Vui lòng đọc kỹ Hướng dẫn sử dụng tài liệu này tại trang cuối cùng.
6/8
Tại bản tự khai của ông Phạm Mạnh
(em của ông NĐ_Phạm Hùng, anh của ông
BĐ_Phạm Bá Dũng) ngày 29/3/2010 cho rằng: Ông NĐ_Hùng ở nhờ nhà của ông BĐ_Dũng
ở huyện CC, không có làm thuê cho ông BĐ_Dũng hay cho ai hết. Thương hiệu Hạc Đỉnh
Hồng là do riêng ông BĐ_Dũng xây dựng ở cơ sở đường BL, phường BHH, quận BT. Việc
công bố các loại rượu sau này ông BĐ_Dũng có nhờ ông NĐ_Hùng đi công bố vì lúc đó ông
BĐ_Dũng chưa có hộ khẩu và mỗi lần đi công bố ông BĐ_Dũng đã đưa tiền đi trước nên ông
BĐ_Dũng không còn thiếu nợ ông nữa.
Tại biên bản hòa giải ngày 17/6/2010, ông NĐ_Hùng xác định ông và ông BĐ_Dũng
cùng Hợp tác
kinh doanh, ông BĐ_Dũng có tiền, ông bỏ công sức làm sổ sách, pháp lý,
nghiên cứu quy trình công nghệ sản xuất rượu sạch, công bố 7 hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm được Sở Y tế chấp nhận: 01 hồ sơ năm 2002, 02 hồ sơ năm
2003, 04 hồ sơ năm 2004. Ông và ông BĐ_Dũng hợp tác kinh doanh từ năm 2000 đến năm
2009 thì xảy ra tranh chấp. Do ông BĐ_Dũng sử dụng công nghệ sản xuất rượu của ông được
sỏ Y tế công bố
(không sử dụng quy trình) từ năm 2003 đến năm 2009 để bán rượu của ông
BĐ_Dũng mà không thanh toán tiền và quyền lợi cho ông nên ông yêu cầu ông BĐ_Dũng
phải trả tiền công sức do ông BĐ_Dũng sử dụng 7 hồ sơ công bố nói trên, mỗi hồ sơ là
32.000.000 đồng, tổng cộng là 224.000.000 đồng trả trong thời hạn 03 tháng. Ông BĐ_Dũng
xác định ông không hợp tác làm ăn với ông NĐ_Hùng, cơ sở Hạc Đỉnh Hồng do một mình
ông làm chủ có đăng ký kinh doanh, ông NĐ_Hùng chỉ là người làm công cho ông từng loại
việc, không làm thành văn bản vì là anh em ruột. Khi làm 7 hồ sơ công bố chất lượng 7 loại
rượu mà ông NĐ_Hùng tranh chấp, ông đã trả tiền công xong cho ông NĐ_Hùng, ông chỉ sử
dụng 7 hồ sơ công bố chất lượng cho sản phẩm rượu của ông trong 02 năm từ 2005 đến 2006.
Ông có in nhãn bao bì nhưng không sử dụng được để bán sản phẩm và phải bỏ. Ông yêu cầu
tòa triệu tập người làm chứng là ông Phạm Cường
(anh ruột của ông BĐ_Dũng).
Tại bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 1437/2010/KDTM-ST ngày 14 tháng 9
năm 2010 của Tòa án nhân dân thành phố HCM đã quyết định:
Căn cứ Khoản 2, Khoản 4 Điều 29, Điểm a Khoản 1 Điều 34, Điểm a Khoản 1 Điều
35, Điều 238, Khoản 1 Điều 245 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004;
Căn cứ Điều 747, Điều 781 và Điều 788 Bộ Luật dân sự năm 1995;
Căn cứ Điều 3, Điều 15 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005;
Căn cứ Khoản 2 Điều 21 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ Luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ và quyền tác
giả và quyền liên quan;
Căn cứ mục 1
Công văn số
98/TANDTC-KHXX ngày 30/6/2009 của Tòa án Nhân
dân tối cao về việc triển khai thi hành Pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án; Khoản 4 Điều 18,
Khoản 2 Điều 27, Điểm b Khoản 3 Phần I danh mục mức án phí, lệ phí tòa án của Pháp lệnh
lệ phí, án phí tòa án;
Căn cứ Khoản 1 của Nghị quyết số 24/2008/QH12 của Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự;
Căn cứ Luật Thi hành án dân sự; Công văn số 99/TANDTC-KHXX ngày 01/7/2009
của Tòa án Nhân dân tối cao về việc thi hành một số quy định của các văn bản quy phạm
Vui lòng đọc kỹ Hướng dẫn sử dụng tài liệu này tại trang cuối cùng.
7/8
pháp luật.
Tuyên xử:
Bác yêu cầu của ông NĐ_Phạm Hùng về việc đòi ông BĐ_Phạm Bá Dũng phải trả
cho ông NĐ_Phạm Hùng số tiền 224.000.000 đồng
(Hai trăm hai mươi bốn triệu đồng) là
tiền do ông BĐ_Dũng đã sử dụng 7 hồ sơ công bố tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh, an toàn
thực phẩm đối với sản phẩm rượu và mẫu mã chai rượu, nhãn hiệu. Ngoài ra bản án sơ thẩm
còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 14/9/2010 nguyên đơn là ông NĐ_Phạm Hùng có đơn kháng cáo xin xét xử lại
vụ án.
Từ nội dung vụ án như đã nêu trên.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: