Thanh nhạc tìm hiểu cơ bản về Lý thuyết và Thực hành



tải về 348.02 Kb.
trang3/5
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích348.02 Kb.
#29142
1   2   3   4   5

a. Lấy hơi (hít hơi):

- Cần phải nhẹ nhàng và hít vào mau lẹ bằng mũi và bằng miệng (như vậy làn hơi mới vào sâu trong phổi được).

- Nén hơi vài giây trước khi hát và cố gắng giữ lồng ngực căng trong suốt câu hát.

b. Đẩy hơi (điều chế làn hơi):

- Đưa hơi thở ra chính xác cùng lúc với hoạt động của thanh đới, không sớm, không muộn. Nếu sớm quá (sur la glotte) âm thanh nghe cứng cỏi vì thanh đới căng ra trước khi làn hơi tới. Nếu muộn quá (sur le souffle), âm thanh nghe không rõ, mà lại tốn hơi, vì làn hơi ra trước khi thanh đới rung.

- Đưa hơi ra đều đặn, không đứt quãng, không quá căng. Khi phải hát những bước nhảy (từ quãng 4 trở lên), nên có tác động ép bụng cách mềm mại để âm thanh phát ra đúng cao độ và âm vang đầy đặn. Tạo cảm giác như điểm tựa của làn hơi ở vùng xương chậu: làn hơi như được đẩy lên nhờ tựa vào vùng xương chậu. Các cơ bụng dưới hơi căng, tạo thành chỗ dựa vững chắc cho làn hơi phóng lên.

3. Một số điểm cần tránh khi lấy hơi cũng như khi đẩy hơi:

a. Khi lấy hơi:

- Không nên lấy hơi hoàn toàn qua miệng, trừ những trường hợp cao trào, phải cướp hơi, hoặc những trường hợp hát khi các vần mở mà phải hát nhanh, nhịp nhàng.

- Không nên hít hơi quá nhiều, làm căng thẳng các cơ bụng, sườn, ngực... tác hại đến việc phát thanh. Cần tập lấy hơi theo mức dài ngắn, mạnh nhẹ của câu nhạc.

- Không nên để hết hơi hoàn toàn mới lấy hơi khác, như vậy âm thanh cuối câu dễ bị đuối đi, có thể làm đỏ mặt, đỏ cổ...

- Không nên nhô vai lên khi hít hơi vì sẽ ảnh hưởng đến các cơ hô hấp, lấy hơi không sâu được.

- Không nên phình bụng ra trước khi lấy hơi: Chính không khí đi vào sâu trong phổi đồng thời với việc hạ hoành cách mô làm phình bụng ra. Nếu phình bụng trước sẽ làm cho cơ thể bị căng cứng, ảnh hưởng xấu đến việc phát âm.



b. Khi đẩy hơi:

- Không nên đẩy hơi quá mạnh khi hát các dấu cao, đành rằng có tốn nhiều hơi hơn hát dấu trầm (vì thanh đới không khép kín hoàn toàn khi hát dấu cao), nhưng nếu quá mạnh, sẽ làm thanh đới quá căng, ảnh hưởng tới âm sắc.

- Không nên phí phạm hơi thở, phải biết điều chế hơi thở sao cho phù hợp với tính cách của từng câu, để âm thanh vẫn âm vang đầy đặn từ đầu đến cuối câu. Điều chế hơi thở nhờ hoành cách mô nâng lên dần dần và mềm mại với sự hỗ trợ của các cơ bụng, còn lồng ngực vẫn căng tạo thành một cột hơi phía trên luôn luôn liên tục, đầy đặn.

4. Luyện tập hơi thở:

Việc luyện tập hơi thở thường phải đi đôi với việc luyện thanh, nghĩa là tập hơi thở với âm thanh, có như vậy ta mới dễ kiểm tra được hoạt động của hơi thở qua chất lượng của âm thanh phát ra. "Hơi thở đúng, âm thanh đẹp" ( xem chú thích 2), đó là câu châm ngôn của người ca hát. Hơi thở đúng sẽ giúp đặt vị trí âm thanh đúng, làm cho tiếng vang đẹp. Ngược lại vị trí âm thanh đúng giúp cho việc đẩy hơi được dễ dàng, tiết kiệm được hơi thở. Vị trí âm thanh và hơi thở là hai yếu tố hỗ trợ nhau để phát ra âm thanh có chất lượng, nên không thể tách rời từng hoạt động riêng rẽ. Tuy nhiên trong bước đầu, chúng ta có thể tập hơi thở riêng để làm quen với kiểu thở tích cực trong thanh nhạc, hoặc để tăng cường lực hít hơi và đẩy hơi của chúng ta.

a. Tập xì: (xem bài 1, phần thực tập số 2)

b. Tập thổi bụi: (xem bài 2, phần thực tập số 1)

c. Tập hơi thở với âm thanh qua các mẫu luyện thanh.

* PHẦN THỰC TẬP

1. Tập các cơ bụng để hỗ trợ cho hoành cách mô:

- Đứng thẳng người: thẳng lưng, thẳng đầu, áp mặt hai bàn tay vào sau lưng để ngón cái nằm bên hông ngang thắt lưng.

- Đặt bàn chân phải sát đất hướng ra phía trước, chân thẳng, người thẳng.

- Rút chân phải về, bàn chân vẫn chạm đất, và đưa chân trái ra y như chân phải: 50 - 100 lần.

- Thân người không nghiêng qua nghiêng lại, không nhô lên nhô xuống (Bài tập này dùng để khởi động khi học thanh nhạc, hoặc để tập thể dục trong ngày).

2. Tập lồng ngực:

- Hai bàn tay nắm lại, thẳng ra phía trước, song song mặt đất: thở ra từ từ.

- Hất mạnh hai tay ra phía sau, luôn thẳng cánh tay: hính nhanh vào.

- Dừng lại một vài giây: nén hơi.

- Đưa hai tay ra phía trước như lúc đầu: thở ra từ từ...

3. Tìm cảm giác điểm tựa của làn hơi:

- Lấy hơi vào như thường lệ.

- Làm như "thổi bụi" nhưng ngậm miệng (bịt mũi nếu cần) để cho hơi không thoát ra ngoài, nhưng hơi dội lại xuống hoành cách mô và tác động lên bụng, lên vùng xương chậu, làm căng các cơ ở xung quanh vùng đó. Đó được coi như điểm tựa của làn hơi trong khi chúng ta hát, nhất là khí phải hát cao, hát mạnh.

4. Tập mẫu luyện thanh 4 và 5:

Mẫu 4

* Yêu cầu của mẫu 4a: 1, 2, 3 như mẫu 3a.

* Yêu cầu 4: liền tiếng + ép bụng ở phách thứ 4.

* Yêu cầu 5: càng lên cao, giữ căng lồng ngực, nâng hàm ếch mềm và buông lỏng hàm dưới.



Mẫu 5

* Yêu cầu của mẫu 5: 1, 2, 3 như các mẫu trước.

* Yêu cầu 4: rời tiếng bằng cách ép nhẹ bụng mỗi khi hát 1 dấu.

* CÁC CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Tại sao hơi thở lại quan trọng và phải tập luyện ?

2. Trường phái mới của nghệ thuật ca hát nước Ý chủ trương như thế nào ? Tại sao có sự biến chuyển so với trước đó ?

3. Kiểu thở bụng kết hợp với lồng ngực hoạt động ra sao ? Ích lợi thế nào ?

4. Những điều cần làm khi lấy hơi và đẩy hơi ?

5. Những điều cần tránh khi lấy hơi và đẩy hơi ?

6. "Hơi thở đúng, âm thanh đẹp" nghĩa là gì ?

--------------------------------------



[1]: Thở sâu đúng cách còn giúp chúng ta mở rộng họng, hạ thấp thanh quản và nâng cao vòm mềm, từ đó có được những âm thanh đúng vị trí nên vang đẹp: "Hơi thở đúng, âm thanh đẹp" là theo nghĩa đó. (Xem Richard Alderson,SDD tr.30)

BÀI 4:

TƯ THẾ ĐỨNG NGỒI TRONG CA HÁT

Tư thế đứng để hát là tốt nhất, nhưng đứng lâu mau mệt, nên trong các buổi tập dượt có thể ngồi để hát, chỉ đứng khi cần hát thử một số đoạn hoặc cả bài, sau khi đã tập kỹ.

Dù đứng hay ngồi, người ca viên cũng phải đứng ngồi cho đúng tư thế, nếu không sẽ ảnh hưởng đến cột hơi, do lồng ngực hoặc bụng bị đè nén hay bóp méo, tác động xấu đến âm thanh phát ra. Do đó, cần lưu tâm rèn luyện và uốn nắn tư thế cho phù hợp.

I. TƯ THẾ ĐỨNG:

1. Thẳng lưng: (thẳng xương sống: không gù lưng, không ẹo qua trái hoặc phải, không ưỡn người ra sau).

Tạo ra một trụ đỡ, trên đó các cử động của toàn thân được phối hợp và hoạt động dễ dàng.



2. Thẳng đầu:

Đầu thẳng góc với vai, không nghiêng qua trái hay qua phải, không nâng cằm lên, không rướn cổ ra trước, không ép cằm xuống cổ. Có như vậy thì các cơ bắp ở cổ họng sẽ hoạt động dễ dàng, không bị cản trở.



3. Ngực vươn ra thoải mái giúp cho hơi thở được dễ dàng, vai không nhô lên, không thõng xuống.

4. Hai tay để xuôi hai bên hông, khi không cầm sách hát.

Nếu hai tay cầm sách thì để ngang tầm vai, để có thể vừa nhìn sách vừa nhìn thấy người điều khiển, không cao quá che mặt, che tiếng ; không thấp quá, mắt sẽ không theo dõi người điều khiển được, đồng thời đầu cúi quá ảnh hưởng đến âm thanh. Hai cánh tay sau hơi đưa ra phía trước, cách hông khoảng 45 độ. Cả hai tay đều giữ sách, nhưng tay trái là chủ yếu để tay phải có thể giở trang sách khi cần.



5. Hai bàn chân cách nhau, bàn chân trái nhích lên trước một ít, giúp cho ca viên thăng bằng, vững chắc, thoải mái và lanh lợi. Sức nặng của thân chủ yếu dồn lên hai phần trước của lòng bàn chân.

6. Toàn thân hơi nghiêng về trước, luôn thẳng về trước, kết hợp tư thế hai bàn chân, bảo đảm cho hoạt động của cơ lưng, cơ bụng được dễ dàng (hình 7).



II. TƯ THẾ NGỒI:

1. Thẳng lưng, thẳng đầu, ngực vươn như ở tư thế đứng, nhưng thân trên hơi nghiêng về phía trước, không dựa lưng vào ghế, cốt để cho cơ thể dễ cử động, lồng ngực, cơ lưng không bị cản trở.

2. Tay cầm sách khi ngồi, giơ cao hơn khi đứng nhiều hay ít tuỳ chỗ đứng cao hay thấp của ca trưởng. Nếu không cầm sách, tay có thể đặt nhẹ nhàng trên bàn, hoặc trên hai đùi của mình, tránh không ép cánh tay vào sườn, cũng như không tì người lên bàn.

3. Hai chân bẹt xuống sàn nhà, không bắt chéo, không dạng ra quá, làm sao khi đứng lên cách thoải mái mà không cần vịn vào cái gì khác.

Ngoài ra, ăn mặc quần áo chật quá, bó sát người, cũng làm ảnh hưởng đến hơi thở, ít nhiều cũng giống như tư thế sai vậy.





* PHẦN THỰC TẬP

1. Tập tư thế kết hợp với hơi thở:

- Đứng đúng tư thế, lấy hơi và tập xì.

- Đang lúc xì, ngồi xuống, không vịn, tay để lên đùi.

- Rồi lại đứng lên theo đúng tư thế, và kết thúc đẩy hơi bằng tiếng xì mạnh (có thể tập các mẫu khác như "la"..., phối hợp với hai tay tập cầm sách).



2. Có thể dùng bài tập "chà hai bàn chân" (xem phần thực tập số 1, bài 3) để tập thẳng lưng.

Tập mẫu luyện thanh 6 và 7

Mẫu 6

* Yêu cầu 1, 2, 3: như các mẫu trước

* Yêu cầu 4: liền tiếng mà không mất tiếng khi hát 4 dấu móc đôi đầu câu.

Sau đó rời tiếng bằng cách ép bụng nhẹ, càng lên cao, hướng âm thanh về phía chân răng trên, môi trên hơi nhếch lên.



Mẫu 7

* Yêu cầu 1, 2, 3: như các mẫu trước

* Yêu cầu 4: liền tiếng 1 phách đầu, rời tiếng nhẹ nhàng ở phách thứ 2 bằng cách ép bụng nhẹ. Tập hướng âm thanh về phía chân răng trên và nhếch môi trên ở trên âm rời (âm nẩy).

* CÁC CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Tại sao phải để ý đến tư thế trong ca hát?

2. Tư thế đứng phải như thế nào?

3. Tư thế ngồi phải như thế nào? Quần áo nên như thế nào?

BÀI 5

LẤY HƠI TRONG CA HÁT

Như đã biết, việc lấy hơi không chỉ nhằm mục đích cung cấp dưỡng khí cho cơ thể, cũng như cung cấp làn hơi cho việc phát thanh, nhưng còn góp phần biểu hiện ý nghĩa, nội dung, tình cảm của bài hát, có nhiều trường hợp lấy hơi khác nhau mà người ca viên cần biết và làm quen. Đằng khác, cũng có một số nguyên tắc trong việc lúc nào nên hay không nên lấy hơi và những lợi ích của việc lấy hơi như thế nào.



I. ÍCH LỢI CỦA VIỆC CHỦ ĐỘNG LẤY HƠI:

1. Việc chủ động lấy hơi lúc khởi tấu cũng như trong bài hát, sẽ làm cho tiếng hát được đầy đặn và có năng lực hơn. Nhiều người than hơi của mình ngắn, hoặc tiếng yếu, một phần lớn, là không lấy hơi đúng cách, hoặc không ý thức để lấy hơi đúng lúc.

2. Ích lợi lớn lao khác là giúp cho toàn thể ca viên bắt đầu câu hát được đều đặn và sắc bén. Nhiều ca đoàn khởi tấu chưa đều, phần nhiều là do chưa tập lấy hơi chủ động.

II. CÁC TRƯỜNG HỢP LẤY HƠI:

Người ta thường phân biệt bốn trường hợp chính như sau:



1. Lấy hơi lớn:

Là lấy hơi một cách thong dong, không vội vàng, thường thực hiện ở chỗ có dấu lặng tương ứng với một phách trong nhịp độ vừa (giống như dấu chấm trong bài văn).



Thí dụ 1:



2. Lấy hơi nhỏ:

Là lấy hơi ngắn hơn, dưới một phách cho đến 1/4 phách, thường gặp ở cuối tiết nhạc (chi nhạc), (giống như dấu phẩy trong bài văn).



Thí dụ 2:



3. Lấy hơi trộm:

Là lấy hơi thật nhanh và nhẹ nhàng như là không lấy hơi vậy (không để người khác nhận ra). Thường áp dụng trong câu nhạc dài, cần lấy hơi bổ sung mà vẫn bảo toàn ý nghĩa lời ca, hoặc trong chỗ ngắt câu phù hợp với ý nghĩa lời ca. Ký hiệu bằng dấu phải ('), trong thanh nhạc dùng (v).



Thí dụ 3:



4. Cướp hơi:

Là lấy hơi thật nhanh và mạnh mẽ, thường xảy ra ở những đoạn nhạc sôi nổi, hùng tráng, hoặc lúc chuẩn bị cho cao trào của bài hát. Đây là một kỹ xảo cao trong nghệ thuật ca hát, cần phải chú ý rèn luyện công phu (xem thêm đoạn Ha-lê-lui-a cuối bài Lạy Nữ Vương Thiên Đàng).



Thí dụ 4:

Trong hợp ca, có những câu nhạc dài, hoặc những chỗ ngân dài không được để đứt hơi, các ca viên phải nối hơi bằng cách thay nhau, kẻ trước người sau lấy hơi trộm: khi tiếp tục lại, phải vào bè nhẹ nhàng cũng như lúc mình hết hơi vậy.



III. CÁC NGUYÊN TẮC LẤY HƠI TRONG BÀI HÁT:

Trong câu nói, muốn đảm bảo ý nghĩa, ta chỉ ngắt sau một cụm từ, hoặc dừng lại sau một câu đầy đủ ý nghĩa. Trong bài hát cũng vậy, nhưng đôi khi cũng có những trường hợp ngoại lên, buộc ta phải ngắt cầu nhiều hơn là câu văn cho phép. Hoặc buộc ta phải hát luôn, không ngừng sau mỗi cụm từ, như trong câu nói có thể cho phép.

Trong những trường hợp đó, ta nên theo một số nguyên tắc sau:

1. Bình thường, lấy hơi trước mỗi câu hát (lúc khởi tấu cũng như trong bài hát) hoặc chỗ bài hát ghi dấu lặng (xem Td 1 và 2 ở trên): có chỗ xem ra không cần lấy hơi, nhưng tác giả cố ý ghi dấu lặng để ca viên lấy ơi cho đồng đều, nhịp nhàng (xem đoạn "Bút tôi reo như... Td 5 dưới đây).

2. Câu hát dài cần ngắt để lấy hơi bổ sung, thì nên ngắt nơi nào có đủ nghĩa (xem Td 4: ngắt sau "Chúa cho con trời mới đất mới" tương đối đủ nghĩa).

3. Không lấy hơi vụn vặt, cứ 2, 3 chữ đã ngưng để lấy hơi (xem Td 4: không nên lấy hơi như sau "Chúa cho con / trời mới / đất mới... con / sẽ ca ngợi...).

4. Không lấy hơi ở giữa các từ kép như Thiên Chúa, yêu thương...

IV. NHỮNG ĐIỂM CẦN LƯU Ý:

1. Theo nhịp độ:

Nếu hát loại bài với nhịp độ thong thả, thì lấy hơi vào cũng thong thả (xem "Khúc Nhạc Cảm Tạ"). Gặp loại bài sôi nổi, thì lấy hơi cũng phải nhanh nhẹn, nhịp nhàng đáp ứng yêu cầu tốc độ của bài hát (A-ve Ma-ri-a 2 đoạn C).



Thí dụ 5:



2. Theo sắc thái:

Gặp đoạn nhạc sắp hát rời, thì lấy hơi chuẩn bị cũng phải lấy hơi rời, nghĩa là lấy hơi nhanh rồi nén hơi chờ đợi cho đến khi hát các âm thanh rời.



Thí dụ 6:



* PHẦN THỰC TẬP

1. Tập lấy hơi theo các thí dụ trên, đặc biệt lấy hơi trộm (thí dụ 3); lấy hơi rời (thí dụ 6); cướp hơi (thí dụ 4, 5 và Ha-lê-lui-a cuối của bài "Lạy Nữ Vương Thiên Đàng" - Lm Ngô Duy Linh).



2. Tập các mẫu thanh nhạc:

Mẫu 8

* Yêu cầu 1, 2, 3: như các mẫu trước + đọc chéo các nguyên âm ô - a - ô, a - ô - a

* Yêu cầu 4: liền tiếng, vươn lên từ từ cho đến dấu Mi - Sol thì nhẹ lại. Tập quãng ba: chú ý hát chuẩn xác cao độ nhóm 4 dấu "Mi - Sol - Fa - Re".

Mẫu 9

* Yêu cầu:

1. Lấy hơi theo khẩu hình "i" - Nén hơi.

2. Móc nối M với i - ê - a cho mềm mại, phóng âm thanh ra phía trước.

3. Gắng sao cho âm sắc của nguyên âm ê và a cũng gần giống như âm i.

4. Hát liền tiếng, vươn tiếng dần 2 phách đầu, đến dấu Sol đặt nhẹ rồi cho sống lại bằng cách vươn tiếng + lấy hơi trộm và bắt vào chữ Ma cường độ ngang với phách 2 của dấu Sol, rồi hát nhẹ dần lại ở các phách còn lại cho đến hết câu. Chú ý chuẩn xác cao độ, không nặng nề, dựa nhẹ lên các dấu đầu phách, không để các dấu ở nửa phách sau lộ ra quá rõ ràng. Nhớ giữ nguyên khẩu hình chữ a cho đến hết câu, lồng ngực căng, bụng hơi ép dần khi gần hết câu, nếu không nét nhạc đi xuống thường có khuynh hướng buông lỏng, sẽ làm xuống cung.



Mẫu 10

* Yêu cầu:

1. Lấy hơi theo khẩu hình "i" - Nén hơi

2. Móc nối M với i - ê - a cho mềm mại, phóng âm thanh ra phía trước.

3. Mượn vị trí của Mi để đọc các chữ Ma, Mô, Mê, tạo cho các chữ sau có âm sắc sáng như i, càng lên cao, phải buông lỏng hàm dưới, nâng hàm ếch mềm, đầu như muốn nhìn từ trên cao xuống để dằn thanh quản thấp xuống, môi trên hơi nâng lên, mũi như muốn phồng lên để tăng độ vang cho âm thanh. Khi hát xuống thấp, môi trên hơi úp xuống che răng trên.

4. Liền tiếng + lấy hơi trộng: ngân dài dấu Fa gần đủ 2 phách như mình không định lấy hơi, sau đó vừa đổi khẩu hình sang chữ Mô vừa "nuốt" trộm hơi vào.



Mẫu 11

* Yêu cầu 1, 2, 3: như mẫu 10 trên đây.

* Yêu cầu 4: Môi càng hát nhanh càng mềm mại, không "nhai" tiếng. Càng lên cao, càng hát nhanh, phải tạo cảm giác điểm tựa âm thanh từ vùng xương chậu để phóng luồng hơi luôn luôn hướng lên phía sống mũi. Chỉ hát một hơi, không để mất vị trí dội âm trước mặt, giống như ta cầm vòi xịt nước lên cao, hướng về một điểm trước mặt, giữa môi trên và trán, nơi mà ta cảm thấy âm thanh vang rõ và đẹp nhất. Lúc đầu mỗi người gắng hướng làn hơi tìm xem "điểm" nào cho ta âm thanh vang đẹp nhất. Khi tìm được vị trí rồi, không cần phải tốn nhiều hơi, mà nghe âm thanh vẫn vang rõ. Vai trò của hàm ếch mềm và mỗi trên rất quan trọng để hướng dẫn làn hơi đi vào đúng vị trí. (Cũng có thể làm quen với dội âm trước mặt, bằng cách thực tập đọc sách phóng âm thanh ra trước, không cần đẩy hơi mạnh mà âm thanh vẫn vang vọng tới cuối phòng).

* CÁC CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Ích lợi của việc lấy hơi chủ động là gì?

2. Có mấy trường hợp lấy hơi? Lấy hơi trộm và cưới hơi khác nhau và giống như ở điểm nào?

3. Cho biết các nguyên tắc lấy hơi?

4. Lấy hơi theo nhịp độ và sắc thái của bài hát nghĩa là thế nào? Cho thí dụ?

BÀI VI

CÁC YẾU TỐ NGỮ ÂM TRONG ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT

Như đã biết, học thanh nhạc, ngoài việc tập luyện một số kỹ thuật cơ bản, còn phải học cách xử lý ngôn ngữ sao cho âm thanh lời ca phát ra nghe được rõ ràng và bảo toàn tính thẩm mỹ của ngôn ngữ từng dân tộc. Muốn xử lý ngôn ngữ Việt Nam, trước hết chúng ta phải biết sơ lược về các yếu tố ngữ âm cấu tạo nên từng tiếng, từng chữ (từng âm tiết) của ngôn ngữ Việt Nam.



1. Tiếng Việt Nam là một ngôn ngữ đơn vận (đơn âm, đơn lập) nhưng lại đa thanh.

a. Đơn vận:

Là mỗi tiếng, mỗi chữ chỉ gồm có một vần, nên khi nói rời từng tiếng, khi viết rời từng chữ, các vần các chữ không dính kết lại với nhau như một số ngôn ngữ khác. Câu thơ lục bát của Nguyễn Du:

"Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau"



(Truyện Kiều)

Gồm 14 vần, 14 âm tiết, viết và đọc tách bạch nhau, không dính kết lại với nhau.



b. Đa thanh:

Là nhiều thanh điệu, nhiều dấu giọng. Cụ thể là có 6 thanh điệu, được ghi bằng 5 ký hiệu khác nhau: dấu sắc (Á), dầu huyền (À), dầu hỏi (Ả), dầu ngã (Ã ), dấu nặng (Ạ). (Gọi tắt là 5 dấu 6 giọng). Không có dấu gọi là thanh-điệu "ngang".



2. Mỗi tiếng (mỗi âm tiết) có 3 yếu tố là âm đầu, vần và thanh điệu:

Thí dụ trong chữ TOÀN

T là âm đầu

OAN là vần

Ø là thanh huyền

(3 yếu tố này được thấy rõ, chẳng hạn trong lối nói lái của Việt Nam:



Thí dụ:

- Bí mật: - Bật mí: đối vần, đổi thanh

- Bị mất: đối thanh

- Mất bị: đối âm đầu + đối vần...).

Trong 3 yếu tố đó, thì VẦN lại gồm 3 yếu tố khác: âm đệâm + âm chính + âm cuối. Trong vần OAN, O là âm đệm, A là âm chính, N là âm cuối.

Vậy trong một âm tiết gồm tất cả 5 yếu tố:

- Âm đầu

- Âm đệm


- Âm chính

- Âm cuối

- Thanh điệu (là yếu tố ảnh hưởng lên toàn âm tiết)

Ta có sơ đồ các yếu tố của âm tiết như sau:





3. Ví trị âm đầu do các phụ âm đảm nhận, gọi là các phụ âm đầu:

a. Đặc tính của các phụ âm là tự nó không phát ra âm thanh lớn được, mà cần kèm theo một nguyên âm, thì nó mới phát thành tiếng rõ ràng được. Khi đọc các phụ âm, làn hơi phải vượt qua một vật cản nào đó do tác động của môi lưỡi phối hợp, rồi mới đi ra ngoài theo đường miệng. Muốn đọc rõ các phụ âm thì phải cấu âm cho đúng cách, bằng cách tạo các điểm cản làn hơi bằng môi hay lưỡi (hình 8, 9, 10).

b. Các phụ âm đầu Việt Nam gồm: B, C, CH, D, Đ, G (GH), GI, H, (K), KH, L, M, N, NH, NG (NGH), PH, Q (U), R, S, T, TH, TR, V, X.

Nếu phận loại dựa theo cách cấu âm, ta sẽ có 5 loại chính:

* Phụ âm môi:

- môi + môi: m - b ; (p): bình minh

- môi + răng: v - ph (f): vi phạm

* Phụ âm đầu lưỡi:

- đầu lưỡi + răng trên: t - th: tinh thần

- đầu lưỡi + hàm răng khít: x: xinh xắn

- đầu lưỡi + chân răng-vòm cứng: n - đ - l: nó đẹp lắm

- đầu lưỡi cong + vòm cứng: (l) - r - tr - s: rộn ràng, trong sáng

- đầu lưỡi rung + vòm cứng: r (r rung hơi khác với r mềm ở hàng trên): run rẩy, rung rinh

- đầu lưỡi bẹt + vòm cứng: d - gi: dòng giống

* Phụ âm mặt lưỡi:

-mặt lưỡi + vòm miệng: ch - nh: chi nhánh

* Phụ âm cuống lưỡi:

- cuống lưỡi ngoài + vòm mềm: kh - g (gh): khiêng gánh

- cuống lưỡi trong + vòm mềm: ng (ngh) - c (k,q): ngông cuồng, nguy kịch quá

* Phụ âm thanh hầu:

- cuống lưỡi thụt về phía sau để thu hẹp thanh hầu: h: hầu hạ.



Lưu ý:


- âm l có thể cấu âm ở cả 2 vị trí. Đối với người thường đọc lộn l ra n, và n ra l thì nên dùng l cong lưỡi để tập luyện. Không nên cong lưỡi quá, sẽ không tự nhiên.

- âm r mềm ở hàng trên đọc gần giống như chữ j trong tiếng Pháp. Còn r rung thường gặp ở miền Trung, chỉ nên dùng để đọc các chữ diễn tả sự rung động như: rung rinh, run rẩy, run run... và để đọc các chữ r của tiếng La-tinh như Ma-ri-a, Ro-sa...



c. Có một số âm tiết không có phụ âm đầu như ăn, uống, an ủi... còn đa số các âm tiết đều có phụ âm đầu. Muốn cho rõ tiếng, cần tập: "bật môi, đánh lưỡi" cho đúng cách. Vai trò của lưỡi quan trọng nên người ta khuyên nên "đánh lưỡi bảy lần trước khi nói" là vậy.


tải về 348.02 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương