Tác giả Võ Long Tê chưƠng I bối cảnh lịch sử



tải về 0.8 Mb.
trang2/11
Chuyển đổi dữ liệu29.07.2016
Kích0.8 Mb.
#9275
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11

Ai lạc tâm trường


Lực lai tương địch.

Theo sự giải thích của Phùng Khắc Khoan, bài thơ tứ tuyệt là một lối chơi chữ hiểm hóc, tựu trung có nghĩa là:

Dư bấc thụ sắc.

Cuộc tranh chấp giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài đã chính thức khởi diễn. Trịnh, Nguyễn đánh nhau bảy lần vào những năm 1627, 1630, 1648, 1655, 1661 và 1672. Con sông Gianh trở nên ranh giới giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài.


4. Nam tiến
Công nghiệp quan trọng nhất của chúa Nguyễn là hoàn thành cuộc Nam tiến. Cuối thế kỷ XV nước ta chỉ mở rộng đến Bình Định. Năm 1611, Nguyễn Hoàng đánh Chiêm Thành, lấy đất lập ra phủ Phú Yên. Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tân lại can thiệp vào nội bộ Chiêm Thành, để từ sông Phang Lang trở vào Nam cho vua Chiêm, còn từ sông ấy trở ra Bắc lập thành Thái Ninh phủ, sau đổi thành phủ Diên Khánh (tức Khánh Hòa ngày nay).

Ngay từ đầu thế kỷ XVII, một số người Việt lánh nạn binh đao, đã vào khai khẩn đất đai và lập nghiệp ở Thuỷ Chân Lạp (tức Nam Việt bây giờ), nhất là ở vùng Mô Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai (Biên Hòa). Đến năm 1658, chúa Nguyễn Phúc Tân lại chính thức can thiệp vào nước Chân Lạp, đem quân đánh ở Mỗi Xuy (Biên Hòa ngày nay), bắt vua Nặc Ông Chân đem về giam ở Quảng Bình một thời gian rồi tha cho về nước, bắt phải triều cống và bênh vực người Việt cư trú ở Thuỷ Chân Lạp. Cuộc chinh phục ôn hòa này sẽ hoàn tất vào cuối thế kỷ XVII.


5. Một cuộc khủng hoảng phát triển
Đã đến lúc cần đưa ra một vài kết luận về tình hình chính trị trong khoảng 150 năm, từ lúc nhà Hậu Lê suy đồi đầu thế kỷ XVI cho đến Trịnh Nguyễn phân tranh giữa thế kỷ XVII.

Các nhà vua thời Lê Mạc không đủ tư cách đảm đương việc nước nhưng lòng dân vẫn nặng tình hoài Lê nên nhà Lê đã trung hưng. Gia dĩ nhà Mạc vẫn noi theo chánh sách của nhà Lê, không cống hiến điều gì đặc sắc nên cơ nghiệp không bền vững.

Nhưng sự trung hưng của nhà Lê chính là cơ hội gây nên sự phân tranh giữa hai họ Trịnh, Nguyễn. Hậu quả tốt đẹp bất ngờ của sự phân tranh là Đàng Ngoài được củng cố và Đàng Trong được mở rộng về phía Nam. Sự tan rã nền thống nhất quốc gia chính là cuộc khủng hoảng của một quốc gia đang phát triển.

 

`II. TÌNH HÌNH VĂN HỌC


Văn học thế kỷ XVI và tiền bán thế kỷ XVII chịu ảnh hưởng của những giao động chính trị và chuyển mình để tiến đến một giai đoạn mới, đón nhận những nguồn cảm hứng và thể cách diễn đạt mới.
`1. Văn học thể kỷ XVI
Dương Quảng Hàm gọi thế kỷ này là thời kỳ văn học Lê, Mạc và nhận xét như sau:

“Trong thời kỳ này, Nho học nhờ có triều đình cổ võ và tưởng lệ, nên dần dần át cả Phật học mà chiếm địa vị ưu thắng.

“Còn tác phẩm về Hán văn đã có phần phong phú, có nhiều thơ văn, sách vở xuất hiện. Nhưng tuy về đường từ chương có tiến mà về đường đạo lý ngày một kém dần. Trừ những bộ sử ký và sách truyện kí, hầu hết các tác phẩm đều là thơ văn ngâm vịnh cả.

“Văn nôm thì sau thời kỳ phôi thai nhà Trần, một ngày một phát đạt, nhưng nền văn ấy còn chịu ảnh hưởng của văn Tàu nhiều (dùng nhiều chữ nho, mượn đề mục, thi tứ, cảnh sắc ở thơ văn Tàu)”.[4]

Chúng ta hãy lược kể những tác giả và tác phẩm quan trọng.

Lê Đức Mao (1462-1527) đậu tiến sĩ năm 1505 mở đầu thế kỷ XVI với Bài hát chúc làng, thuộc loại hát ả đào, vào ngày hội xuân, tế thần cầu phúc, gồm 128 câu chia làm 9 đoạn.

Nối tiếp truyền thống văn học đời Hồng Đức, vua Lê Tương Dực (1510-1516) sai Binh bộ thượng thư Vũ Quỳnh làm sách Đại Việt thông giám thông khảo (1511) và Lễ bộ thượng thư Lê Tung làm bài toát yếu bộ sử này, nhan đề là Đại Việt thông giám tổng luận (1514). Chính nhà vua còn trứ thuật các sách Trị bình bảo phạm, Trung hưng thực lục, Bảo thiên thanh hạ tập, Quang hiên thanh hạ tập [5]. Ngoài thơ Hán văn, nhà vua còn làm thơ quốc âm.[6]

Bùi Vinh (1508-1545) đậu Bảng nhãn năm 1532 đời vua Mạc Đăng Doanh, về hán văn có làm bài thơ ngũ ngôn 49 vần, bài phú Đế đô hình thắng, về văn nôm có làm bài Cung trung bảo huấn[7] dụng ý dạy hai cháu gái là cung nữ nhà Mạc.

Nguyễn Hãng đậu cử nhân đời vua Lê Tương Dực, đang học thi Hội ở Quốc tử giám thì Mạc Đăng Doanh tiếm ngôi (1527) bèn về ẩn cư ở xã Đại Đồng (tỉnh Tuyên Quang). Họ Vũ chống nhà Mạc, đóng quân ở xã này, có mời ông làm quan, nhưng ông chối từ. Bài phú nôm của ông nhan đề là Tịch cư ninh thể phú diễn tả nỗi lòng của một người gặp thời loạn lạc muốn thoát khỏi vòng danh lợi, xứng với danh hiệu Thảo mao dật sĩ do nhà Lê truy phong. Bài phú Tam ngưng động, hiện thất truyền, chắc cũng lấy thoát tục làm chủ đề. Bài phú Đại đồng phong cảch hiện còn lưu truyền.[8]

Hoàng Sĩ Khải, đậu tiến sĩ năm 1544, làm quan với nhà Mạc đến chức Hộ bộ thượng thư, nổi tiếng về thơ nôm với các tập Sử trình khúc, Tứ thời khúc, Tiền độc lạc thú[9]. Bản Tứ thời khúc[10] còn được lưu truyền, gồm 340 câu theo thể song thất lục bát. Xét ra, tác phẩm này được viết ra vào thời vua Lê chúa Trịnh đã đánh đuổi được nhà Mạc, nội dung bao hàm xảo ý chúc tụng ngợi khen của một cựu thần nhà Mạc được tân triều khoan dung đãi ngộ, ngoài phần dụng điển miêu tả bốn mùa còn ghi được nhiều lễ nghi tục lệ cổ thời.

Hà Nhiệm Đại, đậu tiến sĩ năm 1574 đời vua Mạc Mậu Hợp (1562-1592) là tác giả một tập thơ vịnh sử vừa chữ Hán vừa chữ Nôm, nhan đề là Khiếu vịnh thi tập, bình luận xác đáng về các nhân vật lịch sử Việt Nam.[11]

Nguyễn Lễ, đậu tiến sĩ năm 1568 đời vua Mạc Phúc Nguyên (1546-1561), khi nhà Mạc mất, bỏ về ẩn dật ở núi Huyền Đăng, có làm thơ quốc âm, tỏ ý thoát tục.[12]

Trịnh Kiểm (?-1570) cũng có tài về văn nôm. Văn học sử còn lưu bản Trịnh Kiểm di Phan Quận Công thư[13], giọng điệu mộc mạc, ý tứ rõ ràng.

Nhưng tiêu biểu cho thế kỷ XVI chính là Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1587) với tập thơ chữ Hán Bạch Vân am tập và tập thơ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi. Từ cuộc đời cho đến tác phẩm, Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất hiện như một tâm thức bi đát của một thời loạn lạc.

Nguyễn Bỉnh Khiểm, huý là Văn Đạt, tự là Hạnh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ được nhà Mạc phong tước Trình Toàn Hầu rồi Trình Quốc Công, lại đậu trạng nguyên dưới triều vua Mạc Đăng Doanh (1530-1540) nên tục gọi là Trạng Trình, đời sau tôn là Tuyết Giang phu tử. Ông người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lạc nay là phủ Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương. Vốn là môn sinh của quan bảng nhãn thượng thư Lương Đắc Bằng, một nhà nho lỗi lạc, giỏi lý số. Ông trưởng thành trong thời Lê mạt, học giỏi nhưng không chịu đi thi, năm 44 tuổi mới thi hương (1534) và năm sau đậu trạng nguyên. Ông làm quan 8 năm, đến chức Lại bộ Tả Thị Lang kiêm Đông Các Đại Học Sĩ, từng sâng sớ hạch tội 18 lộng thần, đến năm 1542 xin về trí sĩ; ẩn cư ở Bạch Vân am. Từ đấy, ông từ chối không trở lại chính trường hoạn lộ, thường dùng những lời bóng bẩy để khuyên bảo những chính khách đương thời. Ông nghiên cứu kinh Dịch, nổi tiếng về khoa bói Thái At, lưu truyền nhiều câu sấm ký tiên đoán vận mệnh tương lai.[14]

Giáo sư Đỗ Đình đã nhận định rất xác đáng về Nguyễn Bỉnh Khiêm như sau:

“Ông là một nhân vật bình dân và kỳ bí. Trong thời ẩn cư, ông là hiện thân của tài trí trầm tư mặc tưởng. Thoạt tiên, người ta không nghe ông nói gì, nhưng khi đã lắng tai chú ý, người ta phải cầm trí theo dõi, tưởng không bao giờ bỏ qua được. Mà ông nói những gì, ông biết những gì? Đó là những điều rất giản dị. Đó là đạo lý do các nhà tư tưởng Trung Hoa thế kỷ XIII thuộc hệ phái Chu Hy suy diễn từ nguồn mạch trong kinh Dịch cổ kính. Đó là nguyên lý trung hòa và tương khắc tương sinh. Vực sâu một ngày kia sẽ hóa thành bãi cát ven bể, cái gì lên cao sẽ hạ xuống, cái gì nhỏ sẽ thành lớn, họa đi đôi với phúc, phú quý đi đôi với bần hàn, mọi sự đều diễn biến trong vòng âm dương đối nghịch. Bậc trí giả lui về ẩn cư ở Bạch vân am, hiểu rằng có gì là của riêng, Nguyễn Bỉnh Khiêm minh giải điều đó bằng thi điệu cổ điển ngôn từ đối xứng:

Am Bạch Vân rồi nhàn hứng

Đám hồng trần biếng ngại chen

Ngày dài hợp mặt hoa là khách

Đêm vắng soi lòng nguyệt ấy đèn.

Trong cảnh hòa điệu nhập thần với tự nhiên thâm sâu, có cái gì hơn cả tài trí lịch duyệt, hơn cả học thuật uyên bác sinh động trong chốn ẩn dật nhàn cư, chính là cái nhìn sâu sắc bi đát hướng về cuộc tồn sinh”.[15]


2. Văn học tiền bán thế kỷ XVII
Bước sang thế kỷ XVII, tư tưởng thoát tục mà hướng nội của Nguyễn Bỉnh Khiêm còn di truyền trong tác phẩm của một môn đệ là Phùng Khắc Khoan (1529-1613). Ông đậu tiến sĩ năm 53 tuổi (1580) làm quan đến chức Hộ bộ thượng thư, tước Mai Quận Công. Về Hán văn, ông là tác giả Phùng Công thi tập (cũng gọi là Nhi trai thi tập) sáng tác trong dịp đi xứ Trung Hoa, năm 1597. Về quốc âm, ông soạn Ngu phủ nhập Đào Nguyên truyện, Sấm văn và Chu Dịch quốc âm ca quyết.

Nguyễn Văn Giai[16] đậu tiến sĩ đời vua Lê Thế Tông (1573-1599), có công đánh nhà Mạc, làm đến chức Lại Bộ thượng thư kiêm chưởng lục bộ sự vụ, kiêm Đô đài ngự sử Phong Quận công. Sách Văn đàn bảo giám[17] có sao lục bốn bài thất ngôn của tác giả, chứng tỏ tác giả một hàn nho (bài Nghèo nằm co) sống vào thời Lê trung hưng sau khi đã khôi phục Thăng Long (bài Nói khoát), làm quan được nhiều uy tín và ân sủng (bài Trình khứ hưu), có nhân cách đa tình đa cảm (bài Chê gái lấy chồng già) và gốc gác ở Nghệ Tĩnh (bài Chê gái lấy chồng già) vì có nhiều thổ âm vùng này.

Nguyễn Minh Triết (1567-1662) đậu thám hoa năm 1631 niên hiệu Đức Long (1629-1634) đời vua Lê Thần Tông (1619-1643) làm quan đến chức Binh bộ thượng thư. Sách Hải dương phong vật khúc của Trần Đạm Trai, người cuối Lê đầu Nguyễn có viết về Nguyễn Minh Triết:

Nhiệm an lão cập tuần năm lẻ,

Khoa tân mùi (1631), đệ nhị danh khôi

Đã hay thần mộng yên bài,

Ngọc lành cũng bởi chuốc mài ra công.

Thơ quốc âm của ông còn lưu truyền bài Thơ hà tiện và đôi câu đối.[18]

Những nhà thơ trên đây đều ký thác trong tác phẩm nguyện vọng thoát tục, nỗi lòng hoài cổ, là những chủ đề thích dụng từ thế kỷ trước. Hầu hết họ đã từng làm quan ở Đàng Ngoài, hoặc với nhà Mạc, hoặc với nhà Lê trung hưng. Trước thế cuộc xoay vần nhanh chóng, hầu hết đều có phản ứng nhận định giống như Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Nhà thơ đặc sắc của tiền bán thế kỷ XVII, chính là Đào Duy Từ (1572-1634) với sự nghiệp chính trị, quân sự phục vụ chúa Nguyễn ở Đàng Trong và với các thi phẩm chữ nôm: Ngọa long cương vãn, Tư dung vãn và binh thư Hổ trướng khu cơ. Ay là nhà văn đầu tiên của Đàng Trong và cũng là một người trong thế hệ tiền phong rời bỏ Đàng Ngoài để vào Đàng Trong, nam tiến theo đường hướng phát triển tự nhiên của dân tộc.

Ông người làng Hoa trai, huyện Ngọc Sơn, tỉnh Thanh Hóa, học giỏi, con ông Đào Duy Hán làm chức linh quan coi đội nữ nhạc đời vua Lê Anh Tông (1553-1573), vì quan trường theo thành kiến xuớng ca vô loại nên ông bị đánh hỏng trong kỳ thi hương. Ông phẫn chí, vào Đàng Trong mưu lập sự nghiệp. Ông đến Bình Định ở chăn trâu cho một phú gia làng Tùng Châu, huyện Bồng Sơn, phủ Hoài Nhân, giống như Bách Lý Hề đời Tấn, làm tập Ngọa long cương vãn, tự ví mình với Gia Cát Lượng. Quan khâm lý xứ Quy Nhơn Trần Đức Hòa gả con gái và tiến cử Đào Duy Từ với chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635). Ông được thu dụng là Nha uý Nội Tán phong tước Lộc Khê Hầu, coi sóc việc nội ngoại quân cơ, tham lý quốc chính. Ông có công trong việc xây đắp đồn Trường Dục (ở huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình) và luỹ Nhật Lệ (ở cửa Đồng Hới) tức là Định Bắc trường thành, tục gọi là Luỹ Thầy.

Trong tập Ngọa long cương vãn dài[19] 136 câu, Đào Duy Từ ca tụng thú thanh nhàn ẩn dật như Nguyễn Bỉnh Khiêm:

Thú vui bốn thú thêm yêu,

Kìa ngư, nọ mục, ấy tiều, này canh.

Hạc già trực cửa nghe kinh,

Trái dâng màu thắm, thức xanh phượng quỳ.

Gốc ngăn trúc uốn vo ve,

Ngõ đua hạnh tía, hiên khoe cúc vàng.

Lời thơ bình dị nhưng uyển chuyển hơn Bạch vân quốc ngữ thi, nhưng điều khác biệt đáng nói hơn cả là xu hướng hoạt động nhập thế của Đào Duy Từ. Trong lúc Nguyễn Bỉnh Khiêm ngồi nhìn nước sông Tuyết Giang với đôi mắt thản nhiên của một ẩn sĩ, Đào Duy Từ vượt trùng dương đi tìm một đất hứa. Trong khi phục vụ ở Đàng Trong, ông là người công thần văn võ kiêm toàn với tài đức của một Khổng Minh mà ông đã cực tả:

Có phen xem tượng Thiên tào

Kìa ngôi khanh tướng, nọ sao quân thần

Có phen binh pháp diễn trần,

Điểu xà là trận, phong vân ấy đồ.

Có phen thơ túi rượu hồ,

Thanh y sớm chúc, hồ lô tối mời.

(Ngọa long cương vãn)

Nếu Ngọa long cương vãn là ngọn gió khí phách hào hùng từ Bắc chuyển vào Nam thì tập Tu Dung vãn dài 336 câu là cái nhìn tha thiết hướng về giang san cẩm tú mà cửa Tư Dung (tức là cửa Tư Hiền ở Thừa Thiên) là một biểu tượng thanh nhã:

Vẳng nghe tiếng mõ già lê,

Ngồi phiền bến não, rữa thì sạch không.

Dịch nên cảnh lạ vô song,

Hứng xui tao khách điệu trùng ngợi khen.

Vừa là tao nhân mặc khách, vừa là kẻ ưu thời mẫn thế, Đào Duy Từ đã thực hiện sự hòa điệu kỳ thú giữa thi văn và hoạt động.

Trở lên là những tác giả chính yếu trong khoảng thế kỷ XVI và tiền bán thế kỷ XVII. Muốn được đầy đủ, chúng ta phải kể hai cuốn truyện bằng thơ Đường luật, chưa tìm ra tác giả nhưng soạn niên được các học giả phỏng định thời Lê mạt. Đó là truyện Tô Công phụng sứ và truyện Bạch Viên Tôn Các (còn biệt nhan là Lâm Tuyền kỳ ngộ).

Truyện Tô Công phụng[20] sứ gồm 24 bài thơ Đường luật, là truyện Hán Vũ Đế sai Tô Vũ đi sứ Hung Nô và bị Hung Nô cầm tù 19 năm. Lời thơ có những chữ cổ thịnh hành thời Lê Mạc. Đối chiếu cốt truyện với Việt sử, chúng ta thấy đời Mạc có Nguyễn Quang Bật đi sứ nhà Minh cũng bị giữ ở Tàu 19 năm (1548-1566). Vua Mạc Phúc Nguyên nhờ chuyện Tô Vũ phong cho ông là Tô quận công. Phải chăng tập thơ này của Nguyễn Quang Bật?

Truyện Bạch Viên Tôn Các (hay Lâm Tuyền kỳ ngộ)[21] gồm 150 bài thơ Đường luật, căn cứ vào chữ cổ thì cũng đoán là xuất hiện thời Lê Mạc. Truyện kể một tiên nữ bị lưu đày xuống cõi trần làm con vượn trắng biết nói và đi tu tiên là Bạch Viên, mãn hạn lưu đày Bạch Viên hóa thành một thiếu nữ xinh đẹp kết duyên với Tôn Các và sinh hạ được hai con. Sau khi về cõi tiên, Bạch Viên nhớ chồng con và xin phép xuống trần tái hợp. Câu chuyện kết thúc khi Tôn Các đậu Trạng làm quan tại Kinh.

Thật khó mà trình bày đầy đủ 150 năm văn học trong một tiết mục của một chương sách. Để bổ khuyết, chúng ta thử đưa ra những nhận định đại cương về tánh cách văn học của thời kỳ này.


3. Tổng quan về văn học thế kỷ XVI và tiền bán thế kỷ XVII
Truyền thống tôn trọng đạo lý của thời kỳ trước vẫn được duy trì nhưng không được hiển minh như trước. Khuynh hướng giáo huấn chi phối ngay cả những đề mục có tính chất tự tình. Tình cảm cá nhân bị dồn ép dưới uy lực của đoàn thể, của các giáo điều. Dù thỏa hiệp với chính quyền hay dù ẩn cư nhàn dật, các nhà văn chú trọng biện minh cho thái độ xử thế của mình hơn là giải bày trực tiếp tâm tư.

Tuy nhiên bầu không khí văn học trầm tĩnh ấy đã bắt đầu xao xuyến vì một ngôn ngữ văn chương mới tạo nên những nét dị biệt bất đồng.


a. Một ngôn ngữ văn chương mới

Về hình thức chúng ta nhận thấy nỗ lực tìm kiếm một ngôn ngữ văn chương mới. Lối dụng ngữ chú trọng đến danh từ đặc biệt của thời đại. Tác phẩm của Lê Đức Mao, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ gồm có nhiều chữ cổ, nhiều thể cách diễn đạt đặc biệt thời Lê, Mạc.

Về thể cách, lối hát ả đào được phổ biến với Bài hát chúc làng của Lê Đức Mao. Lối lục ngôn thể, thịnh hành đời Hồng Đức, còn được ứng dụng trong Bạch Vân quốc ngữ thi nhưng xao nhãng trong tiền bán thế kỷ XVII. Lối song thất lục bát manh nha trong Bài hát chút làng, đã bắt đầu ổn định trong Tứ thời khúc vịnh của Hoàng Sĩ Khải, báo hiệu tính chất điêu luyện của Chinh Phụ Ngâm sau này:

Gió hiu hiu gối cao song bắc,

Tả mối sầu, chẳng mắc chút lo

Tréo chân, nằm ệch, ngáy pho

Ngẫm hay chẳng khác người vua Hy, Hoàng.

Lối phú nôm đã trở nên thuần nhã, báo hiệu những tác phẩm đặc sắc đời sau. Tịch cư ninh thể phú đáng kể là một bài phú có giá trị nghệ thuật.

Muốn nhận thấy phần đóng góp mới mẻ của thế kỷ XVI và tiền bán thế kỷ XVII thiết tưởng chúng ta có thể so sánh bút phát của Nguyễn Trãi (thế kỷ XIV) với bút pháp của Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỷ XVI) và Đào Duy Từ (thế kỷ XVII).

Nguyễn Trãi còn lý luận về cảnh nhàn, còn bị ám ảnh bởi lịch sử trong khi nhìn thiên nhiên:

Bá Di người rằng thanh là thú

Nhan tử ta xem ngặt ấy lề.

(Quốc âm thi tập, bài 48)

Nguyễn Bỉnh Khiêm và Đào Duy Từ hoàn toàn hòa điệu nhập thần trong cõi tự nhiên:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Rượu đến cội cây ta sẽ nhắp,

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

(Bạch Vân quốc ngữ thi)

 

Dịch nên cảnh lạ vô song



Hứng xui tao khách điệu trùng ngợi khen.

(Tư Dung vãn)


b. Nhận thức dị biệt, văn chương đa dạng
Sự phong phú về nội dung còn rõ rệt hơn nữa. Thời thế loạn lạc đặt các nhà văn trước một sự lựa chọn nhiều khi đến đau khổ. Từ việc xác định lập trường chính trị hoặc hợp tác với nhà Mạc, hoặc trung thành với nhà Lê, hoặc nấn ná đợi thời ở Đàng Ngoài, hoặc dứt khoát với hiện tại đi vào Đàng Trong lập nghiệp, các nhà văn đã đề cập đến những quan niệm đạo giáo hay triết lý biện giải cho lập trường đã lựa chọn. Phùng Khắc Khoan mơ về một cõi thiên thai vĩnh phúc trong Ngư phủ nhập Đào nguyên truyện, nhưng từ tiên giới nàng Bạch thị của truyện Lâm tuyền kỳ ngộ vẫn hướng về trần gian trong tình yêu đôi lứa:

Trót mang một nghĩa cùng nguyền ước,

Chỉ để đôi nơi luống khát khao.

Bùi Vinh tha thiết với cung vàng điện ngọc nhà Mạc trong Cung trung bảo huấn, nhưng Nguyễn Hãng quyết tâm thoát tục hưởng nhàn trong Tịch cư ninh thể phú và Nguyễn Bỉnh Khiêm rời bỏ chính trường trở về tồn tâm dưỡng tánh ở Bạch vân am:

Danh toại công thành hưu hỉ hưu

Đẳng nhàn thế cố nhất hư châu.[22]

Nhưng Đào Duy Từ lại khẳng khái hơn, đi vào Đàng Trong thực hiện triết lý hành động theo gương Khổng Minh

Hỏa công dâng chước lạ nhường

Gió ngàn Xích Bích thổi làn nguy binh.

(Ngọa long cương vãn)

Những sự lựa chọn là tìm kiếm như thế chứng tỏ rằng văn học Việt Nam đã độ sinh thành chuyển hướng. Trong tình trạng cởi mở này, nền văn học công giáo được phát sinh và được chấp nhận như là một ước vọng của thời đại, thỏa mãn sự tìm kiếm và lựa chọn của một số người không còn tìm thấy sự bình an trong khuôn khổ tam giáo cổ truyền và được ơn phước an nghỉ trong Thiên Chúa.

 

III. TÌNH HÌNH TRUYỀN GIÁO


Theo nghi sử, đạo công giáo du nhập nước ta từ thời các thánh Tông đồ, có sách chép rằng thời thánh Tôma tông đồ truyền giáo ở An Độ, một số môn đệ đã đi theo các thương thuyền đến truyền giáo cho người Việt. Sĩ Nhiếp đã dựng đền thờ với hình Thánh Giá trong dinh ở quận Cửu Chân (Thanh Hóa), con cháu của ông giữ đạo cho đến người cháu năm đời thôi.[23]

Đó là những truyền thuyết không có bằng chứng kiểm nhận. Sử liệu hiện nay chỉ xác nhận rằng kể từ thế kỷ XVI, đạo công giáo được truyền giảng ở Việt Nam.



1. Thế kỷ XVI: việc truyền giáo trong thời kỳ phôi thai

Đến thế kỷ XVI, thương thuyền Bồ Đào Nha đã đi lại ở An Độ dương và Nam hải. Năm 1510, thành Goa (An Độ) thuộc đế quốc Bồ. Năm ấy, người Bồ gởi phái bộ đến Thái Lan. Năm 1514 họ đến Quảng Đông (Trung Hoa) và sau đó họ đã hết bờ bể Bắc Việt, như các ông Fernandez Perez năm 1516 và Duarte Coelho năm 1524; ông Antonio de Faria vào vũng Đà Nẵng và chú ý đến Hải phố (Hội An). Những cuộc tiếp xúc như thế chính là cơ hội để linh mục tuyên uý các thương thuyền “tiếp xúc với dân địa phương cùng giảng cho họ về Thiên Chúa giáo”.[24]

Sử liệu Việt Nam chép: “Năm Nguyên hòa nguyên niên đời vua Lê Trang Tông nhà Lê (1533-1548) có một người Tây phương (dương nhân) tên là Inêkhu đi đường bể len vào giảng đạo Giatô ở làng Ninh Cường, Quần Anh thuộc huyện Nam Chân (tức Nam Trực) và ở miền làng Trà Lũ thuộc huyện Giao Thuỷ (về miền Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình ngày nay)”.[25]

Inêkhu là phiên âm tiếng Inigo, chắc là một giáo sĩ công giáo từ Mã Lai đến.

Gia phả họ Đỗ ở Thanh Hóa có ghi chép Đỗ Hưng Viễn theo đạo Hoa Lang tức làng đạo công giáo. Theo sự suy luận của giáo sĩ Poncet, Đỗ Hưng Viễn trở lại đạo công giáo trong một chuyến công du hoặc ở Ao Môn hoặc ở đảo Celèbes “trong khoảng hậu bán thế kỷ XVI” dưới triều vua Lê Anh Tông (1556-1573)[26] và có lẽ một trong những người đầu tiên theo đạo công giáo ở nước ta.

Nguồn sử liệu ngoại quốc cũng xác nhận rằng việc truyền giáo khởi diễn ở Việt Nam từ thế kỷ XVI.

Theo giáo sĩ Marco Gispert, “vị thừa sai Au Châu, theo chúng ta biết, đến đất Việt giảng đạo trước tiên là giáo sĩ Gaspar de Santa thuộc dòng Đa Minh, quốc tịch Bồ Đào Nha, tỉnh dòng Santa Cruz (Goa). Năm 1550, dưới triều Lê Trung Tông (1548-1556), cha vào cửa bể Cần Cáo thuộc tỉnh Hà Tiên trong vương quốc Việt Nam. Trong 5 năm cư ngụ tại tỉnh này, không những cha đã đi khắp tỉnh từ Bắc chí Nam, mà cha còn vượt ranh giới tỉnh và đến vùng Bà Rịa ở Nam Việt rồi từ đấy đi Quảng Đông”[27]. Theo tài liệu này, thì trước khi Chân Lạp chính thức sáp nhập lãnh thổ Việt Nam vào cuối thế kỷ XVII, ngay từ thế kỷ XVI người Việt đã có mặt ở Hà Tiên ngày nay, đến độ có thể xem đó là lãnh thổ Việt Nam.

Tiếp theo cha Gaspar de Santa, dưới đời vua Lê Anh Tông (1548-1556), hai cha dòng Đa Minh đến đất Việt Nam (1563), hoạt động truyền giáo trong 10 năm, sau bị trục xuất nên phải trở về Ao Môn.

Năm 1580, hai cha dòng Đa Minh, từ Malacca đến truyền giáo ở Quảng Nam: cha Luis de Fonséca người Bồ và cha Grégroire de la Motte người Pháp. Chúa Nguyễn Hoàng ra lệnh bắt. Cha Luis de Fonséca bị giết đang khi hành lễ và cha Grégroire de la Motte bị tử thương.

Theo tài liệu các dòng tu, vào khoảng cuối thế kỷ XVI, nhà Lê và nhà Mạc có ngỏ ý xin các giáo sĩ đến giảng đạo trong nước.

Năm 1570 vua Lê Anh Tông, sau khi tiếp nhận một bức họa cuộc phán xét chung do một linh mục dòng Phanxicô dâng tặng, có mời linh mục đến giảng đạo, nhưng vì thiếu linh mục nên lời yêu cầu không được thỏa mãn. Nhà vua có yêu cầu Tòa giám mục ở Ao Môn song cũng không có kết quả.

Năm 1580, theo linh mục Ordonez de Cevallos[28], Mai Hoa Công chúa, chị vua Lê Thế Tông, bấy giờ giữ chức Nhiếp chính, cũng có yêu cầu các Tòa giám mục Ao Môn và Goa gởi các thừa sai đến đất Việt. Chính cha Ordonez de Cevallos đã rửa tội cho Mai Hoa Công chúa. Bà có lập một nữ tu viện ở An trường (Thanh Hóa). Theo sự khảo cứu của giáo sĩ Poncet, chuyện Mai Hoa Công chúa mà Ordonez Cevallos gọi Flora Maria và sử ta gọi là Bà chúa Chè là chuyện có thật. Hiện nay, gần An Trường có một nơi gọi là nền Thờ, có lẽ là nơi xưa kia đã xây nhà thờ nữ tu viện. Lại có một cái giếng tục gọi là giếng Giatô, có lẽ do bà Mai Hoa Công chúa đã cho đào lên, nên gọi như thế để nhớ ơn Bà.[29]

Năm 1581, tu viện dòng Phanxicô ở Ao Môn cũng được Mạc Mậu Hợp mời đến giảng đạo. Dòng thiếu linh mục nên dòng ở Manille đã phái linh mục đến khu vực nhà Mạc: từ thủ đô Phi luật tân, 7 linh mục dòng Phanxicô đến Bắc Việt năm 1583 nhưng vì dân chúng chống đối nên phải trở về. Cha Bartholomé Ruiz thuộc phái đoàn này, trở lại cùng một cha khác, được vua Mạc Mậu Hợp trọng đãi. Song cha phải trở về năm 1589 và có hai cha dòng Phanxicô quốc tịch Bồ Đào Nha đến thay thế: các cha Andre dos Anjos và Jacomo de Conceicas.

Cha Martin Ignace Loyola, dòng Phanxicô quốc tịch Bồ Đào Nha từ Malacca và được biết việc vua Mạc Mậu Hợp yêu cầu xin dòng Phanxicô gởi thừa sai đến giảng đạo. Cha có đến Việt Nam và sau khi nhận thấy triển vọng truyền giáo, bèn đi Au Châu để vận động các thừa sai đến đất Việt.

Ngày 24-6-1599, hai cha Diego Aduarte, Alonso Ximenses và thầy Juan Deca thuộc dòng Đa Minh đến Đà Nẵng và không khỏi ngạc nhiên khi trông thấy một cây Thánh Giá vĩ đại dựng trên một đỉnh đồi ở đấy. Hai cha có gặp hai cha dòng Au cơ tinh làm tuyên uý cho các thương thuyền Bồ Đào Nha.

Trước khi các cha dòng Tên chính thức đến truyền giáo năm 1615, một cha dòng Phanxicô đi tàu gặp bão có ghé đất Việt năm 1605. Và theo cha Ordonez Cevallos, còn có 3 linh mục do Tòa giám mục Ao Môn phái đến.

Nhưng chúng ta đã thấy, việc truyền giáo trong thế kỷ XVI ở Việt Nam đang ở trong thời kỳ phôi thai, thiếu hẳn một hệ thống tổ chức chặt chẽ, một kế hoạch liên tục nên kết quả không được mỹ mãn như trong thời kỳ sau đó các cha dòng Tên phụ trách.


Каталог: wp-content -> uploads -> downloads -> 2011
2011 -> CÔng đỒng vatican II qua bốn thập niêN
2011 -> TÒa giám mục xã ĐOÀi chỉ nam giáo phận vinh lưỢC ĐỒ TỔng quáT
2011 -> 1. phép lạ thánh thể ĐẦu tiên khoảng năm 700 Tại làng Lanciano, nước Ý (italy)
2011 -> Thiên chúa giáo và tam giáO Đường Thi Trương Kỷ
2011 -> LỊch sử truyền giáo tại việt nam quyển II lm. Nguyễn hồng chưƠng I: MỘt cha dòng têN Ở việt nam tới rôMA
2011 -> Các mẫu thức MẠc khải lm. Lê Công Đức
2011 -> Một lời nói đầu không phải là nơi nhiều chỗđể tóm lược lập luận của một cuốn sách cũng như định vị hoặc phát biểu về sựquan trọng của nó. Đây quả thực là một cuốn sách rất quan trọng
2011 -> LỜi giới thiệu suy tư ban đẦu về MẦu nhiệm giêSU
2011 -> Tu luật thánh biểN ĐỨc ngày 1 tháng 1

tải về 0.8 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10   11




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương