THẾ thứ XV thế 12 : Ông Bùi văn Bảng Phái I thế 13 : Ông Bùi văn Kiết Chi 1 Thế 14 : Ông Bùi Thân Ông BÙi túC



tải về 79.67 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu10.08.2016
Kích79.67 Kb.
#17092
THẾ THỨ XV
Thế 12 : Ông Bùi văn Bảng Phái I

Thế 13 : Ông Bùi văn Kiết Chi 1

Thế 14 : Ông Bùi Thân

Ông BÙI TÚC


Tục danh : Ông Bá Huynh, húy: Văn Nghi, tự: Tạ Công

Con Ông Bùi Thân và Bà Đặng thị Sung

Sanh : 07-02-Â. Sửu (1865) tại Vĩnh Trinh

Cửu Phẩm Bá hộ

Tạ thế : 16-04-Đ. Sửu (1937). Thọ: 73 tuổi

Mộ táng : Gò Mít, Chà Rang, Vĩnh Trinh


Chánh thất:

Bà PHAN THỊ TRANG
Sanh : 20-06-Đ. Mão (1867) ở Bàn Lãnh

Con Ông Bà Tú tài Phan Tấn ở Bàn Lãnh, Điện Bàn

Tạ thế : 21-04-Đ. Tỵ (1917). Thọ: 51 tuổi

Mộ táng : Đồng Soi, Cổ Tháp


Sanh hạ:
- Ông Bùi Thống Â. Dậu (1885)

- Ông Bùi Biên T. Mão (1891)

- Ông Bùi Chuyết B. Thân (1896)

- Ông Bùi Thuyên M. Tuất (1898)

- Ông Bùi Phùng N. Dần (1902)
- Bà Bùi thị Em G. Ngọ (1894)
Ấu vong: 3 vị vô danh

TIỂU SỬ

Ông BÙI TÚC

(1865 - 1937)

----------O0O---------

Ông BÙI TÚC húy Văn Nghi, tự Tạ Công, tục danh Ông BÁ HUYNH là trưởng nam của Ngài Thị giảng Bùi Thân và Bà Chánh thất Nghi nhân Đặng thị Sung.

Ông sinh ngày 7-2-năm Ất Sửu (1865) tại Vĩnh Trinh.

Ông người thanh mảnh, mình hạc, xương mai, mắt sáng, tai to, râu vừa, ăn mặc bình dị, tính tình cương trực, nghiêm nghị.

Thuở nhỏ, Ông thụ giáo với Ngài Lưỡng khoa Tú tài Phan Tuyên tự Ngọc Trai, quê ở Bàn Lãnh, Điện Bàn.
Năm 20 tuổi - Giáp Thìn, 1884 - Ông kết duyên cùng Bà PHAN THỊ TRANG, ái nữ của Ngài Tú tài Phan Tấn, tự Khiết Kỷ, quê tại Bàn Lãnh.

Năm Ất Dậu, 1885, sau kỳ sơ tuyển ở Tỉnh, Ông lều chỏng lên đường ra Huế ứng thí, mong hiển thân bằng đường khoa cử. Nhưng kinh thành gặp cơn chính biến, Ông phải quay về, hoài bảo không thành.

Sang năm sau - Bính Tuất, 1886 - chẳng may thân mẫu Ông qua đời, Ông bèn gác mộng sách đèn, giúp đỡ phụ thân trông nom công việc gia đình.

Thân phụ Ông đã nhân danh Ông tự nguyện lạc quyên vào công cuộc cứu tế, xã hội, nên Ông đã được Triều đình Huế ân thưởng Tùng Cửu phẩm văn giai, Bá hộ. Từ đấy Ông được người ta gọi là Ông Bá Huynh.


Sau khi Ông có được Bà kế mẫu, Ông Bà xin ra biệt cư, ở ngay bên tả vườn của thân phụ.

Nhờ có ruộng đất của song thân trích hứa và cũng do sẵn tính siêng năng, cần kiệm, chẳng bao lâu Ông Bà đã trở thành một nhà cự nông trong vùng.

Ông bà sinh hạ được: 5 trai, 1 gái và 3 ấu vong.

Đối với gia đình, Ông là một người con hiếu, một người anh thuận, một người chồng đảm, một vị cha hiền.

Đối với họ hàng, làng xóm, Ông là một người tốt, sẵn sàng giúp đỡ mọi người.

Ông đã giúp phụ thân trong việc kiến thiết Nhà thờ Tiền Hiền, xây mộ Tiền Hiền, đã lạc cúng thêm tự điền cho Tộc, Phái và thôn, ấp, đã giúp đỡ đồng bào trong chương trình đắp đập khai mương.

Điểm đặc biệt là mặc dù hiền thê Ông mất sớm, nhưng Ông không tục huyền, chăm lo xây dựng cho con cái. Các con Ông đều có phẩm hàm và dinh cơ đồ sộ. Người thì ở lại nguyên quán, người ra lập nghiệp ở tha hương như Thanh Châu, Phú Nhuận, Thu Bồn, Trung Phước. Các cháu chắt Ông hầu hết đều học hành giỏi, đỗ đạt cao, có một số đã xuất dương du học.
Lúc vãn niên, Ông được quý tử - Ông Bà Bùi Phùng - rồi tiếp theo đích tôn - Ông Bà Bùi khắc Tục - chăm lo việc thần hôn rất nhiệt thành và chu đáo.
Tối rằm tháng 4 năm Đinh Sửu (1937) - sau mấy ngày cảm mạo khiếm an, nhưng vẫn tỉnh táo như thường - Ông bảo người nhà đi hái ít thứ lá cây, đem về nấu nước để lau mình và thay áo quần mới cho Ông. Ông lại bảo con cháu lo chuẩn bị nấu cúng sớm - vì sáng 16-4 là ngày chánh kỵ của Ngài Phạm thị Phụng, - để Ông kịp đi theo Bà Nội. Tuy vâng lời, con cháu vẫn không tin, nghĩ thầm là trong lúc đau yếu, Ông nói vậy thôi. Không ngờ, đúng như Ông đã nói, lúc trời vừa mờ sáng khi trưởng nam - Ông Bùi Thống - cùng một số Bà con mới cúng xong tuần rượu đầu ở nơi Từ đường (Nhà thờ Phái I), thì nơi tư thất vội tin lên là Ông vừa trút hơi thở cuối cùng một cách nhẹ nhàng, êm ái. Nhân đấy một thân điệt của Ông - Ông Bùi Thường - đã thường nói: "Bác Bá không tu mà bằng mấy tu. Sống một đời đạo hạnh, như Kinh Phật đã dạy, Bác đã:
"Khi mạng gần chung,

Biết trước giờ chết

Thân không bệnh khổ,

Tâm không tham luyến,

Ý không điên đảo,

Như vào thiền định …"


Ông thọ 73 tuổi, an táng tại Gò Mít, xứ Chà Rang, Vĩnh Trinh - tọa Giáp, hướng Dần, kiêm Canh Giáp - nơi Ông đã tự chọn từ lúc sanh tiền.
THẾ THỨ XV
Thế 12 : Ông Bùi văn Bảng Phái I

Thế 13 : Ông Bùi văn Kiết Chi 1

Thế 14 : Ông Bùi Thân

Ông BÙI HUÂN


Tục danh : Ông Chánh Huân, húy: Văn Bích

Con Ông Bùi Thân và Bà Đặng thị Sung

Sanh : năm M. Thìn (1868) tại Vĩnh Trinh

Chánh Tổng

Tạ thế : 26-07-T. Hợi (1911). Thọ: 44 tuổi

Mộ táng : Gò Ông Trùm Nam, Vĩnh Trinh


Chánh thất:

Bà NGÔ THỊ HUYỀN
Sanh : năm B. Dần (1866) ở Bảo An Tây

Con Ông Bà Ngô bá Lân (Ông Bà Bá Huyền) ở Bảo An

Tạ thế : 22-10-K. Mão (1939). Thọ: 74 tuổi

Mộ táng : Gò Ông Trùm Nam, Vĩnh Trinh


Thứ thất:

Bà TRƯƠNG THỊ CHỨC
Sanh : năm Đ. Sửu (1877) ở Lệ Trạch

Tạ thế : 18-10-B. Thân (1956). Thọ: 80 tuổi

Mộ táng : xứ Xóm Rậm, Cù Bàn
Sanh hạ:

Đích phòng:

- Ông Bùi Chước M. Tý (1888)

- Ông Bùi Huýnh T. Mão (1891)

- Ông Bùi Mộng Vũ N. Thìn (1892)

- Ông Bùi quang Hân G. Ngọ (1894)

- Ông Bùi Huyên Đ. Dậu (1897)

- Ông Bùi quang Huy K. Hợi (1899)

- Ông Bùi quang Minh T. Sửu (1901)


- Bà Bùi thị Dương B. Thân (1896)
Ấu vong: Bà Hai, Bà Tích, Ông Trí

Thứ phòng:

- Ông Bùi Chức K. Hợi (1899)

- Ông Bùi Điểm Q. Mão (1903)

Ấu vong: Ông Việt



THẾ THỨ XV
Thế 12 : Ông Bùi văn Bảng Phái I

Thế 13 : Ông Bùi văn Kiết Chi 1

Thế 14 : Ông Bùi Thân

BÙI THỊ THU


Tục danh : Bà Hương Cúc

Con Ông Bùi Thân và Bà Đặng thị Sung

Sanh : năm C. Ngọ (1870) tại Vĩnh Trinh

Tạ thế : 01-02-N. Dần (1962). Thọ: 93 tuổi

Mộ táng : xứ Thị Đa, La Tháp

Hôn phối :


Ông NGUYỄN DOÃN TẾ
Con Ông Bà Tú tài Nguyễn Doãn Thăng ngụ Cù Bàn
Sanh hạ:
- Ông Nguyễn Cúc (Ông Chánh Huệ)

- Ông Nguyễn Nhiên (Ông Trúc)

- Ông Nguyễn văn Hiến (Ông Nhự)

- Ông Nguyễn Đỉnh

- Ông Nguyễn văn Dư

- Ông Nguyễn Ngộ (Ông Tượng)

- Bà Nguyễn thị Hoè

- Bà Nguyễn thị Đinh



THẾ THỨ XV
Thế 12 : Ông Bùi văn Bảng Phái I

Thế 13 : Ông Bùi văn Kiết Chi 1

Thế 14 : Ông Bùi Thân

Ông BÙI DUY


Tục danh : Ông Nghè Trình, húy: Văn Đảnh

Con Ông Bùi Thân và Bà Đặng thị Sung

Sanh : năm Q. Dậu (1873) tại Vĩnh Trinh

Thọ Quan, Hàn Lâm viện Cung phụng

Tạ thế : 15-01-B. Tuất (1946). Thọ: 74 tuổi

Mộ táng : Bàu Dam, An Lâm


Chánh thất:

Bà PHAN THỊ TÔ
Sanh : năm G. Tuất (1874) ở Bàn Lãnh

Con Ông Bà Tú tài Phan Tuyên, quê Bàn Lãnh, ngụ Cổ Tháp

Tạ thế : 29-09-Đ. Mùi (1967). Thọ: 94 tuổi

Mộ táng : Hòa cường, Hòa Vang



Sanh hạ:
- Ông Bùi Quang M. Tuất (1898)

- Ông Bùi Diễn T. Sửu (1901)

- Ông Bùi Tăng Â. Tỵ (1905)

- Ông Bùi Ngọc Trâm Đ. Mùi (1907)

- Ông Bùi Công Hy T. Hợi (1911)

- Ông Bùi Kiêm B. Thìn (1916)

- Ông Bùi Sau C. Thân (1920)
- Bà Bùi thị Tráng Q. Mão (1903)

- Bà Bùi thị Giới M. Thân (1908)

- Bà Bùi thị Mạn G. Dần (1914)
Ấu vong: Bà Trình

TIỂU SỬ

Ông BÙI DUY

(1873 - 1946)

----------O0O---------
Ông BÙI DUY húy Văn Đảnh, tục danh Ông NGHÈ TRÌNH là thứ nam của Ngài Thị giảng Bùi Thân và Bà chánh thất Nghi nhân Đặng thị Sung.

Ông sinh năm Quý Dậu (1873) tại Vĩnh Trinh.

Ông tính tình ôn hòa, thuần hậu nhưng tác phong đạo mạo, nghiêm túc nên ai cũng kính mến.

Thuở nhỏ Ông thụ giáo với Ngài Lưỡng khoa Tú tài Phan Tuyên ở Cổ Tháp.

Ông đã từng đôi phen lều chỏng ra Kinh ứng thí, nhưng mộng khoa cử không thành, Ông lui về nối nghiệp nông tang.

Năm 22 tuổi - Giáp Ngọ, 1894 - Ông kết duyên cùng Bà PHAN THỊ TÔ, trưởng nữ của vị Thầy học cũ là Ngài Tú Lưỡng khoa nói trên.

Sau khi sinh cô con gái đầu - Bùi thị Trình (ấu vong) - Ông Bà được phụ thân và kế mẫu sắp đặt cho ra biệt cư ở An Lâm vào năm Bính Thân 1896. Phần nhờ có ruộng đất của song thân trích hứa, phần sẵn tính siêng năng cần mẫn, nên chẳng bao lâu Ông đã xây dựng được một dinh cơ gồm tất cả 4 nhà ngói lớn, tọa lạc trong một khu vườn rộng và chỉ trong khoảng 15 năm, đã tạo lập một sản nghiệp trên mấy trăm mẫu.

Ông Bà sinh hạ thêm được 7 trai và 3 gái sau này đều thành gia thất.

Thấm nhuần đạo lý Khổng Mạnh, Ông thường lấy nhân nghĩa làm phương châm trong việc tề gia, xử thế và giáo dục các con.

Ông rất sốt sắng với các công tác từ thiện và xã hội:

- Noi gương phụ thân, Ông Bà đã tự nguyện lạc cúng phần lớn số lúa thu hoạch được vào việc chẩn thại đồng bào địa phương lâm cảnh cơ hàn do trận lụt năm Đinh Tỵ, 1917 gây ra một cách kinh khủng.

- Cùng với Bào huynh là Ông Bá hộ Bùi Túc, Ông đã giúp phụ thân lo kiến thiết nhà thờ Tiền Hiền, tu tạo Đình, Chùa, Miếu vũ trong thôn ấp.

- Ông đã được quan viên, hào lão, lý hương trong Lục thôn cử làm khuyến thủ, hiệp lực cùng bào đệ là Ông Bùi Xước giữ chức Đốc công trong chương trình trùng tu Đình Châu (1).

- Ông đã xướng suất việc bồi trúc hương lộ từ dốc Đầu Voi ngoài An Lâm vào đến trong Vĩnh Trinh.

- Ông đã giúp đỡ nhiệt tình các vị hàn Nho (2).

- Ông đã được phụ thân ủy thác phụ trách việc chia gia tài cho các anh chị em trong đợt Duy tân IV.

Nhờ các việc nghĩa cử, lúc vãn niên, Ông đã được ân hưởng Hàn lâm viện Cung phụng và cũng từ đó Ông được gọi là Ông Nghè Trình.

Ông mất ngày 15-1-Bính Tuất (1946) thọ 74 tuổi, táng tại xứ Bào Dam, An Lâm. Bà mất ngày 29-9-Đinh Mùi (1967), thọ 94 tuổi, táng tại Hòa Cường, Hòa Vang.

Đến năm 1978, vì vấn đề quy hoạch ruộng đất, nên mộ của hai Ông Bà đều được cải táng về Gốc Dù, Vĩnh Trinh.
Ghi chú:
(1) Xin xem tài liệu về trùng tu Đình Châu (Thời kỳ thứ tư, niên hiệu Bảo Đại thứ X) trong phần Phụ lục.

(2) Qua câu đối của cụ Tổng đốc Nguyễn Đình Hiến ở Trung Lộc phúng điếu trong dịp tang lễ của Ngài Bùi Thân:
Phân kim hữu tử năng tri ngã;
Như ngọc kỳ nhơn vị điếu Ông.

Phỏng dịch:

Chia vàng con Bác từng thương tớ;

"Như ngọc người đời" kính điều Ông
ta thấy Ông Bùi Duy đã là một Mạnh Thường quân của Cụ Tổng đốc Họ Nguyễn ngay khi Cụ còn hàn vi.
THẾ THỨ XV
Thế 12 : Ông Bùi văn Bảng Phái I

Thế 13 : Ông Bùi văn Kiết Chi 1

Thế 14 : Ông Bùi Thân

Ông BÙI LỄ


Tục danh : Ông Kiểm Khái. Húy: Văn Tộ

Con Ông Bùi Thân và Bà Đặng thị Sung

Sanh : năm Â. Hợi (1875) tại Vĩnh Trinh

Kiểm phòng

Tạ thế : 07-09-G. Dần (1914). Thọ: 40 tuổi

Mộ táng : Xứ Cây Quắn, Thu Bồn


Chánh thất:

Bà NGUYỄN THỊ TRUYỆN
Con Ông Bà Tú tài Nguyễn Truyện

Quê : Châu Phong, Thanh Châu

Tạ thế : 16-02-Âm lịch

Mộ táng : Châu Phong, Thanh Châu


Kế thất:

Bà TRẦN THỊ LỄ
Con Ông Bà Chánh Tổng Trần Quát ở Gia Cốc, Đại Lộc

Tạ thế : 13-10-Đinh Hợi (1947)

Mộ táng : Thuận Long, Quế Sơn
Thứ thất:

Bà TRẦN THỊ ĐIỂU
Quê : Gia Cốc, Đại Lộc

Tạ thế : 27-02-Đinh Hợi (1947)

Mộ táng : xứ Bàu Đá, Phú Đa (vườn Ông Chánh Khóa)
Sanh hạ:

Đích phòng:

Ấu vong: Ông Khái, Bà Sừng



Kế phòng:

- Ông Bùi Nhạc T. Sửu (1901)

- Ông Bùi Thành Q. Mão (1903)

- Ông Bùi Gia Â. Tỵ (1905)

- Ông Bùi hữu Lực Đ. Mùi (1907)
Ấu vong: Ông Tỷ, Bà Lượng

Thứ phòng:

- Bà Bùi thị Ngư G. Thìn (1904)

- Bà Bùi thị Điệp Â. Tỵ (1905)
Ấu vong: Bà Điểu

THẾ THỨ XV
Thế 12 : Ông Bùi văn Bảng Phái I

Thế 13 : Ông Bùi văn Kiết Chi 1

Thế 14 : Ông Bùi Thân

Ông BÙI THIỆU


Tục danh : Ông Cửu Kiến. Húy: Văn Đề

Con Ông Bùi Thân và Bà Đặng thị Sung

Sanh : năm B. Tý (1876) tại Vĩnh Trinh

Tùng Cửu phẩm Văn giai

Tạ thế : 09-10-Đ. Mùi (1907). Thọ: 32 tuổi

Mộ táng : Gò Miệt, xứ Đồng Kỳ, Phú Đa


Chánh thất:

Bà ĐỖ THỊ QUỐC
Hiệu : Bang Viện

Sanh : năm Mậu Dần (1878) ở Cổ Tháp

Con Ông Bà Bá Hộ Đỗ Qụy (Ông Bá Năm) ở Cổ Tháp

Tạ thế : 10-09-Giáp Tý (1924). Thọ: 47 tuổi.

Mộ táng : An Lâm, Mậu Chánh
Thứ thất:

Bà VÕ THỊ CƯƠNG
Con Ông Bà Võ Cương ở Thạnh Xuyên

Tạ thế : 18-08-Q. Mão (1903)

Mộ táng : vườn Đình, Thạnh Xuyên
Sanh hạ:

Đích phòng:

- Bà Bùi thị Kiến K. Hợi (1899)

- Bà Bùi thị Thủ Q. Mão (1903)
- Ông Bùi Doãn T. Sửu (1901)

- Ông Bùi Thường Â. Tỵ (1905)

- Ông Bùi Lục B. Ngọ (1906)
Thứ phòng:

Ấu vong: Bà Mốc, Bà Vện



TIỂU SỬ

Ông Bà BÙI THIỆU

(1873 - 1946)

----------O0O---------
Ông BÙI THIỆU húy Văn Đề, tự Tục Thừa, thụy Cung Phát, tục danh Ông CỬU KIẾN.

- Sinh năm B. Tý (1876), tại Vĩnh Trinh, con trai út về đích phòng của Ngài Thị giảng Bùi Thân, thuộc một vọng tộc ở trong vùng.

- Người tầm vóc trung bình, thông minh và cương trực.

- Thuở nhỏ cũng theo đòi kinh sử như các gia huynh, nhưng không đua chen về khoa cử.

- Ông lập gia đình năm 20 tuổi, kết duyên cùng bà ĐỖ THỊ KIẾN, húy Quốc, hiệu Bang Viện, Pháp danh Như Cư.

- Năm 1898, Ông Bà lên cư ngụ tại làng Phú Đa.


- Hoạt động về kinh tế:

  • Dựng xe gió để dẫn thủy nhập điền.

  • Lập các trại ép mía và các lò nấu đường.

  • Cho chở đường xuống bán ở Hội An.

  • Trồng dâu nuôi tầm.

  • Nơi thổ cư, cho trồng rau xen các loại cây ăn quả.

  • Ngoài số đất cha mẹ trích hứa - 200 mẫu - Ông Bà đã tạo mãi thêm hơn 150 mẫu và kiến thiết được một tòa nhà đồ sộ.

- Rất sốt sắng với các việc nghĩa cử, nên được ân thưởng hàm Cửu phẩm Văn giai.

- Trong gia đình, ngoài tộc đảng, ở nguyên quán cũng như nơi cư ngụ, Ông đều được mọi người kính mến.

- Ông mất ngày 9-10-Đinh Mùi (1907), thọ 32 tuổi, để lại hiền thê mới có 28 tuổi cùng với 5 con thơ.


- Sinh trưởng trong một gia đình thấm nhuần đạo đức Khổng Mạnh và lại là một Phật tử thuần thành, Bà đã hôm sớm lo thờ chồng, nuôi con, xứng đáng với 4 chữ: "Tiết hạnh khả phong" do Triều đình Huế khâm tứ.

- Ngoài việc thủ thành sự nghiệp của chồng, Bà còn tạo mãi thêm được hơn 100 mẫu nữa.

- Tích cực với mọi công tác xã hội và từ thiện như lạc cúng đất và tiền để sùng tu đình chùa miếu vũ, xây dựng trường học, tu bổ kiều lộ, cứu trợ đồng bào trong các cơn thiên tai, thủy lạo.

- "Uống nước nhớ nguồn", Bà đã trích trí các phần đất xứng đáng để hằng năm lo kỷ niệm húy nhật của Nhạc phụ và phụng tự Song thân.

- Cư xử đức độ đối với bà trắc thất.

- Ở hiền gặp lành: Dù có bị ăn cướp (1915), Bà và các con đã may mắn tránh khỏi tai họa trong đường tơ kẻ tóc.

- Bà đã thức thời, cho các con chuyển sang Tân học đúng lúc. Thứ nam của Bà là một trong những người thi đỗ Tây học sớm nhất ở trong tộc lúc bấy giờ.

- Bà đã lo xong việc nam hôn nữ giá một cách viên mãn.

- Bà mất ngày 10-09 G. Tý (1924), hưởng thọ 47 tuổi.
Sau sự tàn phá của chiến tranh, nhà cửa không còn nữa, và với sự cải tạo về nông nghiệp, ruộng đất là của nhân dân. Nhưng phước ấm của Ông Bà vẫn còn mãi mãi và thân thế cùng sự nghiệp của Ông Bà vẫn là một gương sáng cho con cháu nội ngoại sau này.
THẾ THỨ XV
Thế 12 : Ông Bùi văn Bảng Phái I

Thế 13 : Ông Bùi văn Kiết Chi 1

Thế 14 : Ông Bùi Thân

Bà BÙI THỊ HẬU


Tục danh : Bà Học Tài

Con Ông Bùi Thân và Bà Đặng thị Sung

Sanh : năm Â. Dậu (1885) tại Vĩnh Trinh

Tạ thế : 28-04-M. Thân (1968). Thọ: 84 tuổi

Cải táng : Nghĩa trang T.V.A.H, Gò Dưa, Thủ Đức
Hôn phối : (1)
Ông PHAN THÀNH TÀI
Sanh : năm Mậu Dần (1878) tại Bảo An, Đ. Bàn

Con Ông Bà Cử nhân Phan thành Tích ở Bảo An

Nhà Ái quốc trong phong trào Duy Tân

Tạ thế : 09-05-B. Thìn (1916)

Mộ táng : Vĩnh Điện, Điện Bàn

Sanh hạ:
- Ông Phan Bá Lân

- Ông Phan Kình

- Ông Phan Thuyết

- Ông Phan Út


- Bà Phan thị Giao

- Bà Phan thị Soan

- Bà Phan thị Bí

Ghi chú:
(1) Một trong những vị Lãnh đạo Phong trào Duy Tân với trọng trách: Phó Nguyên soái lãnh Nam kỳ Kinh lược sứ. Rất tiếc Phong trào này thất bại, nên Ông đã bị thực dân Pháp kết án tử hình.

THẾ THỨ XV
Thế 12 : Ông Bùi văn Bảng Phái I

Thế 13 : Ông Bùi văn Kiết Chi 1

Thế 14 : Ông Bùi Thân

Ông BÙI PHONG


Tục danh : Ông Hương Hoanh. Húy: Văn Thể

Con Ông Bùi Thân và Bà Nguyễn thị Đệ

Sanh : năm Đ. Hợi (1887) tại Vĩnh Trinh

Tạ thế : 08-03-K. Tỵ (1929). Thọ: 43 tuổi

Mộ táng : Xứ La Ngà, Chiêm Sơn
Chánh thất:

Bà ĐÀO THỊ PHẨM
Sanh : năm Mậu Tý (1888) ở Vĩnh Trinh

Con Ông Bà Đào văn Bửu (Ông Thủ Bửu) ở Vĩnh Trinh

Tạ thế : 01-09-K. Mùi (1979). Thọ: 92 tuổi.

Mộ táng : Xứ La Ngà, Chiêm Sơn


Thứ thất:

Bà SỎ
Quê : Chiêm Sơn

Mộ táng : Xứ La Ngà, Chiêm Sơn


Sanh hạ:

Đích phòng:

- Bà Bùi thị Hoanh Đ. Mùi (1907)

- Bà Bùi thị Tâm K. Dậu (1909)

- Bà Bùi thị Phúc T. Hợi (1911)

- Bà Bùi thị Mãn N. Tý (1912)

- Bà Bùi thị Thôi G. Dần (1914)

- Bà Bùi thị Đa Đ. Tỵ (1917)
Ấu vong: Bà Quá
Thứ phòng:

- Ông Bùi văn Hiếu T. Dậu (1921)


Ấu vong: Ông Chối

THẾ THỨ XV
Thế 12 : Ông Bùi văn Bảng Phái I

Thế 13 : Ông Bùi văn Kiết Chi 1

Thế 14 : Ông Bùi Thân

BÙI THỊ SỰ


Tục danh : Bà Bá Trợ

Con Ông Bùi Thân và Bà Nguyễn thị Đệ

Sanh : năm K. Sửu (1889) tại Vĩnh Trinh

Tạ thế : 03-12-T. Dậu (1921). Thọ: 33 tuổi

Mộ táng : Quảng Hóa Đông, Đại Lộc
Hôn phối:

Ông LÊ LANG
Con Ông Bà Cửu Phẩm Lê Thước ở Quảng Hóa, Đại Lộc

Bá Hộ


Tạ thế : 21-02-Âm lịch

Mộ táng : Quảng Hóa Đông, Đại Lộc



Sanh hạ:
- Bà Lê thị Trợ

- Bà Lê thị Biên

- Bà Lê thị Chức

- Bà Lê thị Phận

- Bà Lê thị Bảy
- Ông Lê văn Dán

- Ông Lê văn Chúc

- Ông Lê Nghĩ

THẾ THỨ XV
Thế 12 : Ông Bùi văn Bảng Phái I

Thế 13 : Ông Bùi văn Kiết Chi 1

Thế 14 : Ông Bùi Thân

BÙI THỊ THẢO


Tục danh : Bà Bác Học

Con Ông Bùi Thân và Bà Phạm thị Thuận

Sanh : năm K. Sửu (1889) tại Vĩnh Trinh

Tạ thế : 22-11-M. Dần (1938). Thọ: 50 tuổi

Mộ táng : xứ Cây Sanh, Đại Cường, Đại Lộc
Hôn phối:

Ông NGUYỄN HỮU ĐẰNG
Sanh : năm Đ. Hợi (1887) ở Phúc Khương, Đại Lộc

Con Ông Bà Nguyễn Hữu Chánh ở Phúc Khương

Hàn lâm viện Kiểm Tịch

Tạ thế : 06-12-Q. Mùi (1943). Thọ: 57 tuổi

Mộ táng : xứ Trà Khóa, Phú Xuân, Đại Lộc

Sanh hạ:
- Ông Nguyễn Hữu Hoán Q. Sửu (1913)

- Ông Nguyễn Hữu Diệu G. Dần (1914)

- Ông Nguyễn Hữu Hy B. Thìn (1916)

- Ông Nguyễn Hữu Bính Q. Hợi (1923)

- Ông Nguyễn Hữu Huyến Ấ. Sửu (1925)
- B. Nguyễn Thị Yên T. Dậu (1921)

- B. Nguyễn Thị Yên Sơn M. Thìn (1928)



- B. Nguyễn Thị Trúc Lâm C. Ngọ (1930)
Ấu Vong:
Ô. Phẩm, Ô. Bồi, Ô. Giai, Ô. Thiên, B. Thai



/


tải về 79.67 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương