối u kích thước nhỏ và không có yếu tố quan trọng xâm nhập hay di căn hạch, điều trị dừng lại ở đó. Nhưng đối với những bệnh nhân mà phân tích cho thấy những tiêu chuẩn về tính hung dữ, khi đó ta đề nghị một điều trị bổ sung.
Hỏi : Những công trình nghiên cứu nào đã chứng minh những lợi ích của kỹ thuật phóng xạ liệu pháp trong lúc mổ này ?

BS Magali Le Blanc-Onfroy : Một công trình nghiên cứu quốc tế (étude Targit) bao gồm 2.232 bệnh nhân, đã được phát động vào năm 2000. Pháp, với Nantes, vừa đến lượt mình tham gia vào công trình này trong tháng này. Về tỷ lệ xảy ra các tái phát tại chỗ, các kết quả được công bố cho thấy một sự hiệu quả tương tự với hiệu quả của phóng xạ liệu pháp chuẩn. Nơi các bệnh nhân đã nhận một điều trị bổ sung, các kết quả lại đều giống nhau. Trên bình diện độ dung nạp (tolérance), những tác dụng phụ gần như giống nhau. Tuy nhiên, với phóng xạ liệu pháp trong khi mổ, thường cần thực hiện hơn những chọc dò bạch huyết trên vùng mổ, nhưng đó là một tác dụng tạm thời. Bù lại, kỹ thuật mới này ít gây nên những vấn đề ở da hơn.
Hỏi : Nói tóm lại, những lợi ích của phóng xạ liệu pháp Intrabeam là gì

BS Magali Le Blanc-Onfroy : 1. Một sự phóng xạ chính xác hơn và tức thời trên vùng mổ. 2. Thời gian điều trị được giảm bớt. 3. Ít những biến chứng ngoài da. 4. Một sự bảo vệ phổi và tim tốt hơn khi sự phóng xạ ở phía trái. 5.Trong trường hợp cần thiết, không có sự chậm trễ của điều trị bổ trợ (traitement adjuvant).

(PARIS MATCH 23/9-29/9/2010)
Đọc thêm : TSYH số 185, bài số 7
8/ TRỜI CÀNG LẠNH...NGUY CƠ NHỒI MÁU CÀNG GIA TĂNG.

Cứ mỗi nhiệt độ mất đi, nguy cơ bị nhồi máu cơ tim gia tăng 2%, theo London School of Hygiene and Tropical Medicine. Sổ ghi quốc gia những trường hợp nhập viện vì nhồi máu cơ tim (80.000 bệnh nhân được nhập viện giữa năm 2003 và 2006) đã được so sánh với những bảng thông báo khí tượng. Việc giảm một độ trong một ngày làm tăng thêm 200 trường hợp nhập viện trong 28 ngày tiếp theo. Nếu một nhiệt độ lạnh hơn vẫn duy trì, số các trường hợp nhồi máu lại còn cao hơn. Những người bị một bệnh tim mạch hay trên 75 tuổi đứng hàng đầu, “ có lẽ bởi vì những người này nhạy cảm hơn với những thay đổi sinh lý gây nên bởi lạnh (tăng cao huyết áp, đông máu) ”, Krishnan Bhaskaran, đồng tác giả của công trình nghiên cứu đã giải thích như vậy.


(SCIENCE ET VIE 10/2010)
9/ THUỐC LÁ ẢNH HƯỞNG LÊN KHẢ NĂNG SINH SẢN NHƯ THẾ NÀO ?

Với một cái nhìn mới, hai công trình nghiên cứu mới làm sáng tỏ bằng cách nào thuốc lá có thể làm hại khả năng sinh sản.

Trong công trình nghiên cứu thứ nhất, các nhà nghiên cứu Đan Mạch đã có thể chứng thực một tác dụng rõ rệt của chứng nhiễm độc thuốc lá của người mẹ (tabagisme maternel) lên thai nhi đang phát triển. Thật vậy các tác giả đã đếm được một số lượng giảm rõ rệt của những tế bào mầm và thân thể (cellules germinales et somatiques) trong những tuyến sinh dục của phôi thai khi bà mẹ hút thuốc. Có khả năng rằng tác dụng âm tính này làm phương hại đến khả năng sinh sản tương lai của đứa bé.
Những tế bào mầm (cellules germinales) sinh ra các noãn bào (ovocyte) nơi con gái và các tinh trùng nơi con trai, trong khi các tế bào thân thể (cellules somatiques) là nguồn gốc của tất cả các mô khác. Thí dụ trong tinh hoàn, chúng cải thiện sự phát triển của các tinh trùng chức năng (spermatozoides fonctionnels) phát xuất từ các tế bào mầm. Khi số lượng các tế bào thân thể bị giảm, có nguy cơ sản xuất lượng tinh trùng ít hơn, điều này lại có thể có hại cho khả năng sinh sản.

Laus Yding Andersen và các đồng nghiep (University Hospital Cipenhague) đã xem xét các tinh hoàn của 24 phôi thai sau sẩy thai, 35 đến 68 ngày sau thụ thai. Họ cũng đã phân tích những xét nghiệm máu từ người mẹ, rồi sau đó họ đã hỏi những người mẹ này về lối sống trong lúc mang thai, và đặc biệt là đối với thuốc lá và rượu.


Andersen đã có thể xác lập rằng, các tinh hoàn được lấy ra đã không chứa một nửa số tế bào mầm theo dự kiến khi người mẹ đã hút thuốc trong lúc có thai, so sánh với một bà mẹ không hút thuốc. Số lượng những tế bào thân thể trong các tinh hoàn cũng ba lần ít cao hơn so với số lượng của những bà mẹ không hút thuốc. Hậu quả tùy thuộc liều lượng : số lượng các tế bào mầm và thân thể thấp nhất nơi những bà mẹ đã hút thuốc nhiều. Các kết quả vẫn được duy trì sau khi thực hiện sự điều chỉnh đối với cà phê và rượu.

Theo các tác giả, điều chứng thực này có thể giải thích tốt hơn tại sao nhiều cặp vợ chồng trẻ hiện này không thể có con. Tuy nhiên họ công nhận rằng, công trình nghiên cứu của họ không cho phép nói một cách rõ ràng liệu sự giảm số lượng các tế bào mầm và thân thể là một vấn đề vĩnh viễn hay sự giảm này chỉ là phản ảnh của một sự chậm tăng trưởng có thể bù lại sau này. Dầu sao các tác giả dự kiến rằng những tác dụng âm tính còn rõ rệt hơn nếu bà mẹ tiếp tục hút thuốc cho đến cuối thời kỳ thai nghén. “ Vì lẽ chúng tôi đã chỉ khảo sat các bộ sinh dục (gonade) phôi thai được lấy từ tam cá nguyệt thứ nhất của thai nghén, nên chúng tôi chỉ có thể ước tính điều sẽ xảy ra về sau.” Những công trình nghiên cứu khác sẽ đi sâu vấn đề này.

TỶ LỆ PROTAMINE BỊ XÁO TRỘN.
Trong công trình nghiên cứu thứ hai, các nhà nghiên cứu người Đức đã khảo sát vài protéine đặc hiệu, đặc biệt là protamine, hiện diện trong tinh dịch.

Mohamed Hammadesh và các đồng nghiệp (Homburg Saar, Đức ) đã đo nồng độ hai protamine, P1 và P2, trong tinh dịch của 53 người hút thuốc nặng (hơn 20 điếu mỗi ngày) và 63 người không hút thuốc. P1 và P2 là hai protéine cần thiết cho sự cô đặc tốt của nhiễm sắc chất (chromatine). Hiện tượng này xảy ra trong thời kỳ gián phân tế bào (mitose) : các nhánh nhiễm sắc chất cô đặc lại để tạo thành một nhiễm sắc thể. Nếu sự cô đặc này không xảy ra một cách bình thường, điều đó có thể có những hậu quả âm tính lên tinh dịch và gây nên những vấn đề về khả năng sinh sản.


Hammadesh đã chứng thực rằng những nồng độ của P2 14% thấp hơn trong tinh dịch của những người hút thuốc nặng, so với những nồng độ hiện diện nơi những người không hút thuốc. Tỷ suất P1/P2 cũng bất quân bình nơi những người hút thuốc nặng. Theo tác giả của công trình nghiên cứu, bất thường này có thể có một tác dụng âm tính lên sự cô đặc của nhiễm sắc chất trong tinh dịch và có lẽ lên chất lượng của nó. “ Xét vì những tác dụng có tiềm năng âm tính của thuốc lá lên khả năng sinh đẻ, các thầy thuốc cần phải khuyên những người đàn ông bị những vấn đề về sinh sản hãy dừng hút thuốc, ông đã kết luận như vậy.

Hai công trình nghiên cứu này được công bố trên internet của Human Reproduction, số ngày 8/9.


(LE JOURNAL DU MEDECIN 1/9/2010)

10/ NHỮNG BƯỚC DÀI CHO CÁC BỆNH NHÂN PARKINSON.

Một công trình nghiên cứu được trình bày ở Buenos Aires (Argentine) vào lúc Hội nghị quốc tế lần thứ 14 về bệnh Parkinson mang lại một niềm hy vọng tự trị cho các bệnh nhân bị chứng bệnh này. Thật vậy, nhờ một một sự phục hồi chức năng, “ Training Big ”, người ta có thể cải thiện một cách đáng kể những rối loạn bước, là một trong những phế tật chủ yếu cua những bệnh nhân này.


Dựa theo những kỹ thuật nhằm phục hồi các rối loạn phát âm nhờ những bài tập phát tiếng, phương pháp này nhằm làm bệnh nhân thực hiện những cử động của toàn thân, có biên độ lớn và có mức độ phức tạp tăng dần, đi cặp với bước đi dài. Sau một tháng điều trị với nhịp độ một buổi 1 giờ, 4 lần mỗi tuần, người ta chứng thực một sự cải thiện lâm sàng đáng kể so sánh với những kết quả thu được nơi những bệnh nhân Parkinson chỉ thực hiện những bài tập bước động lực (marche dynamique, Nordic Walking).
(SCIENCES ET AVENIR 9/2010)

BS NGUYỄN VĂN THỊNH
(4/10/2010)


Каталог: groups -> 19510868
groups -> Viettudan an ban/ Edition: unicode fonts Dau tranh cho Tu-do Ca-nhan & Nguyen-tac Dan-chu Xa-hoi tai Viet-Nam
groups -> Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do
groups -> PHẦn chuyển tiếp kính thưa quý vị và các bạn trẻ, giữa những ngưới Việt chúng ta, tôi nói
groups -> Ý Nga sưu tầm và cập nhật hóa ngày 21-4-2013, với nhạc của nhạc sĩ: TừYên, Hà Thúc Sinh vừa thêm vào
groups -> BÁo cáo môn: RÈn luyện nghiệp vụ SƯ phạM 3
groups -> Phản Bội hay Tự Do cho Việt Nam ?
groups -> Tin khoa hoc december 31, 2010 Những vụ phóng vệ tinh thất bại trong 2010 Trong năm 2010, một số quốc gia đã vấp phải các sự cố trong việc phóng vệ tinh vào không gian
groups -> Một Thời Bạn Học Revised 8/4/10 việt nam

tải về 74.16 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương