THỰc trạng quản lý nhà NƯỚC ĐỐi với dnnn sau khi sắp xếP, ĐỔi mới trêN ĐỊa bàn tỉnh bắc giang


Thực trạng quản lý nhà nước đối với DN sau khi chuyển đổi



tải về 335.66 Kb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích335.66 Kb.
#1873
1   2   3   4

2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với DN sau khi chuyển đổi

.2.1. Về thể chế chính sách quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp

2.2.1.1. Những kết quả đạt được

Trước hết phải khẳng định, hệ thống cơ chế chính sách QLNN đối với doanh nghiệp trong thời gian qua đã được Chính phủ, Bộ Tài chính ban hành đồng bộ, liên tục sửa đổi, hoàn chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Vì vậy, đã góp phần ngày càng hoàn thiện hơn các cơ chế, chính sách tài chính, hạn chế rủi ro, thất thoát trong quản lý, đầu tư vốn tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước. Hệ thống cơ chế chính sách tài chính doanh nghiệp đã được hình thành và đang dần được hoàn thiện thống nhất với mọi thành phần kinh tế, góp phần tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp được điều chỉnh theo hướng giảm dần việc hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho các DNNN sang hỗ trợ gián tiếp cho tất cả mọi loại hình doanh nghiệp đảm bảo phù hợp với thông lệ và cam kết quốc tế. Qua đó góp phần thực hiện phân bổ lại nguồn lực trong từng nền kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Sự đổi mới hệ thống cơ chế, chính sách tài chính doanh nghiệp trong thời gian qua đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng giảm thiểu can thiệp hành chính của cơ quan QLNN gắp với nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Khuyến khích doanh nghiệp nâng cao chất lượng quản trị, năng lực cạnh tranh, công khai minh bạch thông tin thích ứng với điều kiện hội nhập. Với hệ thống cơ chế quản lý, giám sát vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp ngày càng được hoàn thiện đã tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện tách chức năng QLNN với chức năng điều hành sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đổi mới phương thức quản lý vốn nhà nước từ quản lý hành chính sang quan hệ đầu tư, kinh doanh vốn, xác định rõ mối quan hệ giữa chủ sở hữu vốn, người quản lý điều hành doanh nghiệp, tăng cường tính tự chủ cho doanh nghiệp có vốn nhà nước. Vì vậy, bước đầu đã xác lập rõ được quyền và nghĩa vụ của người đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó tạo sự phân công, phân cấp giữa các cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố, Hội đồng thành viên. Thay đổi phương thức quản lý, giám sát từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, gắn với việc phân loại đánh giá doanh nghiệp.

Công tác quản lý giám sát tài chính doanh nghiệp đã được triển khai thông qua các hoạt động kiểm toán, báo cáo tài chính, phân tích đánh giá xếp loại doanh nghiệp, thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện cơ chế, chính sách tài chính doanh nghiệp, công bố công khai thông tin về kết quả kinh doanh và tình hình tài chính doanh nghiệp. Thông qua giám sát phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đưa ra kiến nghị và cảnh báo về rủi ro trong hoạt động của các doanh nghiệp để chủ sở hữu có giải pháp khắc phục.



2.2.1.2. Tồn tại, hạn chế

Qua nghiên cứu, có thể thấy khung pháp luật điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp còn một số hạn chế sau đây:

- Các vấn đề phát sinh trong việc tổ chức, hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến việc thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp còn chịu sự điều chỉnh của các văn bản dưới luật. 

- Pháp luật về DNNN không còn duy trì được tính đồng bộ và tính hệ thống. Kể từ ngày 01/7/2010, các công ty nhà nước hoạt động theo Luật DNNN năm 2003 đã phải chuyển đổi sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp năm 2005. Như vậy, một quy định trong các văn bản pháp luật nêu trên đã không còn được áp dụng nữa vì không còn đối tượng điều chỉnh là công ty nhà nước. 

- Những quy định điều chỉnh việc thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp còn sơ sài, chưa đầy đủ, nhất là đối với các công ty TNHH1TV do nhà nước làm chủ sở hữu. Chính vì vậy, nhiều vấn đề phát sinh trong hoạt động của các doanh nghiệp này chưa có pháp luật để điều chỉnh. 

- Nội dung của một số quy định còn chưa hợp lý. Chẳng hạn, Nghị định 07/1999/NĐ-CP ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở DNNN và công khai tài chính ở DNNN và Nghị định 87/2007/NĐ-CP về Quy chế thực hiện dân chủ ở công ty cổ phần, công ty TNHH đều giới hạn việc công khai tài chính (kết quả kiểm toán và báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp) cho các đối tượng trong nội bộ doanh nghiệp. Như vậy, các bên có liên quan ở bên ngoài doanh nghiệp không thể tiếp cận các thông tin này để thực hiện quyền giám sát của mình. Rõ ràng đây là một quy định bất hợp lý, cần phải được khắc phục.



2.2. Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp

2.2.1. Những kết quả đạt được

+ Luật thuế TNDN số 14/2008/QH12 có hiệu lực từ ngày 01/01/2009 đã giảm thuế suất phổ thông từ 28% xuống 25%.Việc giảm thuế suất thuế TNDN góp phần giúp doanh nghiệp giảm nghĩa vụ nộp thuế, tăng tích lũy cho tái đầu tư mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh.

+ Thực hiện ưu đãi thuế thống nhất, không phân biệt các loại hình doanh nghiệp; giảm và thu hẹp các ưu đãi có sự phân biệt đối xử (ưu đãi CPH DNNN).

+ Khuyến khích đổi mới công nghệ thông qua quy định cho trích lập quỹ phát triển công nghệ trước thuế TNDN.

+ Trong quá trình thực hiện , Bộ Tài chính đã kịp thời xem xét, nghiên cứu sửa đổi bổ sung Thông tư số 18/2011/TT- BTC ngày 10/2/2011. Thông tư này đã xử lý được nhiều vướng mắc, bất cập của doanh nghiệp có tác dụng tăng tính khả thi, phù hợp với tình hình thực tiễn của người nộp thuế.

2.2.2. Tồn tại, hạn chế

Bên cạnh những ưu điểm, Luật thuế TNDN hiện hành vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế sau:

+ Về thuế suất: Thuế suất thuế TNDN 25% hiện đang ở mức trung bình so với các nước trong khu vực (bằng Trung quốc) nhưng còn cao hơn một số quốc gia, vùng lãnh thổ như Hồng kông, Singapore....nên chưa thực sự tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tích tụ vốn tái đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Xác định mức thuế suất chính là xác định mức độ điều tiết về thuế của Nhà nước đối với thu nhập của doanh nghiệp. Mức thuế suất cao sẽ tăng điều tiết tập trung cho NSNN, nhưng việc giảm thuế suất thuế TNDN sẽ có tác động tăng động viên cho NSNN; do giảm thuế suất thuế TNDN chính là tạo điều kiện để doanh nghiệp có thêm nguồn lực tài chính, tăng tích lũy tái đầu tư, đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Khi doanh nghiệp phát triển sẽ tạo ra nhiều hàng hóa, của cải vật chất cho xã hội, tạo thêm nhiều lợi nhuận và thuế thu nhập nộp cho NSNN cũng sẽ tăng thêm.

+ Về tính minh bạch: Theo quy định tại Luật thuế TNDN và các văn bản hướng dẫn thực hiện thì cách sử dụng ngôn ngữ còn khó hiểu, gây nhầm lẫn, ví dụ: Thông tư số 130/2008/TT- BTC quy định, phần chi phí trả lãi tiền vay vốn sản xuất kinh doanh của đối tượng không phải là tổ chức tín dụng hoặc tổ chức kinh tế vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm vay.Theo đó vay của tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế không bị khống chế còn vay của cá nhân, tổ chức không kinh doanh sẽ bị khống chế ...nhưng cách viết gây khó hiểu cho DN.

Luật thuế TNDN có quy định DN sản xuất, xây dựng ....sử dụng nhiều lao động nữ thì khoản chi cho lao động nữ được giảm, miễn thuế TNDN. Nhưng tại các văn bản hướng dẫn thực hiện không có quy định: thế nào là DN sử dụng nhiều lao động nữ, vì vậy gây ra sự không rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế.

+ Tính thống nhất: Nội dung quy định tại Luật, Nghị định và các văn bản hướng dẫn chưa thống nhất.

Ví dụ: Quy định về phần Phần giá trị hàng hóa tổn thất:

Thông tư số 130/2008/TT-BTC hướng dẫn phần giá trị tổn thất do thiên tai, dịch bệnh và trường hợp bất khả kháng khác không được bồi thường được hạch toán vào chi phí để trừ khi tính thuế TNDN, nhưng Thông tư số 18/2011/TT-BTC hướng dẫn bổ sung: hồ sơ đối với tài sản, hàng hoá bị tổn thất do thiên tai, dịch bệnh, hoả hoạn (không quy định trường hợp bất khả kháng khác) được tính vào chi phí để trừ.

+ Tính hợp lý: Một số hướng dẫn thực hiện Luật còn có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế:

Ví dụ: Một số khoản chi phí không hướng dẫn và cũng không nêu nguyên tắc phân bổ nên khi xác định chi phí gặp khó khăn cho doanh nghiệp: như tiền điện thoại khoán cho người quản lý doanh nghiệp, văn phòng phẩm ...dẫn đến khó thực hiện, đôi khi bị áp đặt.

+ Tính khả thi: Một số quy định nhằm đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, cũng như quyền đánh thuế của Việt nam, nhưng tính khả thi không cao, khó thực hiện:

Ví dụ: Một số khoản chi tuy không liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng thực tế phát sinh không được hạch toán vào chi phí còn thiếu tính khả thi như chi hiếu hỷ, chi hỗ trợ đoàn thể tại doanh nghiệp, quy định cụ thể về chi tuyên truyền quảng cáo.

2.3. Giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động của DN

Hiện nay, nhà nước chưa có văn bản pháp lý về giám sát hoạt động tài chính của DNNN sau CPH nhưng theo Quyết định số 224/2006/QĐ-TTg ngày 06/10/2006 về Quy chế giám sát và đánh giá hiệu quả của DNNN có các hình thức giám sát sau:

- Giám sát từ bên trong doanh nghiệp là giám sát nội bộ do doanh nghiệp tự tổ chức thực hiện.

- Giám sát từ bên ngoài là giám sát do chủ sở hữu và cơ quan QLNN tổ chức thực hiện. Việc giám sát từ bên ngoài được thực hiện dưới hai hình thức:

+ Giám sát gián tiếp: là việc theo dõi và kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính, thống kê và báo cáo khác theo quy định của pháp luật và của chủ sở hữu.

+ Giám sát trực tiếp: là việc kiểm tra nắm tình hình trực tiếp tại doanh nghiệp. Việc giám sát trực tiếp tại doanh nghiệp được thực hiện theo các quy định hiện hành về công tác kiểm tra đối với doanh nghiệp. Các chủ thể giám sát có thể sử dụng các công ty tư vấn như: Công ty tư vấn tài chính kế toán, thuế, Công ty kiểm toán độc lập, Công ty đánh giá tài sản để thực hiện giám sát và đánh giá doanh nghiệp.

- Giám sát trước, trong và sau hoạt động của doanh nghiệp:

Giám sát trước hoạt đông của doanh nghiệp là việc kiểm tra tính khả thi của các kế hoạch ngắn hạn, dài hạn; các dự án đầu tư, xây dựng, đầu tư ra ngoài doanh nghiệp, phương án huy động vốn và các dự án phương án khác;

Giám sát trong hoạt động của doanh nghiệp là việc theo dõi, kiểm tra quá trình thực hiện các kế hoạch, dự án của doanh nghiệp, thực hiện các quy định của pháp luật và của chủ sở hữu;

Giám sát sau hoạt động của doanh nghiệp là việc kiểm tra kết quả hoạt động của doanh nghiệp trên cơ sở các báo cáo định kỳ; kết quả chấp hành các quyết định của chủ sở hữu hoặc Điều lệ doanh nghiệp; việc tuân thủ các quy định của pháp luật.

Về cơ bản các hình thức giám sát trên khá toàn diện và đều được thực hiện ở các DNNN sau CPH. Tuy nhiên, việc thực hiện giám sát lại không đạt được hiệu quả. Cụ thể, công tác giám sát bên trong của các DNNN sau CPH hiện nay hầu như mới chỉ là hình thức, chưa phát huy được vài trò của giám sát, chưa được chú trọng ở nhiều doanh nghiệp. Giám sát của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp sau CPH bị buông lỏng. Hầu như không thực hiện giám sát trước và trong hoạt động của doanh nghiệp. Chính vì vậy, nhiều quyết định đầu tư sai lầm của người quản lý đã không được cảnh báo trước gây thiệt hại cho doanh nghiệp và chủ sở hữu.

Ngoài hai hệ thống giám sát trên đối với doanh nghiệp còn có những đối tượng khác cũng tham gia giám sát doanh nghiệp như: Những tổ chức cá nhân ngoài doanh nghiệp không có chức năng giám sát nhưng họ phát hiện hoặc tố cáo vi phạm của doanh nghiệp về các hoạt động vi phạm pháp luật, các cơ quan truyền thông báo chí, kiến nghị của hệ thống kiểm toán độc lập,...Hệ thống thuế, hệ thống tín dụng cũng là những nội dung quan trọng của hoạt động giám sát tài chính doanh nghiệp. Cơ quan thuế là người thu thuế đồng thời thực hiện chức năng chủ yếu về kiểm tra, giám sát việc thực hiện chế độ nộp thuế của doanh nghiệp. Các ngân hàng trực tiếp giám sát việc sử dụng vốn tín dụng của doanh nghiệp.

Hệ thống giám sát hoạt động tài chính của DNNN sau CPH đến nay có thể được khái quát như sau:

Cơ quan giám sát nhà nước: hiện nay, không có một cơ quan chuyên trách nào chịu trách nhiệm giám sát DNNN sau CPH. Tuy nhiên, Nhà nước đã uỷ quyền quản lý vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp này cho các đại diện chủ sở hữu nhà nước. Đại diện chủ sở hữu nhà nước có trách nhiệm quản lý và giám sát hoạt động tài chính của các doanh nghiệp này. Hiện nay, đại diện chủ sở hữu nhà nước là Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), công ty mẹ của các tập đoàn, tổng công ty, các bộ, UBND cấp tỉnh, thành.

Cơ quan giám sát, kiểm soát nội bộ của DNNN sau CPH: Hiện nay, các DNNN sau CPH chuyển sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần đều đã thành lập Ban kiểm soát. Ban kiểm soát có chức năng giám sát tình hình tài chính nội bộ nhằm đảm bảo các quyết định và chế độ quản lý được thực hiện đúng.

Cơ quan kiểm toán độc lập: Bên cạnh công tác kiểm soát nội bộ, công tác kiểm toán độc lập được coi là công cụ quan trọng trong việc quản lý và điều hành doanh nghiệp. Hiện nay, nhà nước cũng đã có những quy định doanh nghiệp nào niêm yết trên thị trường chứng khoán thì bắt buộc phải kiểm toán báo cáo tài chính. Những doanh nghiệp nào chưa niêm yết thì khuyến khích kiểm toán độc lập.



Những ưu điểm trong hoạt động giám sát:

Việc giám sát của nhà nước trong thời gian qua đối với DNNN sau CPH đã có những mặt tích cực như sau:

Giúp cơ quan nhà nước nắm bắt kịp thời thực trạng, đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp về các mặt cơ bản doanh thu và thu nhập khác so với năm trước; lợi nhuận thực hiện và tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước; nợ phải trả quá hạn và khả năng thanh toán; tình hình chấp hành chế độ, chính sách pháp luật.

Triển khai được vai trò giám sát hoạt động tài chính, đánh giá hiệu quả DNNN sau CPH của chủ sở hữu nhà nước.

Tạo cơ sở để nhìn nhận, đánh giá sát thực hơn hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như năng lực điều hành của đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp. Từ đó có cơ sở đưa ra các biện pháp khuyến khích, động viên, khen thưởng hoặc đề ra các biện pháp chế tài, khắc phục tình trạng yếu kém của doanh nghiệp. Việc giám sát đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp cũng tạo điều kiện cho bản thân doanh nghiệp chủ động triển khai các hoạt động theo quy định của pháp luật, đề ra các biện pháp khắc phục tồn tại, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh.

Những tồn tại trong hoạt động giám sát:

- Có sự chồng chéo vai trò chủ thể giám sát hoạt động tài chính và QLNN đối với DNNN sau CPH.

+ Hoạt động giám sát của nhà nước đối với DNNN sau CPH chưa thực sự hiệu quả, chưa đi vào bản chất là giám sát của chủ sở hữu đối với DNNN sau CPH vì hiện nay đang diễn ra sự chồng chéo giữa hoạt động giám sát tài chính của nhà nước với vai trò chủ sở hữu và hoạt động giám sát quản lý của cơ quan QLNN.

+ Hiện nay, bộ máy QLNN đồng thời là bộ máy thực hiện quyền sở hữu vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp sau CPH không có sự phân định rõ vai trò của nhà nước đối với DNNN sau CPH với tư cách là chủ thể giám sát vì nhà nước chỉ là chủ thể giám sát đối với DNNN sau CPH khi nhà nước là chủ sở hữu vốn. Do đó, các nội dung giám sát hoạt động tài chính của nhà nước đối với DNNN sau CPH (căn cứ trên mối quan hệ chủ thể sở hữu vốn - đầu tư vốn với chủ thể tiếp nhận vốn) và nội dung quản lý giám sát của nhà nước đối với doanh nghiệp sau CPH (căn cứ vào mối quan hệ hành chính nhà nước) cũng không được tách bạch rõ ràng.

- Hệ thống pháp luật làm cơ sở giám sát tài chính doanh nghiệp vẫn còn thiếu tính thống nhất và tính đồng bộ. Về cơ bản các quy định pháp luật về tài chính mới chỉ được thiết kế dựa trên quyền lợi của nhà nước và trách nhiệm của doanh nghiệp mà chưa tính đến trách nhiệm của Nhà nước và quyền lợi của doanh nghiệp. Chính vì vậy, doanh nghiệp không thấy tác dụng và hiệu quả của giám sát tài chính mà chỉ coi đó là công cụ quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp. Mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quy chế giám sát và đánh giá hoạt động của doanh nghiệp, nhưng mới tập trung chủ yếu vào DNNN. Trong quy chế đó đề cập đối tượng giám sát có cả các công ty cổ phần có vốn chi phối của nhà nước nhưng chưa đầy đủ đối với công ty cổ phần mà nhà nước không giữ cổ phần chi phối.

- Chưa có đơn vị đầu mối thực hiện và chịu trách nhiệm về hoạt động giám sát tài chính đối với DNNN sau CPH.

Hiện nay, những DNNN sau CPH được chuyển giao cho SCIC quản lý thì SCIC chịu trách nhiệm giám sát hoạt động tài chính của các doanh nghiệp này thông qua người đại diện. Những DNNN sau CPH không chuyển về cho SCIC quản lý thì vẫn đang bị quản lý phân tán ở UBND cấp tỉnh.

Các nội dung giám sát hoạt động tài chính của chủ sở hữu nhà nước không tập trung tại một đầu mối mà tản mát do nhiều sở, ngành khác nhau thực hiện, không đảm bảo tính kịp thời dẫn đến tính hiệu quả của hoạt động giám sát của nhà nước đối với doanh nghiệp sau CPH có nhiều hạn chế. Đồng thời thực tế này cũng dẫn đến bất cập là sẽ không có đơn vị cơ quan đầu mối nào thực hiện và chịu trách nhiệm về hoạt động giám sát tài chính đối với DNNN sau CPH.

- Các nội dung giám sát tài chính của nhà nước đối với các doanh nghiệp sau CPH còn mang tính hình thức chưa thực sự đầy đủ và hiệu quả. Các DNNN sau CPH trở thành công ty cổ phần hoạt động sản xuất kinh doanh theo Luật doanh nghiệp, được chủ động trong việc huy động vốn, đầu tư và sử dụng vốn. Nhà nước chỉ là một trong các chủ sở hữu, dù có vốn góp chi phối. Hiện tại, nhà nước vẫn chưa kiểm soát được các hoạt động đầu tư ra bên ngoài ngành nghề kinh doanh chính của các công ty cổ phần có vốn góp chi phối của nhà nước. Do vậy, hiệu quả của số vốn đầu tư này cũng không đánh giá được. Hiện nay, chưa có một báo cáo cụ thể nào về hoạt động kinh doanh cũng như tính hiệu quả của hoạt động kinh doanh sang ngành nghề khác của các DNNN sau CPH.

- Hệ thống công cụ giám sát tài chính của nhà nước đối với các DNNN sau CPH chưa phát huy hiệu quả. Chỉ tiêu giám sát còn chưa phù hợp để nhận biết để phân tích tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp một cách chuẩn xác. Hiện tại, việc đánh giá doanh nghiệp chỉ thông qua các chỉ tiêu tài chính như: doanh thu, lợi nhuận thực hiện, tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước đầu tư và chỉ tiêu khả năng thanh toán và nợ quá hạn của doanh nghiệp. Những chỉ tiêu này vẫn chưa thực sự phản ánh được thực trạng về tình hình tài chính, về rủi ro của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các chỉ tiêu giám sát chưa đầy đủ mới chỉ thiên về các chỉ tiêu tài chính. Công tác bổ nhiệm cán bộ, cử người đại diện chủ sở hữu vốn tại doanh nghiệp,...chưa được quy định cụ thể bằng các chỉ tiêu định lượng hoặc dễ lượng hoá phục vụ cho công tác đánh giá.

- Về thực hiện quyền của người đại diện chủ sở hữu và trách nhiệm của chủ tịch HĐQT:

+ Theo quy định tại khoản 11 Điều 2 Quy chế quản lý tài chính của DNNN và quản lý phần vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp thì “Đại diện chủ sở hữu DNNN là cơ quan được Chính phủ phân cấp hoặc uỷ quyền thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu bao gồm: Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ quản lý ngành, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, HĐQT tập đoàn, Tổng công ty,...”. Tuy nhiên, trên thực tế Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ quản lý ngành, Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có quá nhiều công việc khó có thể thực hiện tốt vai trò người “Đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp”. Trong nhiều trường hợp những người được nêu ở trên uỷ quyền cho người khác thực hiện nghĩa vụ, quyền hạn thay mình.

+ Như vậy, cơ chế quản lý trao quyền cho những người giám sát, quản lý nguồn vốn nhà nước nhưng họ lại không có điều kiện đi sâu đi sát với hoạt động của các doanh nghiệp, các bộ phận trung gian dày đặc luôn tạo lên khoảng cách giữa Chủ tịch UBND tỉnh của một tỉnh, lãnh đạo một ngành với hoạt động của doanh nghiệp. Khoảng cách quản lý bị lới rộng cung cách quản lý lại nặng tính mệnh lệnh hành chính, thủ tục giấy tờ, hội họp, báo cáo, rút kinh nghiệm,... dẫn đến tính phòng ngừa, giám sát còn yếu. Theo quy chế về quản lý tài chính tại các công ty TNHH1TV sau khi chuyển đổi, Hội đồng thành viên có quyền quyết định các dự án đầu tư có giá trị tới 50% tổng giá trị tài sản ghi trên báo cáo tài chính của công ty được công bố tại quý gần nhất, bên cạnh đó, chủ tịch hội đồng thành viên còn được toàn quyền quyết định đầu tư ra ngoài công ty với các dự án đầu tư nhỏ hơn hoặc bằng 50% vốn điều lệ của công ty. Ngoài ra các quyền khác như huy động vốn, bán, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản cũng rất rộng rãi như: đựơc huy động vốn tối đa gấp ba lần vốn điều lệ hoặc bán tài sản có giá trị dưới một nửa tổng tài sản của doanh nghiệp mà không phải xin phép cơ quan quản lý nào. Mỗi doanh nghiệp thường có tài sản lớn vì vậy quyền hạn mà quy chế trao cho chủ tịch hội đồng thành viên là rất lớn. Điều lo ngại là việc trao quyền rộng rãi cho hội đồng thành viên lại không đi kèm với cơ chế kiểm tra, giám sát có hiệu quả. Cho đến nay, các công ty TNHH1TV do nhà nước làm chủ sở hữu, công ty cổ phần có vốn nhà nước chưa bắt buộc phải thực hiện chế độ kiểm toán định kỳ, điều mà tất cả các công ty đại chúng phải làm. Quy chế báo cáo đầu tư, tình hình sản xuất kinh doanh định kỳ cũng không thống nhất và tuỳ thuộc vào từng cơ quan cụ thể được uỷ quyền làm chủ sở hữu vốn nhà nước thông thường báo cáo thì phải làm mỗi năm một lần, nhưng đa phần chỉ mang tính thủ tục nên chất lượng báo cáo không cao, độ tin cậy thấp.

+ Trên thực tế các công ty TNHH1TV do nhà nước làm chủ sở hữu, các công ty cổ phần có vốn nhà nước đều có ban kiểm soát có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng vấn đề đặt ra là ban kiểm soát có đủ quyền lực cần thiết trong thực tế để thực hiện nhiệm vụ của mình không ? Họ bị chi phối hoặc thậm chí là vô hiệu hoá bởi lãnh đạo của doanh nghiệp. Thực tế, nhà nước có thể giám sát tài chính thông qua các cơ quan như thanh tra nhà nước, kiểm toán nhà nước, tuy nhiên thanh tra, kiểm toán, kiểm tra không phải là quy định bắt buộc mang tính định kỳ mà thông thường chỉ được tiến hành khi có dấu hiệu không bình thường ở các đơn vị.

- Thiếu chế tài xử lý nghiêm khắc:

+ Những tồn tại trong việc sử dụng nguồn vốn nhà nước tại doanh nghiệp sau khi CPH không đạt được như kỳ vọng thậm chí còn bị thất thoát thua lỗ diễn ra từ nhiều năm nay nhưng các chế tài xử lý hành vi vi phạm này vẫn chưa đủ mạnh và còn thiếu. Cho đến nay, chưa có quy định cụ thể về chế tài đối với hành vi thuộc về năng lực quản trị, điều hành việc sử dụng vốn, huy động vốn,... dù Nghị định số 09/2009/NĐ-CP đã có quy định về vấn đề này nhưng các quy định vẫn còn quá chung chung. Vấn đề đặt ra là cần phải xác định cụ thể chế tài đối với từng hành vi cụ thể khi xét thấy sự vi phạm và vi phạm phải được xử lý.

+ Chủ tịch HĐQT được giao quyền lớn, quyết định đối với nguồn vốn nhà nước nên dễ dàng đổ tiền mạnh vào các dự án không rõ ràng về mục tiêu, hiệu quả kinh tế. Thiếu sự thanh tra, kiểm tra nghiêm ngặt hoạt động của các doanh nghiệp sau khi chuyển đổi chính là cơ hội để một bộ phận người nắm quyền biến của công thành của tư, biến dự án công trình, kế hoạch KT-XH của nhà nước thành những mục đích của một người hoặc một nhóm người. Nhưng thật khó có thể thấy tương xứng những hậu quả nghiêm trọng với mức xử phạt theo quy định của pháp luật. Quy định của Luật doanh nghiệp, giám đốc Công ty TNHH1TV do nhà nước làm chủ sở hữu sẽ bị miễn nhiệm, chấm dứt hợp đồng nếu công ty lỗ 2 năm liên tiếp trở lên hoặc tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước giảm 2 năm trở lên hoặc trong tình trạng lãi lỗ đan xen nhau không khắc phục được. Nhẹ hơn thì không được tăng lương, không được thưởng, bị hạ lương hoặc phải bồi thường thiệt hại vật chất cho doanh nghiệp. Các trường hợp đặc biệt như lỗ được phê duyệt trước, có lý do khách quan được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận thì giám đốc được miễn trừ trách nhiệm.

Những quy định xử lý hành vi vi phạm, làm thất thoát tài sản nhà nước tại các công ty TNHH1TV do nhà nước làm chủ sở hữu còn thiếu nghiêm khắc như vậy thì khó có thể loại bỏ được các hành vi vi phạm.



2.4. Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp

Thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp là một nội dung quan trọng của QLNN. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp phàn nàn hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước đã gây không ít phiền hà cho doanh nghiệp, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, thậm chí có trường hợp gây nhũng nhiễu. Để tránh sự tùy tiện trong hoạt động thanh tra, kiểm tra bảo đảm hoạt động này đúng pháp luật, ngoài Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản liên quan đến hoạt động thanh tra, kiểm tra Chính phủ đã ban hành NĐ61/1998 về “Công tác thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp” và Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định về việc “Thanh tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp”. Nhưng trên thực tế, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước vẫn gây một số khó khăn cho doanh nghiệp. Những bất cập về mặt pháp luật và thực tiễn trong hoạt động thanh tra, kiểm tra và những vướng mắc từ hoạt động này mà các doanh nghiệp thường gặp tập trung ở một số mặt sau đây:

- Do có nhiều cơ quan có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra nên số lượng các cuộc thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp nhiều. Theo quy định của pháp luật hiện hành, doanh nghiệp trước hết phải chịu sự thanh tra của các cơ quan thanh tra nhà nước. Ngoài ra doanh nghiệp còn chịu sự kiểm tra của rất nhiều cơ quan nhà nước khác nhưng ở phạm vi hẹp hơn và hoạt động đó được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật. Doanh nghiệp được thành lập chủ yếu là để kinh doanh, vì thế trước hết phải chịu sự kiểm tra liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh như: kiểm tra việc thực hiện pháp luật về thuế, tài chính, kế toán, giá cả, tiêu chuẩn chất lượng và trong các lĩnh vực khác như lao động, vệ sinh môi trường… Trong trường hợp doanh nghiệp có vi phạm pháp luật về các lĩnh vực QLNN hoặc có tin tố giác về tội phạm liên quan đến doanh nghiệp thì lực lượng cảnh sát kinh tế, an ninh kinh tế, an ninh văn hóa, cảnh sát quản lý hành chính về trật tự an toàn xã hội, cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, cảnh sát phòng chống ma túy có quyền kiểm tra sổ sách, hồ sơ, chứng từ, tài liệu của các doanh nghiệp.

- Do doanh nghiệp phải chịu sự thanh tra, kiểm tra của nhiều cơ quan với những lĩnh vực và nội dung khác nhau, vì vậy có thể xảy ra tình trạng trùng lặp về nội dung, thời gian. Đây là hành vi mà pháp luật nghiêm cấm. Điều 3 NĐ61-1998 quy định “Không được tiến hành trùng lặp, không quá một lần về cùng một nội dung trong một năm đối với doanh nghiệp”; Luật doanh nghiệp quy định “Việc thanh tra về tài chính được thực hiện không quá một lần trong một năm đối với một doanh nghiệp”. Điều đó có nghĩa là: trong một năm, cùng một nội dung tại một doanh nghiệp đã được một cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành thanh tra, kiểm tra; kết luận thì không một cơ quan nào khác được thanh tra, kiểm tra một lần nữa (trừ trường hợp bất thường và phúc tra) thực tế việc trùng lặp vẫn xảy ra.

- Đối với các DNNN tỉnh Bắc Giang trong số 49 công ty cổ phần được thành lập từ DNNN chỉ tính riêng cơ quan thuế đã thực hiện 25 cuộc thanh tra, kiểm tra trong năm 2011 (50% số doanh nghiệp) trong đó 100% số doanh nghiệp đã được thanh tra, kiểm tra phải xử lý hành vi khai sai về thuế, truy thu và phạt vi phạm hành chính 2.440 triệu đồng, giảm lỗ 912 triệu đồng. 6 tháng đầu năm 2012 thanh tra, kiểm tra thuế 02 doanh nghiệp sau CPH do tỉnh quản lý truy thu và phạt 296 triệu đồng.


Каталог: sites -> default -> files
files -> BÁo cáo quy hoạch vùng sản xuất vải an toàn tỉnh bắc giang đẾn năM 2020 (Thuộc dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học ) Cơ quan chủ trì
files -> Mẫu tkn1 CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc ĐĂng ký thất nghiệP
files -> BỘ TÀi chính —— Số: 25/2015/tt-btc cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc TỜ khai của ngưỜi hưỞng trợ CẤP
files -> BỘ giáo dục và ĐÀo tạO –––– Số: 40
files -> BỘ y tế CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập – Tự do – Hạnh phúc
files -> Mẫu số 1: Ban hành kèm theo Thông tư số 19/2003/tt-blđtbxh ngày 22 tháng 9 năm 2003 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Tên đơn vị Số V/v Đăng ký nội quy lao động CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> CỦa bộ XÂy dựng số 04/2008/QĐ-bxd ngàY 03 tháng 4 NĂM 2008 VỀ việc ban hành “quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về quy hoạch xây dựNG”

tải về 335.66 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương