Tòa phúc thẩm tại thành phố hcm



tải về 0.6 Mb.
Chế độ xem pdf
trang4/6
Chuyển đổi dữ liệu16.03.2023
Kích0.6 Mb.
#54378
1   2   3   4   5   6
1678807356 (2)

Vui lòng đọc kỹ Hướng dẫn sử dụng tài liệu này tại trang cuối cùng. 
5/8 
NĐ_Hùng nói làm tới 5 lò, hết thảy là 50m Inox, tất cả là 18.000.000 đồng chuyển về huyện 
CC nhưng ông NĐ_Hùng không làm lò nào hết mà ông NĐ_Hùng cắt Inox ra làm thí nghiệm 
hay làm những trò tiêu khiển mà ông NĐ_Hùng thích, như: làm mô hình con tàu vũ trụ bằng 
Inox, bình nước cho con tắm, lò đút trấu, sản xuất tro... Quá đỗi ngao ngán vì tiền đầu tư 
không đúng mục đích nên ông không đầu tư cho ông NĐ_Hùng làm nữa (chuyện của ông và 
ông NĐ_Hùng gia đình ai cũng biết) vì cha mẹ cho ở nhờ nhà, đến khi cha ông bị bệnh gần 
mất đòi lại nhà để chia cho anh em, ông NĐ_Hùng không trả mà còn nói mượn tiền của cha 
mua, cha đòi tiền ông cũng không trả nên cha đã chết trong uất hận... 
Trong khoảng thời gian từ năm 2002 đến năm 2004, không chờ đợi kết quả được từ 
huyện CC, sản xuất ra được các loại rượu chất lượng cao và đưa tiền cho ông NĐ_Hùng công 
bố các loại rượu, mỗi loại là 1.900.000 đồng + 600.000 đồng tiền mừng đưa cho bà Thủy 
khâu duyệt cấp số công bố ở Trung tâm kỹ thuật đo lường chất lượng khu vực III thành phố 
HCM. Đó là các số công bố rượu trắng, Lục Vị Bồ Đào, Kim Ngân, Hồng Cúc, Ngọc Dương, 
ông NĐ_Hùng nói ông công bố cho ông thêm 02 loại rượu là rượu Chuối Hột và Hồng Ngọc 
và ông NĐ_Hùng lấy thêm số công bố Rượu Trắng nữa là 03 loại đến nay đã hết hạn công bố 
đã lâu nhưng ông NĐ_Hùng vẫn chưa trả ông 3 loại là 2.500.000 đồng x 3 = đồng. Vào thời 
điểm đầu năm 2005, ông NĐ_Hùng nhờ ông in Offset 3 loại rượu kể trên cho ông NĐ_Hùng, 
mỗi loại là 10.000 nhãn + tem, tất cả là 18.000.000 đồng, ông NĐ_Hùng đã lấy 1 phần lớn số 
lượng nhãn, tem nhưng vẫn chưa thanh toán tiền cho ông. Đồng thời trong thời gian này ông 
NĐ_Hùng vẫn lấy danh nghĩa rượu Hạc Đỉnh Hồng và giấy tờ Hạc Đỉnh Hồng của ông để đi 
bán các loại rượu từ đó đến giờ để trốn thuế, pháp lý. Tất nhiên nếu Nhà nước kiểm tra ông 
phải chịu trách nhiệm. 
Trong năm 2005 ông có cho ông NĐ_Hùng mượn 5.000.000 đồng để cưới vợ đến nay 
vẫn chưa trả. 
Qua tất cả những sự việc như trên ông mong Tòa hiểu đâu là sự thật và sự thật như thế 
nào và vì sao đến giờ ông NĐ_Hùng lại đi đòi tiền công bố, tiền công, tiền sở hữu trí tuệ.? 
Đầu năm 2009 ông có nuôi mấy con chó cảnh tại 17/81 BL nhưng đây là khu vực chế 
biến rượu nên không thể nuôi thú vật được nên ông lên huyện CC che trại nuôi chó vì đất tại 
đây rộng gần 2000 m
2
. Trong thời gian đó ông và ông Cường có nuôi mấy con gà cho vui thì 
ông NĐ_Hùng thuốc chết hết, ông Cường và ông NĐ_Hùng cãi lộn, ông NĐ_Hùng không ở 
lại huyện CC nữa và ông NĐ_Hùng tuyên bố ông phải trả cho ông NĐ_Hùng 10 lượng vàng 
nếu không thì ông NĐ_Hùng đi quậy. Ông nói ông NĐ_Hùng ở nhà ông gần 10 năm chưa trả 
tiền nhà, tiền mặt bằng... và tiền ông NĐ_Hùng thiếu ông. Ông NĐ_Hùng gửi đơn qua Sở Y 
tế để đóng cửa cơ sở Hạc Đỉnh Hồng vì lấy cắp tài sản thuộc sở hữu trí tuệ của ông 
NĐ_Hùng và Sở Y tế đã kiếm chuyện tìm cách đóng cửa cơ sở Hạc Đỉnh Hồng từ ngày 
17/8/2009 đến nay. Ông NĐ_Hùng còn gửi đơn qua Cục Cảnh sát kinh tế, quận BT, Tòa kinh 
tế Tòa án nhân dân thành phố HCM. Ông cho rằng nếu ông vi phạm quyền sở hữu trí tuệ như 
ăn cắp công thức, hóa chất, mẫu mã, dây chuyền và thiết bị sản xuất của ông NĐ_Hùng thì 
ông có lỗi nhưng đằng này ông sản xuất hàng theo chỉ tiêu của Sở Y tế cấp cho nhãn hiệu 
hàng hóa Hạc Đỉnh Hồng theo công nghệ của ông thì Tòa nghĩ có lý hay không? Nếu như 
ông nợ tiền công của ông NĐ_Hùng từ năm 2000 đến năm 2005 nhưng ông NĐ_Hùng không 
đòi mà đến nay mới đòi thì vô lí. 
Ông là người bị thua thiệt vì đầu tư sai địa chỉ, bị ông NĐ_Hùng lợi dụng làm kinh tế 
gia đình. Ông không chấp nhận yêu cầu nào của ông NĐ_Hùng và cũng không có ý kiến gì 
để hòa giải. 


Vui lòng đọc kỹ Hướng dẫn sử dụng tài liệu này tại trang cuối cùng. 
6/8 
Tại bản tự khai của ông Phạm Mạnh (em của ông NĐ_Phạm Hùng, anh của ông 
BĐ_Phạm Bá Dũng) ngày 29/3/2010 cho rằng: Ông NĐ_Hùng ở nhờ nhà của ông BĐ_Dũng 
ở huyện CC, không có làm thuê cho ông BĐ_Dũng hay cho ai hết. Thương hiệu Hạc Đỉnh 
Hồng là do riêng ông BĐ_Dũng xây dựng ở cơ sở đường BL, phường BHH, quận BT. Việc 
công bố các loại rượu sau này ông BĐ_Dũng có nhờ ông NĐ_Hùng đi công bố vì lúc đó ông 
BĐ_Dũng chưa có hộ khẩu và mỗi lần đi công bố ông BĐ_Dũng đã đưa tiền đi trước nên ông 
BĐ_Dũng không còn thiếu nợ ông nữa. 
Tại biên bản hòa giải ngày 17/6/2010, ông NĐ_Hùng xác định ông và ông BĐ_Dũng 
cùng Hợp tác kinh doanh, ông BĐ_Dũng có tiền, ông bỏ công sức làm sổ sách, pháp lý, 
nghiên cứu quy trình công nghệ sản xuất rượu sạch, công bố 7 hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất 
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm được Sở Y tế chấp nhận: 01 hồ sơ năm 2002, 02 hồ sơ năm 
2003, 04 hồ sơ năm 2004. Ông và ông BĐ_Dũng hợp tác kinh doanh từ năm 2000 đến năm 
2009 thì xảy ra tranh chấp. Do ông BĐ_Dũng sử dụng công nghệ sản xuất rượu của ông được 
sỏ Y tế công bố (không sử dụng quy trình) từ năm 2003 đến năm 2009 để bán rượu của ông 
BĐ_Dũng mà không thanh toán tiền và quyền lợi cho ông nên ông yêu cầu ông BĐ_Dũng 
phải trả tiền công sức do ông BĐ_Dũng sử dụng 7 hồ sơ công bố nói trên, mỗi hồ sơ là 
32.000.000 đồng, tổng cộng là 224.000.000 đồng trả trong thời hạn 03 tháng. Ông BĐ_Dũng 
xác định ông không hợp tác làm ăn với ông NĐ_Hùng, cơ sở Hạc Đỉnh Hồng do một mình 
ông làm chủ có đăng ký kinh doanh, ông NĐ_Hùng chỉ là người làm công cho ông từng loại 
việc, không làm thành văn bản vì là anh em ruột. Khi làm 7 hồ sơ công bố chất lượng 7 loại 
rượu mà ông NĐ_Hùng tranh chấp, ông đã trả tiền công xong cho ông NĐ_Hùng, ông chỉ sử 
dụng 7 hồ sơ công bố chất lượng cho sản phẩm rượu của ông trong 02 năm từ 2005 đến 2006. 
Ông có in nhãn bao bì nhưng không sử dụng được để bán sản phẩm và phải bỏ. Ông yêu cầu 
tòa triệu tập người làm chứng là ông Phạm Cường (anh ruột của ông BĐ_Dũng). 
Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 1437/2010/KDTM-ST ngày 14 tháng 9 
năm 2010 của Tòa án nhân dân thành phố HCM đã quyết định: 
Căn cứ Khoản 2, Khoản 4 Điều 29, Điểm a Khoản 1 Điều 34, Điểm a Khoản 1 Điều 
35, Điều 238, Khoản 1 Điều 245 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004; 
Căn cứ Điều 747, Điều 781 và Điều 788 Bộ Luật dân sự năm 1995; 
Căn cứ Điều 3, Điều 15 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005; 
Căn cứ Khoản 2 Điều 21 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 quy định chi 
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ và quyền tác 
giả và quyền liên quan; 
Căn cứ mục 1 Công văn số 98/TANDTC-KHXX ngày 30/6/2009 của Tòa án Nhân 
dân tối cao về việc triển khai thi hành Pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án; Khoản 4 Điều 18, 
Khoản 2 Điều 27, Điểm b Khoản 3 Phần I danh mục mức án phí, lệ phí tòa án của Pháp lệnh 
lệ phí, án phí tòa án; 
Căn cứ Khoản 1 của Nghị quyết số 24/2008/QH12 của Quốc hội nước Cộng hòa xã 
hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự; 
Căn cứ Luật Thi hành án dân sự; Công văn số 99/TANDTC-KHXX ngày 01/7/2009 
của Tòa án Nhân dân tối cao về việc thi hành một số quy định của các văn bản quy phạm 


Vui lòng đọc kỹ Hướng dẫn sử dụng tài liệu này tại trang cuối cùng. 
7/8 
pháp luật. 
Tuyên xử: 
Bác yêu cầu của ông NĐ_Phạm Hùng về việc đòi ông BĐ_Phạm Bá Dũng phải trả 
cho ông NĐ_Phạm Hùng số tiền 224.000.000 đồng (Hai trăm hai mươi bốn triệu đồng) là 
tiền do ông BĐ_Dũng đã sử dụng 7 hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh, an toàn 
thực phẩm đối với sản phẩm rượu và mẫu mã chai rượu, nhãn hiệu. Ngoài ra bản án sơ thẩm 
còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật. 
Ngày 14/9/2010 nguyên đơn là ông NĐ_Phạm Hùng có đơn kháng cáo xin xét xử lại 
vụ án. 
Từ nội dung vụ án như đã nêu trên. 

tải về 0.6 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương