ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------
Tạ Thùy Linh
NGHIÊN CỨU QUY TRÌNH XỬ LÝ MẪU NƯỚC TIỂU
ĐỂ PHÂN TÍCH MỘT SỐ CHẤT MA TÚY TỔNG HỢP
NHÓM ATS BẰNG PHƯƠNG PHÁP CE-C4D
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Hà Nội – 2016
|
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
---------------------
Tạ Thùy Linh
NGHIÊN CỨU QUY TRÌNH XỬ LÝ MẪU NƯỚC TIỂU
ĐỂ PHÂN TÍCH MỘT SỐ CHẤT MA TÚY TỔNG HỢP
NHÓM ATS BẰNG PHƯƠNG PHÁP CE-C4D
Chuyên ngành: Hóa phân tích
Mã số: 60440118
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
HD 1: TS. Nguyễn Thị Ánh Hường
HD 2: TS. Nguyễn Xuân Trường
Hà Nội - 2016
|
LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Ánh Hường và TS. Nguyễn Xuân Trường. Thầy, cô đã giao đề tài, tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn công ty 3Sanalysis (http://www.3sanalysis.vn/) đã hỗ trợ trang thiết bị cho nghiên cứu này.
Tôi xin cảm ơn sự hỗ trợ kinh phí của Đại học Quốc gia Hà Nội trong đề tài QG.15.15: “Quy trình phân tích một số chất ma túy nhóm ATS (MA; MDA; MDMA; MDEA) thường sử dụng ở Việt Nam trong mẫu bị bắt giữ và mẫu nước tiểu bằng phương pháp điện di mao quản sử dụng detector độ dẫn không tiếp xúc CE-C4D”.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo khoa Hóa, trường Đại học Khoa học Tự nhiên đã dạy dỗ, chỉ bảo và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Tôi xin cảm ơn CN. Nguyễn Thị Liên và SV. Lê Thị Hương Giang đã phối hợp thực hiện nghiên cứu này.
Tôi xin cảm ơn các anh, chị trong Trung tâm giám định ma túy – Viện Khoa học hình sự cũng như các đồng nghiệp trong đội giám định Hóa học – phòng PC54 – CATP Hà Nội đã hết sức giúp đỡ, tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, các bạn học viên và sinh viên của Bộ môn Hóa phân tích đã luôn hỗ trợ, động viên, là chỗ dựa vững chắc giúp tôi hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày 01 tháng 3 năm 2016
Học viên
Tạ Thùy Linh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN 3
1.1. Giới thiệu chung về ma túy tổng hợp nhóm ATS 3
1.1.1. Nguồn gốc, tổng hợp của MA, MDA, MDMA và MDEA 4
1.1.2. Vai trò và tác dụng của ma túy tổng hợp 7
1.1.3. Cơ chế hoạt động 8
1.2. Tình hình sử dụng ma túy tổng hợp nhóm ATS trên thế giới và Việt Nam 8
1.2.1. Trên thế giới 8
1.2.2. Ở Việt Nam 10
1.3. Một số phương pháp xác định ma túy tổng hợp nhóm ATS 11
1.3.1. Phương pháp điện hóa 11
1.3.2. Phương pháp ELISA 12
1.3.3. Các phương pháp sắc ký 12
1.3.3.1. Phương pháp sắc ký khí 12
1.3.3.2. Phương pháp sắc ký lỏng 14
1.3.4. Các phương pháp điện di mao quản 15
1.4. Các phương pháp xử lý mẫu phẩm sinh học 18
1.4.1. Phương pháp chiết lỏng - lỏng 18
1.4.2. Phương pháp chiết pha rắn 20
CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM 24
2.1. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu 24
2.1.1. Mục tiêu nghiên cứu 24
2.1.2. Nội dung nghiên cứu 24
2.2. Phương pháp nghiên cứu 24
2.2.1. Phương pháp phân tích 24
2.2.2. Phương pháp xử lý mẫu 25
2.3. Hóa chất và thiết bị 26
2.3.1. Hóa chất 26
2.3.1.1. Chất chuẩn 26
2.3.1.2. Hóa chất, dung môi 26
2.3.1.3. Chuẩn bị các dung dịch hóa chất 26
2.3.2. Thiết bị, dụng cụ 27
2.4. Các phương pháp đánh giá độ tin cậy của phương pháp phân tích 28
2.4.1. Giới hạn phát hiện (LOD) và giới hạn định lượng (LOQ) 28
2.4.2. Độ chụm (độ lặp lại) của phương pháp 28
2.4.3. Độ đúng (độ thu hồi) của thiết bị, của phương pháp 29
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 30
3.1. Xây dựng đường chuẩn của các chất phân tích 30
3.1.1. Xây dựng đường chuẩn 30
3.1.2. Đánh giá phương trình hồi quy của đường chuẩn 33
3.2. Đánh giá phương pháp phân tích 33
3.2.1.Giới hạn phát hiện (LOD) và giới hạn định lượng (LOQ) 33
3.2.2. Đánh giá độ chụm (độ lặp lại) của thiết bị 35
3.3. Nghiên cứu, tối ưu các điều kiện của quá trình chiết lỏng - lỏng nhằm
xác định MA, MDA, MDMA, MDEA trong mẫu nước tiểu 38
3.3.1. Khảo sát dung môi chiết 38
3.3.2. Khảo sát pH của môi trường chiết 39
3.3.3. Khảo sát thể tích dung môi chiết 40
3.3.4. Đánh giá độ đúng và độ chụm của phương pháp chiết lỏng - lỏng 42
3.4. Nghiên cứu tối ưu các điều kiện của quá trình chiết pha rắn nhằm
xác định MA, MDA, MDMA, MDEA trong mẫu nước tiểu 44
3.4.1. Khảo sát lựa chọn cột chiết 44
3.4.2. Khảo sát pH của dung dịch đệm 47
3.4.3. Khảo sát thành phần dung dịch rửa tạp 48
3.4.4. Ảnh hưởng của thể tích dung dịch axit H3PO4 dùng để rửa tạp
đến hiệu suất thu hồi của chất phân tích 50
3.4.5. Khảo sát ảnh hưởng của dung môi rửa giải 52
3.4.6. Ảnh hưởng của thể tích rửa giải đến độ thu hồi
của các chất phân tích 53
3.4.7. Đánh giá độ đúng và độ chụm của phương pháp chiết pha rắn 54
3.5. Phân tích mẫu thực tế 56
3.6. Phân tích đối chứng phương pháp CE – C4D với phương pháp GC/MS 60
KẾT LUẬN 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO 63
PHỤ LỤC 68
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Thông tin về các chất phân tích (MA, MDA, MDMA, MDEA) 6
Bảng 3.1. Sự phụ thuộc của diện tích pic vào nồng độ
MA, MDA, MDMA, MDEA 31
Bảng 3.2. Phương trình hồi quy của các chất phân tích 32
Bảng 3.3. Kết quả so sánh giữa giá trị a với giá trị 0 của phương trình
đường chuẩn MA, MDA, MDMA, MDEA 33
Bảng 3.4. Giới hạn phát hiện của MA, MDA, MDMA, MDEA xác định bằng
phương pháp điện di mao quản CE-C4D 34
Bảng 3.5. Giới hạn phát hiện (LOD), giới hạn định lượng (LOQ)
của MA, MDA, MDMA, MDEA 35
Bảng 3.6. Kết quả xác định độ lặp lại của thiết bị CE-C4D
trong định lượng MA 35
Bảng 3.7. Kết quả xác định độ lặp lại của thiết bị CE-C4D
trong định lượng MDA 36
Bảng 3.8. Kết quả xác định độ lặp lại của thiết bị CE-C4D
trong định lượng MDMA 37
Bảng 3.9. Kết quả xác định độ lặp lại của thiết bị CE-C4D
trong định lượng MDEA 37
Bảng 3.10. Hiệu suất thu hồi của các dung môi ở pH= 7-11 39
Bảng 3.11. Kết quả khảo sát độ đúng của phương pháp dựa trên
thêm chuẩn MA 42
Bảng 3.12. Kết quả khảo sát độ đúng của phương pháp dựa trên
thêm chuẩn MDA 43
Bảng 3.13. Kết quả khảo sát độ đúng của phương pháp dựa
trên thêm chuẩn MDMA 43
Bảng 3. 14. Kết quả khảo sát độ đúng của phương pháp dựa
trên thêm chuẩn MDEA 43
Bảng 3.15. Kết quả xác định độ lặp lại của phương pháp chiết lỏng-lỏng
trong định lượng MA, MDA, MDMA và MDEA 44
Bảng 3.16. Hiệu suất thu hồi của quá trình chiết khi sử dụng cột SCX
và cột C18 47
Bảng 3.17. Hiệu suất thu hồi của chất phân tích ở các pH khác nhau của đệm 48
Bảng 3.18. Hiệu suất thu hồi của chất phân tích khi sử dụng dung dịch
rửa tạp khác nhau 50
Bảng 3.19. Hiệu suất thu hồi của chất phân tích khi sử dụng thể tích dung dịch
H3PO4 rửa tạp khác nhau 51
Bảng 3.20. Hiệu suất thu hồi của chất phân tích khi sử dụng dung môi
rửa giải khác nhau 52
Bảng 3.21. Hiệu suất thu hồi của chất phân tích khi sử dụng thể tích
dung môi rửa giải khác nhau 53
Bảng 3.22. Kết quả khảo sát độ đúng của phương pháp dựa trên thêm chuẩn MA 54
Bảng 3.23. Kết quả khảo sát độ đúng của phương pháp dựa trên
thêm chuẩn MDA, MDMA và MDEA 55
Bảng 3.24. Kết quả xác định độ lặp lại của phương pháp CE-C4D
trong định lượng MA, MDA, MDMA và MDEA 55
Bảng 3.25. Thông tin các mẫu nước tiểu được phân tích 56
Bảng 3.26. Kết quả phân tích một số mẫu nước tiểu chứa ma túy 57
Bảng 3.27. Kết quả phân tích mẫu nước tiểu H2 60
Bảng 3.28. Kết quả phân tích một số mẫu thực bằng phương pháp GC/MS 61
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1. Nguyên lý hoạt động của cảm biến đo độ dẫn không tiếp xúc 16
Hình 1.2. Sơ đồ biểu diễn cấu trúc (A) và mạch điện tương đương (B)
của cảm biến đo độ dẫn không tiếp xúc 16
Hình 2.1. Hệ thiết bị CE-C4D 25
Hình 3.1. Đường chuẩn của MA 32
Hình 3.2. Đường chuẩn của MDA 32
Hình 3.3. Đường chuẩn của MDMA 32
Hình 3.4. Đường chuẩn của MDEA 32
Hình 3.5. Điện di đồ xác định 4 chất ma túy trong nhóm ATS
với các dung môi chiết khác nhau 39
Hình 3.6. Điện di đồ xác định 4 chất ma túy nhóm ATS với dung môi
chiết etyl acetat ở pH khác nhau 40
Hình 3.7. Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc hiệu suất thu hồi vào pH
môi trường chiết 40
Hình 3.8. Điện di đồ biểu diễn kết quả khảo sát với lượng dung môi
chiết khác nhau 41
Hình 3.9. Biểu đồ sự phụ thuộc của hiệu suất thu hồi vào thể tích
dung môi chiết 41
Hình 3.10. Điện di đồ phân tích mẫu SPE sử dụng cột SCX và cột C18 47
Hình 3.11. Điện di đồ xác định 4 chất ma túy trong nhóm ATS
với các điều kiện pH đệm khác nhau 48
Hình 3.12. Hiệu suất thu hồi của chất phân tích ở các pH khác nhau của đệm 49
Hình 3.13. Điện di đồ xác định 4 chất ma túy trong nhóm ATS với
các dung dịch rửa tạp khác nhau 50
Hình 3.14. Điện di đồ xác định 4 chất ma túy trong nhóm ATS
với thể tích H3PO4 rửa tạp khác nhau 51
Hình 3.15. Điện di đồ xác định 4 chất ma túy trong nhóm ATS
với các dung môi rửa giải khác nhau 52
Hình 3.16. Điện di đồ phân tích một số mẫu nước tiểu 58
Hình 3.17. Điện di đồ xác định MA trong mẫu nước tiểu H2
ở các mức nồng độ khác nhau 59
Hình 3.18. Điện di đồ xác định MA trong mẫu nước tiểu H12
ở các mức nồng độ khác nhau 60
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Tên viết tắt Tên đầy đủ
Ace Axit Axetic
Arg Arginine
C4D Detector đo độ dẫn kết nối kiểu tụ điện
CE Phương pháp điện di mao quản
EOF Dòng điện di thẩm thấu
GC Sắc ký khí
GC/MS Sắc ký khí khối phổ
His Histidine
HPLC Sắc ký lỏng hiệu năng cao
Leff Chiều dài hiệu dụng của mao quản
Ltot Tổng chiều dài mao quản
LOD Giới hạn phát hiện
LOQ Giới hạn định lượng
MEKC Điện di mao quản điện động học Mixen
ATS Amphetamin type stimulants
MA Methamphetamine
MDA Methylenedioxyamphetamine
MDMA Methylenedioxymethamphetamine
MDEA 3,4-Methylenedioxyethamphetamine
Phos Photphoric
ppm Parts per million: phần triệu
%RSD % độ lệch chuẩn tương đối
SD Độ lệch chuẩn
MỞ ĐẦU
Tệ nạn ma túy là hiểm họa cho toàn xã hội, gây tổn hại sức khỏe, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Nguy hiểm hơn nữa, việc tiêm chích ma túy còn là nguyên nhân lan truyền căn bệnh nguy hiểm HIV/AIDS [2].
Hiện nay, việc sản xuất, vận chuyển, buôn bán và sử dụng ma túy ngày càng tinh vi, phức tạp và khó kiểm soát. Các cán bộ phải làm giám định khá nhiều loại chất và các chế phẩm của chúng, phải sử dụng các phương pháp khoa học đòi hỏi phải nhanh hơn, chính xác hơn và đặc hiệu hơn. Kết quả giám định phải là tin cậy và đáp ứng các yêu cầu của các cơ quan thực thi luật pháp của mỗi nước. Do vậy, việc xác định đối tượng có sử dụng ma túy thông qua giám định mẫu phẩm sinh học (nước tiểu) của chính đối tượng đó cũng rất cần thiết.
Ở Việt Nam, việc giám định ma túy trong các mẫu phẩm sinh học được thực hiện bằng nhiều phương pháp như: phân tích miễn dịch, sắc ký khí (GC), sắc ký khí – khối phổ (GC-MS), sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC) với khả năng phát hiện tốt. Tuy nhiên, đây là loại thiết bị đòi hỏi đầu tư ban đầu rất lớn đồng thời quy trình kèm theo rất phức tạp do đó giá thành phân tích cao, thường được triển khai ở các phòng thí nghiệm tuyến Trung ương. Trong khi đó, nhu cầu phân tích giám định các chất ma túy tại các phòng thí nghiệm hình sự tuyến địa phương là rất lớn. Do đó, việc nghiên cứu phát triển các phương pháp phân tích đơn giản, chi phí thấp nhằm hỗ trợ điều tra tại các phòng thí nghiệm phân tích ma túy tuyến địa phương là rất cần thiết. Trước tình hình thực tế đó, nhóm nghiên cứu của chúng tôi đã nghiên cứu và bước đầu thành công trong việc xác định một số chất ma túy tổng hợp nhóm ATS trong nước tiểu bằng phương pháp điện di mao quản sử dụng detector độ dẫn không tiếp xúc (CE-C4D) với các kết quả: tối ưu được điều kiện phân tích để tách đồng thời 4 chất ma túy MA, MDA, MDMA và MDEA; giới hạn phát hiện của MA sau khi chiết và trước khi chiết là 10ppb và 500ppb [29].
Tuy nhiên, do nền mẫu nước tiểu thường khá phức tạp, chứa rất nhiều chất khác nhau như ezym, vitamin, axit amin, các hợp chất hữu cơ khác và đặc biệt là một lượng lớn các ion như: Na+, NH4+, Mg2+, Cl-, SO42-,… Hơn nữa, hàm lượng các chất ma túy tổng hợp có thể rất thấp nên các thành phần khác trong nền mẫu sẽ gây khó khăn cho phương pháp phân tích. Vì thế, để có kết quả phân tích tốt thì việc làm sạch và làm giàu mẫu là rất cần thiết. Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu quy trình xử lý mẫu nước tiểu để phân tích một số chất ma túy tổng hợp nhóm ATS bằng phương pháp CE-C4D” trên cùng thiết bị đo mà không khảo sát lại điều kiện tối ưu, nhằm nâng cao khả năng ứng dụng của phương pháp CE-C4D đối với phân tích ma túy nói riêng và các nhóm chất khác nói chung, đáp ứng nhu cầu thực tế.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. Giới thiệu chung về ma túy tổng hợp nhóm ATS
Ma túy là các chất gây nghiện có nguồn gốc tự nhiên hoặc nhân tạo [2], khi đưa vào cơ thể sống có thể làm thay đổi một hay nhiều chức năng tâm - sinh lý của cơ thể. Sử dụng ma túy nhiều lần sẽ bị lệ thuộc cả về thể chất lẫn tâm lý, gây hậu quả nghiêm trọng cho cá nhân, gia đình và xã hội [2].
Ma túy tổng hợp dạng Amphetamine (Amphetamine - ATS - amphetamine-type-stimulans) là những chất ma túy được tổng hợp ra từ các hóa chất ban đầu (tiền chất). Chúng có tác dụng kích thích nhất thời hệ thống thần kinh trung ương gây hưng phấn và ảo giác hoang tưởng. Ngoài Amphetamine, Methamphetamine (MA) và MDMA (còn gọi là Ecstasy) thì trong nhóm này còn có rất nhiều chất khác nhau, được quy định trong Công ước quốc tế năm 1971 về sác chất hướng thần như: MDA, MDE, MDEA, PMA, MMDA...Chúng có cấu trúc hóa học tương tự nhau trên cơ sở khung của Amphetamine, do đó có tác dụng dược lý giống nhau.
Về mặt hóa học, chúng thuộc nhóm Phenylalkylamine và có thể được coi là dẫn xuất của Amphetamine. Dạng bazo, một số chất có thể lỏng sánh, không màu, một số chất khác ở dạng bột kết tinh màu trắng, không hòa tan trong nước, chỉ hòa tan trong các dung môi hữu cơ như ethanol, diethyl ether và chloroform. Trong thực tế chúng được dùng dưới dạng muối, chủ yếu là muối clohydrat. Ở dạng muối, tất cả các chất ATS đều là những chất kết tinh không màu hoặc bột kết tinh màu trắng, hòa tan trong nước và rượu ethanol, hòa tan ít trong chloroform và không hòa tan trong diethyl ether. Các viên có màu sắc khác nhau được gặp trên thị trường là do các cơ sở sản xuất pha thêm phẩm màu để tạo đặc điểm thương hiệu và nhằm đánh lạc hướng các cơ quan thi hành pháp luật [11].
Đặc điểm và dạng dùng: Khác với heroine và các chất ma túy khác là các chất này chỉ có hiệu lực tác dụng tối đa, gây cảm giác đê mê khi được đưa trực tiếp vào cơ thể qua đường máu. Nếu sử dụng bằng hình thức uống thì chúng bị dịch tiêu hóa phân hủy làm giảm tác dụng đáng kể. Vì vậy, trong thực tế Heroine và các chất ma túy khác có nguồn gốc thuốc phiện chỉ thấy sử dụng qua đường tiêm, chích hoặc hút, hít mà không sử dụng bằng đường uống. Các chất ATS có hiệu lực tác dụng khi đưa vào cơ thể bằng đường trực tiếp là vào máu và cả đường tiêu hóa. Chính vì thế, ngoài các hình thức sử dụng như đối với các chất ma túy khác, ma túy tổng hợp còn được sử dụng bằng hình thức uống. Trong thực tế, một số ít trường hợp gặp các chất ma túy tổng hợp ATS dưới dạng ống tiêm hay bột để pha tiêm, hút, hít, hình thức phổ biến nhất vẫn là ở dạng viên nén, viên nhộng để uống với nhiều hình dáng, kích thước, màu sắc và những ký hiệu rất khác nhau.
1.1.1. Nguồn gốc, tổng hợp của MA, MDA, MDMA và MDEA
Amphetamine là chất cơ bản của cả nhóm ma túy tổng hợp ATS và là chất ma túy xuất hiện sớm nhất trong tất cả các chất ma túy thuộc loại này. Lần đầu tiên trên thế giới Amphetamine được nhà hóa học L. Edeleano tổng hợp vào năm 1887. Tiếp theo đó, vào năm 1888 trong khi nghiên cứu Ephedrin là một thành phần chính có tác dụng chữa ho, hen của cây Ma hoàng, nhà bác học Nagayoshi Nagai người Nhật đã phát hiện được Methamphetamine (MA). Đến năm 1983 chính nhà bác học này đã tổng hợp được Methamphetamine. Đây là chất có tác dụng kích thích thần kinh trung ương mạnh. Ngày nay, do lợi nhuận khổng lồ nên người ta đã sản xuất hàng loạt các chất có tác dụng tương tự hoặc mạnh hơn rất nhiều MA, đồng thời buôn bán và tổ chức sử dụng chúng [2,11].
Methamphetamine được tổng hợp bằng cách khử nhóm hydroxyl của ephedrin (phenylmethylaminopropanol) hoặc pseudoephedrin. Nếu nguyên liệu là ephedrin có từ cây Ma hoàng thì sản phẩm là d-methamphetamine có hoạt tính mạnh. Nếu nguyên liệu từ ephedrin tổng hợp thì sản phẩm của chúng là d,l- methamphetamine có hoạt tính kém hơn. Ở châu Âu, người ta tổng hợp MA từ phenylaxeton (benylmethylketon) [2,33].
3,4-methylenedioxyamphetamine (MDA) là chất ma túy tổng hợp dòng amphetamine rất giống MDMA. Lần đầu tiên được tổng hợp vào năm 1910 để làm thuốc giảm ngon miệng. Tuy nhiên do có tác dụng nguy hại đối với tâm thần, MDA đã không được tung ra thị trường như một loại thuốc hợp pháp. Tác hại của nó đối với hành vi nhân cách đã được nghiên cứu vào thập niên 1960, và bắt đầu từ đó xuất hiện trên thị trường bất hợp pháp đầu tiên ở Mỹ rồi lan ra toàn thế giới. Nó gây ảo giác mãnh liệt hơn MDMA và có thời gian tác dụng gấp đôi (từ 8 – 12 tiếng so với MDMA chỉ có 3 – 5 tiếng). MDA thường được chế tạo tại những địa điểm bí mật để thay thế cho MDMA và tung ra thị trường dưới dạng độc lập hay kết hợp với các loại ma túy khác[11].
3,4-methylendioxymethamphetamine, còn gọi là “ecstasy” (MDMA) lần đầu tiên được tổng hợp năm 1914 để dùng làm thuốc giảm ngon miệng, nhưng chưa bao giờ được công nhận là thuốc đã đăng ký. MDMA được dùng thử nghiệm trong điều trị bệnh tâm thần. Ecstasy là loại ma túy ăn chơi phổ biến đầu tiên ở Mỹ, sau đó là Châu Âu và ngày càng lan rộng ra những nơi khác trên thế giới. MDMA được chế tạo tại những địa điểm bí mật dưới dạng bột hay viên nén có nhiều màu sắc và hình ảnh khác nhau.
3,4-methylendioxy-N-ethylamphetamine (MDEA) là chất tổng hợp dòng amphetamine có tác dụng tương tự như ecstasy (MDMA). Tiếng lóng gọi là “Eve”, MDEA nổi tiếng là một loại ma túy của vũ trường ở một số nước. Nó được chế tạo bí mật để thay thế MDMA, trốn tránh kiểm soát và buôn bán dưới dạng viên nén thuần chất hay kết hợp với một số ma túy khác.
Các thông tin về bốn chất ma túy tổng hợp được phân tích gồm: MA, MDA, MDMA, MDEA trình bày trong bảng 1.1.
Bảng 1.1: Thông tin về các chất phân tích ( MA, MDA, MDMA, MDEA)
Chất
|
Tên gọi hóa học
|
CTPT
|
CTPT dạng phân tích
|
CTCT
|
KLPT (g/mol)
|
pKa
|
Tính tan
|
Nhiệt độ nóng chảy
|
Độ tinh khiết dạng bazo (%)
|
MA
|
d-Methamphetamin (phenylmethylaminopropan)
|
C10H15N
|
C10H15N.HCl
|
.HCl
|
185,7
|
9,9
|
tan trong Methanol
|
171 ± 5
|
80,2
|
MDA
|
3,4-methylendioxy amphetamine
|
C10H13NO2
|
C10H13NO2.HCl
|
.HCl
|
215,68
|
9,7
|
tan trong Methanol
|
188 ± 3
|
82,8
|
MDMA
|
3,4-methylendioxy methamphetamine
|
C11H15NO2
|
C11H15NO2.HCl
|
|
229,7
|
9,9
|
tan trong Methanol
|
149 ± 3
|
83,71
|
MDEA
|
3,4-methylendioxy-N-ethylamphetamin
|
C12H17NO2
|
C12H17NO2.HCl
|
.HCl
|
243,77
|
9,9
|
tan trong Methanol
|
200 ± 3
|
84,66
|
1.1.2. Vai trò và tác dụng của ma túy tổng hợp ATS
Tác động chủ yếu trên hệ thần kinh – hệ tim mạch – hệ tiêu hóa. Các biểu hiện đáng chú ý bao gồm: nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp kịch phát, bệnh lý mạch
máu não và viêm đại tràng thiếu máu. Những người lạm dụng ATS thường có hành vi tình dục không an toàn. Các tác dụng không mong muốn và ít nguy hiểm là: nóng bừng mặt, xanh xao, tím tái thiếu ô xy, sốt, đau đầu, nhịp tim nhanh, buồn nôn, nôn, mất men răng, thở hụt hơi, run, loạng choạng. Ở phụ nữ có thai thường thai nhi chậm lớn, nhẹ cân,vòng đầu nhỏ, sinh non.
Nếu dùng lần đầu hoặc dùng ít làm người ta ảo tưởng tăng năng lực phán đoán, năng lực thần kinh, tăng hiệu quả làm với các công việc đơn giản. Nhưng lại giảm hiệu quả đối với công việc phức tạp do thiếu tập trung. Nếu dùng thường xuyên hoặc liều lượng lớn sẽ có tác dụng ngược lại, như chán chường, mệt mỏi, ảo giác, hoang tưởng, hoảng loạn, đau đầu, tim đập nhanh, rối loạn vận mạch, kích động, lẫn lộn, suy nhược tinh thần [2].
Tác dụng giảm đau: các chất ATS có tác dụng giảm đau nhẹ, tuy nhiên chưa đủ để điều trị có hiệu quả.
Tác dụng trên hô hấp: các chất này kích thích trung tâm hô hấp, làm tăng nhịp và cường độ hô hấp. Ở người bình thường thì tác dụng không đáng kể nhưng khi hô hấp đã bị ức chế bởi các chất tác dụng trên hệ thần kinh trung ương thì chúng có tác dụng kích thích hô hấp rõ rệt.
Tác dụng gây chán ăn: amphetamin và các chất tương tự đã từng được dùng để điều trị chứng béo phì.
Về tâm thần: Bồn chồn, loạn khí sắc, mất ngủ, cáu kỉnh, hoảng sợ, lú lẫn, trở nên thù địch, và các triệu chứng của rối loạn lo âu. Ý tưởng liên hệ, hoang tưởng paranoid và các ảo giác cũng có thể xảy ra [2].
Liều dùng: người bình thường sử dụng không quá 200 mg đối với amphetamin và 1g đối với methamphetamine (MA), khi dùng quá liều sẽ gây hôn mê, co giật, chảy máu não dẫn đến tử vong. MDMA và MDEA với liều 30-100 mg có thể tạo ra tác dụng kích thích thần kinh vừa phải, gây khoái cảm và rối loạn nhận thức, liều 100-200 mg gây lo lắng, hoản loạn, ảo giác và trầm cảm.
Nguyên nhân: Do các chất ATS có tác dụng kích thích hệ thần kinh trung ương, làm mất ngủ, mất cảm giác đói, làm tăng thể lực và tinh thần một cách giả tạo. Vì vậy, trước đây các chất trong nhóm này được sử dụng trong y học làm thuốc chống trầm cảm, giảm thể trọng... Cơ chế tác dụng là do chúng giải phóng các amin nội sinh từ các vị trí ở đầu dây thần kinh, chủ yếu là norepinephrin. Một vài tác dụng khác là do việc giải phóng dopamin.