The Buddha and His Teachings



tải về 2.67 Mb.
trang53/53
Chuyển đổi dữ liệu25.07.2016
Kích2.67 Mb.
#5088
1   ...   45   46   47   48   49   50   51   52   53

Không xét đoán người qua sự sanh trưởng mà qua hành vi, bậc Thánh Nhân gọi ba mươi bốn loại người ấy là hạng người cùng đinh.


476 . Đức Phật nói lên câu này nhằm đánh tan quan kiến sai lầm mà vị Bà La Môn khư khư cố chấp.

477 . Theo Bản Chú Giải, "Vasala", cùng đinh, là người bị những đám mưa (vassanto) làm cho hành động bị ô nhiễm, và Bà La Môn là người quét sạch, đánh tan (bahento) mọi ô nhiễm bằng những hành động trong sạch. Trong bản dịch này danh từ "Brahmana" ám chỉ các bậc A La Hán, danh từ "brahmin" thì chỉ những người trong giai cấp Bà La Môn.


478 . Comp: "Sự sanh trưởng không làm cho con người thuộc về giai cấp Bà La Môn, cũng không làm cho con người không phải ở trong giai cấp Bà La Môn.

"Chính đời sống và hành vi uốn nắn, làm cho con người trở nên thật sự là Bà La Môn.

Cuộc sống uốn nắn làm cho con người trở nên nông dân, thương gia, nô bộc ;

Cuộc sống uốn nắn làm cho con người trở nên kẻ trộm cắp, chiến sĩ, quan quyền."




479 . Đức Phật muốn nhắc đến một câu chuyện trong tiền kiếp xa xôi của Ngài, khi là con một người cùng đinh. Lúc bấy giờ Ngài tên Matanga, có một cuộc sống đức hạnh phi thường, làm cho mọi người đều khâm phục và sau đó tái sanh vào cảnh Trời Phạm Thiên. Xem Túc Sanh Truyện Matanga Jakata, số 497.


480 . Candala, cùng đinh, có nghĩa là giai cấp thấp hèn; Sopaka có nghĩa là người nấu thịt chó để ăn, ám chỉ một lối sống thấp kém; và Matanga là tên của con người cùng đinh ấy (Bản Chú Giải).

481 . Chiếc xe của thiên đình. Tức là Bát Chánh Đạo, có tác dụng đưa chúng sanh đến cảnh giới Phạm Thiên (Brahma realm).

482 . Con đường "xa lộ không dục vọng" là con đường mà các bậc vĩ nhân như Đức Phật v.v... đã đi trên đó.


483 . Sau khi cơ thể tan rã.

484 . Những vị hằng ngày dấn thân trong việc học kinh Phệ Đà (Veda).

485 . Bản Chú Giải mô tả trường hợp Đức Thế Tôn giảng bài Kinh này như sau:

Vào một lúc nọ dân chúng trong thị trấn Vesali trù phú cùng một lúc gặp phải ba thiên tai - nạn chết đói, nạn bị ma quái phá rầy và nạn dịch hạch. Trước tiên, vì mùa màng thất thoát, những người nghèo không đủ ăn, phải chết đói. Xác chết nằm la liệt, mùi hôi thúi thu hút cảnh âm bất thiện, và sau cùng bệnh dịch hạch truyền nhiễm tai hại.

Trước những tai trời ách nước vô cùng nguy hiểm này, trong lúc dân chúng đang xôn xao bấn loạn thì bỗng nhiên họ nảy sanh ý nghĩ cung thỉnh Đức Phật, lúc ấy đang lưu ngụ tại thành Rajagaha (Vương Xá) gần đó.

Hai vị quý tộc dòng Licchavi hướng dẫn một phái đoàn hùng hậu liền lên đường sang Rajagaha hầu Phật và thuật lại tình trạng đau thương vô cùng tuyệt vọng của họ. Đức Thế Tôn chấp nhận lời thỉnh cầu và cùng Đức Ananda và đông đảo chư Tăng rời Rajagaha sang sông Ganges, đến Vesali.

Khi Đức Phật vừa đến thành Vesali một trận mưa tầm tã ào xuống, quét sạch thành phố và thanh lọc ô nhiễm trong không khí. Khi ấy Đức Phật giảng bài Ratana Sutta (Tam Bảo Kinh) cho Ngài Ananda, rồi dạy Ngài cùng với chư Tăng và đông đảo dân chúng vừa đi khắp thị trấn vừa đọc tụng Kinh này. Ngài Ananda ôm theo bình bát của chính Đức Phật, đựng nước trong đó, và rải nước có đọc kinh cùng khắp. Bản Chú Giải ghi rằng khi chư Tăng vừa đọc những chữ "yam kinci", thì các chúng sanh bất thiện trong cõi âm hoảng sợ rút lui. Bệnh dịch hạch cũng dần dần tan biến. Sau khi chư Tăng đọc kinh để bảo vệ dân chúng trong thành phố xong thì trở về Hội Trường, có Đức Phật chờ nơi đó.

Nhân cơ hội, Đức Phật giảng giải bài Ratana Sutta (Tam Bảo Kinh) cho toàn thể đám đông.




486 . Bản Chú Giải ghi rằng người ta vẽ hình chư Thiên, hoặc đục khắc trên gỗ, rồi làm những bàn thờ nhỏ treo trên cây và hằng ngày đem lễ vật đến cúng.

487 . Danh từ Ratana có nghĩa là trân châu bảo ngọc quý giá. Nơi đây danh từ Ratana, bảo vật, hàm ý là Tam Bảo: Đức Phật, Giáo Pháp và Tăng Già. Theo đúng ngữ nguyên, danh từ "ratana" gồm ba âm - ra, ta và na. "Ra" là thu hút, "ta" là vượt xuyên qua và "na" là dẫn đến. Phật, Pháp, Tăng gọi chung là Ratana, châu báu, bởi vì Tam Bảo có đức hạnh thu hút tâm của bậc thiện trí; là phương tiện đưa chúng sanh vượt qua đại dương của vòng luân hồi (Samsara); và dẫn đến các cảnh Trời và Niết Bàn cho những ai tìm nương tựa nơi Tam bảo.


488 . Danh từ cảnh Trời ở đây bao gồm luôn cả những cảnh Phạm Thiên (Brahma) từ thấp nhất đến cao nhất - Akanittha (Bản Chú Giải).


489 . Gọi như vậy vì Ngài đã hoàn toàn tận diệt mọi ái dục (Bản Chú Giải).

490 . Magga (Đạo) được gọi là Anantarika Samadhi, tâm định liên tục, không gián đoạn, bởi vì Phala (Quả) theo sau tức khắc không có thời gian gián đoạn.

491 . Tám vị Thánh Nhân ấy là: (i) Vị đã chứng đắc Sotapatti, Tu Đà Huờn Đạo, và (ii) Tu Đà Huờn Quả; (iii) vị đã chứng đắc Sakadagami, Tư Đà Hàm Đạo, và (iv) Tư Đà Hàm Quả; (v) vị đã chứng đắc Anagami, A Na Hàm Đạo, và (vi) A Ha Hàm Quả, (vii) vị đã chứng đắc Arahant, A La Hán Đạo, và (viii) A La Hán Quả.

Như vậy tính từng cá nhân thì có tám vị, tính cặp thì có bốn đôi.




492 . Tức A La Hán Quả.

493 . Indakhila-Inda, có nghĩa Sakka, Vua Trời Đế Thích. Danh từ Indakhila có nghĩa là trụ cột đã được vững chắc chôn sâu trong lòng đất, vừa cao vừa vững như trụ cột của Vua Trời Sakka.

Bản Chú Giải ghi rằng những Indakhila (trụ cột) này được trồng bên trong thành phố để làm đẹp, hoặc bên ngoài như một dấu hiệu bảo vệ. Thông thường những trụ cột này, hình bát giác, được xây lên bằng gạch hoặc bằng gỗ tốt. Phân nửa cây trụ được chôn sâu dưới đất - do đó có thành ngữ: vững chắc như trụ cột Indakhila.




494 . Người đã thành đạt tầng Thánh đầu tiên (Sotapatti, Tu Đà Huờn) chỉ còn tái sanh nhiều lắm là bảy lần.

495 . Tức lần đầu tiên nhoáng thấy Niết Bàn.

496 . Trong mười Samyojana, thằng thúc (kiết sử), tức mười dây trói buộc cột chặt chúng sanh vào vòng luân hồi, ba thằng thúc đầu được loại trừ.

497 . Thân Kiến, Sakkayaditthi - sự tin tưởng cho rằng thân này hiện hữu, tức quan niệm có một linh hồn hay tự ngã thường còn. Đây là một trong ba "Mannana", hay ý niệm, phát sanh liên quan đến thân. Hai ý niệm kia là Tanha (ái dục) và Mana (ngã mạn) -- Bản Chú Giải. Buddhist Psychology, trang 257.

498 . Lòng hoài nghi (i) Buddha, Đức Phật; (ii) Dhamma, Giáo Pháp; (iii) Sangha, Tăng Già; (iv) Giới Luật; (v) quá khứ,;(vi) vị lai; (vii) quá khứ và vị lại; (viii) Paticca Samuppada, Định Luật Phát Sanh Tùy Thuộc. Xem Buddhist Psychology, trang 260.

499 . Bốn khổ cảnh là: địa ngục (niraya), cảnh thú, cảnh ngạ quỷ (Peta) và A-tu-la (Asura).

500 . Abhithanani, sáu trọng nghiệp bất thiện là: (i) giết mẹ, (ii) giết cha, (iii) giết một vị A La Hán, (iv) làm chảy máu Đức Phật (v) chia rẽ Tăng Già và (vi) khư khư chấp thủ tà kiến (Niyata Miccha Ditthi).


501 . Vanappagumbe. Bản Chú Giải giải thích rằng danh từ này do hai thành phần họp lại, Vane pagumbo, chồi cây trong rừng. Nơi đây định sở cách (locative) được dùng trong ý nghĩa của chỉ chủ cách (nominative).


502 . Đây cũng vậy, định sở cách được dùng trong ý nghĩa chỉ chủ cách.


503 . Cũng như vào lúc đầu mùa Hạ cây cối đâm ở mọng xinh tươi sáng sủa, Giáo Pháp (Dhamma) với nhiều lời dạy quý báu, được Đức Phật ban truyền rộng rãi, cũng tươi sáng vinh quang cùng thế ấy.

504 . Một vị A La Hán không còn tái sanh vì đã tạo nghiệp trong quá khứ. Những hành động của các Ngài được gọi là Kiriya (hành) không tạo nghiệp vì đã không còn mảy may ô nhiễm tham ái.


505 . Chỉ ngọn đèn được thắp lên để cúng dường chư Thiên trong thành phố, ngay lúc ấy vừa tắt.

506 . Khi Đức Bổn Sư chấm dứt thời Pháp thoại và ban rải những tư tưởng an lành hạnh phúc đến dân chúng thành Vesali, Vua Trời Sakka (Đế Thích) đọc tụng ba câu kệ cuối cùng và bái từ Đức Phật, cùng với đoàn tùy tùng ra về.

Bản Chú Giải ghi rằng Đức Thế Tôn thuyết giảng bài Kinh này liên tiếp bảy ngày tại Vesali


 


507 . Vào lúc ấy mùa mưa sắp đến, sau khi được Đức Phật ban dạy những đề mục hành thiền, một nhóm tỳ khưu ra đi, tìm nơi thích hợp để thực hành. Trong cuộc đi bất định ấy các Ngài đến một địa điểm vắng vẻ yên tĩnh và quyết định ở lại đó hành thiền nhằm mục tiêu giải thoát.

Các vị thọ thần sống trên cây cảm thấy bất tiện nên tìm cách làm cho chư tỳ khưu không còn ở được và phải ra đi. Đêm đêm các vị thọ thần làm đủ cách để phá khuấy không cho chư tăng ở yên hành thiền.

Chư vị tỳ khưu thấy khó mà an trụ tâm trong tình trạng như vậy nên trở về cbùa bạch lại tự sự với Đức Thế Tôn.

Đức Phật dạy chư Tăng bài Kinh Metta Sutta (kinh về tâm Từ) và khuyên các vị này trở lại ngay địa điểm trước rồi cùng đọc lên bài Kinh này khi vào rừng. Chư Tăng làm theo lời dạy.

Những tư tưởng Từ ái an lành được ban rải ra, thấm nhuần bầu không khí trong toàn khu rừng. Các vị thọ thần ở khắp nơi trong rừng nghe Kinh cảm thấy thanh bình an lạc, phát tâm kỉnh mộ chư Tăng, và kể từ đó thay vì khuấy nhiễu làm trở ngại, tận tình hộ trì và nâng đỡ chư Tăng.

Trong thời đại ba tháng an cư kiết hạ, Vassana, tất cả chư vị tỳ khưu trong nhóm đều chứng đắc Đạo Quả A La Hán.

Bài Kinh Metta Sutta này vừa có tánh cách bảo hộ, vừa là một đề mục hành thiền. Phần đầu bài Kinh mô tả những phẩm hạnh mà người mong tìm tình trạng an lành cho mình cần nên trau giồi, và phần sau là phương pháp thực hành tâm Từ, được giải thích cặn kẽ.


508 . Tức Niết Bàn.

509 . Uju và Suju. Chữ Uju hàm ý đặc tánh chánh trực trong lời nói và hành động - tức thân khẩu chánh trực. Chữ Suju là tâm chánh trực (Bản Chú Giải).

510 . Đó là thực hành Tứ Vô Lượng Tâm (Brahma Vihara).

511 . Lầm lạc" ở đây có nghĩa Sakkayaditthi (thân kiến).

512 . Tức nhoáng thấy Niết Bàn lần đầu tiên.

513 . Khi đã chứng đắc tầng Anagami (A Na Hàm) thì tái sanh vào cảnh giới Suddhavasa (Cảnh Giới Trong Sạch) và không cần tái sanh vào cảnh người.


514 . a. (Sati = niệm) + (patthana = sự thiết lập, nền tảng, căn bản, đối tượng, hay đề mục hành thiền, chuyên chú gom tâm vào).

b. (Sati = niệm) + ( upatthana = sự phát sanh, chuyên chú gom tâm).

Satipatthana sutta là bài kinh đề cập đến những đề mục chánh yếu để chuyên chú gom tâm vào.


515 . Ekayana = con đường duy nhất, chỉ có một con đường v.v...

516 . Đau khổ. Bản văn ghi: Sầu muộn, than thở, đau đớn và bất mãn. Đau khổ bao gồm tất cả bốn sắc tố ấy.

517 . Người đệ tử. Bất luận ai - dầu là hàng xuất gia hay tại gia cư sĩ - có nguyện vọng thóat ra khỏi mọi khổ đau đều có thể thực hành các đề mục hành thiền nầy.

518 . Kaye kayanupassana, theo sát nghĩa từng chữ, là "niệm thân trong thân", tức hạn chế chú niệm của mình chỉ trong thân mà thôi. Không quán niệm thọ, niệm tâm hay niệm pháp. Các niệm xứ kia cũng phải được hiểu cùng một thế ấy.

519 . Tạm thời dứt bỏ tham ái và sầu muộn trong thời gian hành thiền. Một cách chính xác, hành giả tạm thời khắc phục tâm tham ái khi đắc thiền (Jhana) và hoàn toàn tận diệt khi đắc Quả A La Hán.


520 . Sầu khổ (domanassa), bao hàm ý nghĩa bất toại nguyện, thuộc tâm sân. Tham ái và sầu khổ là hai trong năm chướng ngại tinh thần (triền cái).

Nơi đây hai chướng ngại chánh nầy hàm xúc cả năm pháp Triền Cái (Nivarana).




521 . Vào rừng, hàm ý bất cứ nơi nào vắng vẽ yên tĩnh, ở nhà cũng được.


522 . Ngồi kiết già. Đây là thế ngồi lý tưởng để thực hành. Nếu thấy không thuận tiện, hành giả có thể ngồi lại cho thoải mái. Cũng có thể ngồi trên ghế.


523 . Tiến trình hơi thở, sabbakayapatisamveda. Nơi đây danh từ "kaya" có nghĩa là "toàn thân", tức trọn vẹn tiến trình. Hành giả thở vào, thở ra, nhận thức rõ ràng hơi thở từ lúc khởi đầu, đoạn giữa và đến lúc chấm dứt toàn thể tiến trình hơi thở.

524 . Thông thường, hành giả niệm thân trong thân.

525 . Bản chất khởi sanh. Vì có thân, có mũi, và có thức nên có hơi thở khởi sanh.

526 . Bản chất hoại diệt. Hơi thở hoại diệt (tức chấm dứt) khi thân, mũi và thức chấm dứt.

527 . Chỉ có một cơ thể. Hàm ý không có một chúng sanh, một cá nhân hay một người nam hay người nữ, không có linh hồn, không có "Tôi" hay "Của Tôi".

528 . Vị ấy sống độc lập. Anissito, độc lập, tức không có sự hỗ trợ của ái dục (tanha) và tà kiến (dittha).

529 . Vị ấy không bám níu vào bất luận gì trong thế gian. Khi gia công quán niệm hơi-thở-vào-thở-ra, đến một giai đoạn nào hành giả có thể tạm thời khắc phục năm chướng ngại tinh thần (năm pháp Triền Cái) và đắc Sơ Thiền (Jhana), trọn vẹn hoàn tất các chi thiền: tầm (vitakka), sát (vicara), phỉ (piti), lạc (sukha) và nhất điểm tâm (ekaggata).

Thiền, Jhana, theo đúng ngữ nguyên của danh từ Pali nầy, là quán niệm bám sát vào đề mục, hoặc có nghĩa là thiêu đốt các chướng ngại làm ngăn trở sự tiến bộ tinh thần. Đây không phải là trạng thái tâm mê sảng mà là tâm trạng trong sạch, một chứng nghiệm có tánh cách đạo đức.

Hành giả xuất Thiền và chú tâm quán niệm ba đặc tướng - vô thường (anicca), khổ (dukkha), vô ngã (anatta) - và thành đạt các Thành Quả. Kể từ đó hành giả hoàn toàn "giải thoát" (anissito) vì đã thoát ra khỏi mọi hình thức ái dục và tà kiến, và không còn bám níu vào bất luận gì trong thế gian, vì không còn những tư tưởng lầm lạc liên quan đến cái "Ta" và "Của Ta".

Đối tượng cùng tột của pháp niệm hơi thở, anapana sati, trước tiên là chứng đắc các tầng Thiền (Jhana) và từ đó, phát triển bốn Thánh Đạo và Thánh Quả. Đó là lý do tại sao bài kinh khởi đầu bằng đoạn " ...để chúng sanh tự thanh lọc, để diệt trừ đau khổ, để thành đạt trí tuệ và để chứng ngộ Niết Bàn."




530 . Hiểu biết mọi oai nghi của mình. Loài thú cũng hay biết mọi oai nghi của nó. Nơi đây, đối tượng được hàm xúc không phải chỉ là sự hay biết suông. Trong khi đi, hành giả hiểu biết chân chánh rằng, "chỉ có sự đi" một cách chính xác, không có "một người" hay một "cá nhân chủ thể" đang đi. Nói cách khác, chỉ có hành động, không có "người" hành động, có "việc làm" mà không có "người" làm việc đó. Khi hiểu biết tận tường như vậy, không thể có quan niệm lầm lạc về một linh hồn trường cửu.


531 . Quán tưởng tánh cách ô trược của thân. Hầu hết các vị tỳ khưu đều thực hành đề mục nầy, và đây là đề mục hành thiền được Ngài Ananda ưa thích nhất.

Đề mục nầy thích hợp với người có tâm tham ái vì chính đề mục nầy giúp hành giả dứt bỏ, không luyến ái cái được gọi là tấm thân đẹp đẽ nầy. Vài người có thể thích quán tưởng các khả năng tiềm tàng ngủ ngầm của con người hơn.




532 . Tứ Đại. Bốn nguyến tố chánh yếu cấu thành vật thể con người. Bốn nguyên tố ấy là: Pathavi, Apo, Tejo và Vaja, thường được gọi là Đất, Nước, Lửa, Gió. Không nên hiểu rằng đây là đất, nước, lửa và gió như ta thường hiểu.

Đất, Pathavi, là thành phần vật chất có đặc tánh nở ra, duỗi ra, là thể chất của sắc. Không có thành phần nầy, vật chất không thể chiếm không gian. Tánh chất cứng hay mềm - thuần túy tương đối - là hai thể khác nhau của nguyên tố nầy.

Nước, Apo, là nguyên tố có đặc tánh làm dính liền lại. Không giống như thành phần Đất mà ta có thể tiếp xúc bằng giác quan như sờ đụng, hửi mùi v.v... ta không thể tiếp xúc với thành phần nước bằng ngũ quan. Chính nguyên tố Nước (Apo) nầy làm cho các phần tử rời rạc của vật chất dính liền lại và cho ta một ý niệm về một cơ thể. Khi một cơ thể đặc - tức trong ấy thành phần Đất trội hơn - chảy ra, thành phần nước trở thành trội hơn trong thể lỏng. Hai nguyên tố Đất và Nước nầy tương quan với nhau mật thiết đến độ khi thành phần nầy chấm dứt, thành phần kia cũng tan biến.

Lửa, Tejo, là nguyên tố có đặc tánh nóng. Lạnh cũng là một hình thức nóng. Cả hai, lạnh và nóng, đều được bao gồm trong Tejo, bởi vì cả hai đều có năng lực bảo tồn và tiêu diệt sự sống. Không giống như ba nguyên tố kia, thành phần Lửa (Tejo) có khả năng làm cho vật chất tự tạo trở lại.

Luôn luôn dính liền với Tejo (Lửa) là Vajo (Gió), thành phần của vật chất có đặc tánh di động. Có cử động, hay di chuyển, là do nguyên tố nầy. Sự di động được xem là năng lực, hay động cơ, phát nhiệt. Di động và nhiệt, thành phần Gió và Lửa, trong phạm vi vật chất, cũng giống như Tâm và Nghiệp trong lãnh vực tinh thần đạo đức.

Bốn nguyên tố Đất, Nước, Lửa và Gió, luôn luôn đi chung với nhau trong vật chất, nhưng trong một loại vật chất, thành phần nầy có thể trội hơn thành phần kia. Thí dụ như trong đất thì thành phần Đất (Pathavi) trội hơn, trong nước thì thành phần Nước (Apo) trội hơn, v.v...




533 . Tâm vô thượng, anuttara =(an +uttara) là không có gì cao hơn nữa, cao hơn hết, không còn thua ai. Sanuttara là còn có thể trội hơn, hữu hạn. Các loại tâm thuộc Dục Giới và Vô Sắc Giới là anuttara, vô thượng, không thể trội hơn được nữa. Ở đây không đề cập đến các loại tâm siêu thế.


534 . Niệm Pháp (Dhammanupassana). Ở đây, chữ Dhamma không có nghĩa là Giáo Pháp, tức những lời dạy của Đức Phật. Nơi đây, danh từ nầy được dùng trong ý nghĩa tổng quát, bao gồm tất cả những gì tại thế và siêu thế. Riêng trong bài kinh nầy Dhamma - Pháp bao gồm: năm Pháp Triền Cái, bảy Giác Chi, năm Uẩn Thủ, sáu Nội và Ngoại Xứ, và Tứ Diệu Đế.



tải về 2.67 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   45   46   47   48   49   50   51   52   53




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương