TỦ SÁch thăng tiến giáo dân giáo dân hợp tuyển số 8 tháng 9/2013 VỚi chủ ĐỀ giáo dân vớI giáo huấn xã HỘi củA giáo hội giêRÔnimô nguyỄn văn nộI



tải về 0.49 Mb.
trang3/6
Chuyển đổi dữ liệu30.07.2016
Kích0.49 Mb.
#9951
1   2   3   4   5   6

Lm. Gheg. Văn Ngọc Anh

Nguồn : VietCatholic News (30/11/2004 )

[Sưu tầm của GDHT]



BẢN CHẤT HỌC THUYẾT XÃ HỘI CỦA GIÁO HỘI

Thư tịch : CONGREGAZIONE PER L'EDUCAZIONE CATTOLICA, Orientamenti per lo studio e l'insegnamento della Dottrina Sociale della Chiesa nella formazione sacerdotale, Roma 1988.



Cha Giuse Phan Tấn Thành,O.P nguyên Khoa Trưởng Phân Khoa Thần Học đại học Angelicum, Rôma (nguồn: www.daminh.net)
Trong bài trước, chúng ta đã rảo qua bối cảnh lịch sử của học thuyết xã hội của Giáo hội, khởi điểm từ thông điệp Rerum Novarum năm 1891. Chúng ta có dịp nhận thấy sự tiến triển của học thuyết xã hội do những vấn đề mà hoàn cảnh chính trị xã hội đặt ra trong thế kỷ 20. Ngoài lý do hoàn cảnh bên ngoài, ta cũng có thể nói tới sự tiến triển của học thuyết xã hội do những động lực bên trong, về phương pháp suy tư và trình bày cũng như về chính bản chất của mình. Như chúng tôi đã có dịp nói tới, trong vòng 100 năm qua, học thuyết xã hội của Giáo hội đã nhiều lần thay đổi danh xưng lẫn phương pháp.

- Về danh xưng, nó đã mang nhiều tên khác nhau : “Học thuyết hay Đạo lý xã hội” (Doctrine sociale), “Triết học xã hội” (philosophie sociale), “Giáo huấn xã hội” (Enseignement social").



- Về phương pháp, thì lúc đầu nó đi theo đường lối diễn dịch của triết học, áp dụng những nguyên tắc của luật tự nhiên vào những hoàn cảnh cụ thể; nhưng gần đây thì nó đi theo phương pháp kết nạp giữa quy nạp và diễn dịch dựa trên phương thức : xem xét - phán đoán - hành động. Lần này, chúng tôi xin trình bày về bản chất của học thuyết xã hội của Giáo hội theo quan điểm hiện đại, dựa theo văn kiện của bộ Giáo dục Công giáo xuất bản năm 1988 về việc nghiên cứu và giảng dạy học thuyết xã hội trong các chủng viện. (Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo cũng đề cập tới vấn đề này ở các số 2419-2423). Chúng ta có thể tóm lại trong 6 điểm sau đây:

1) Tiên vàn, học thuyết xã hội của Giáo hội không phải là một ý thức hệ cũng không phải là một triết học, nhưng là một ngành của thần học luân lý. Những nguyên lý nền tảng của nó lấy từ mạc khải Kitô giáo về phẩm giá con người cũng như về những mối tương quan giữa con người với xã hội. Xét về điểm này, ta thấy có sự tiến triển lớn trong quan điểm về bản chất của học thuyết xã hội : nó không phải là một ngành của triết học, hoàn toàn dựa trên luật tự nhiên ; nhưng là một ngành của thần học dựa trên quan điểm Kitô giáo về phẩm giá và ơn gọi siêu việt của con người. Có thể nói được là sự chuyển hướng về quan điểm đã bắt đầu với Hiến chế Vui mừng và Hy vọng của công đồng Vatican II.

2) Học thuyết xã hội  nằm trong sứ mạng của Giáo hội phải rao giảng Tin mừng cho muôn dân. Giáo hội có nhiệm vụ phải công bố sự thực về đức Kitô cũng như sự thực về con người. Giáo hội cần phải loan truyền tin mừng về phẩm giá của con người mà đức Kitô mặc khải. Giáo hội cũng phải theo gương đức Kitô, đấng tuy giàu có nhưng đã trở thành khó nghèo vì chúng ta, để đi sát với người nghèo, tố cáo những cơ chế bất công chèn ép con người. Mặt khác, Giáo hội không phải chỉ giới hạn vai trò của mình vào việc tố cáo những tội lỗi, những bất công; Giáo hội còn muốn đóng góp phần của mình vào việc kiến tạo một xã hội công bằng nhân đạo hơn. Thực vậy, học thuyết xã hội của GH chứa đựng những đạo lý về việc tổ chức xã hội sao cho hợp theo lẽ công bằng và bác ái. (Xem Sollicitudo rei socialis số 41).

3) Học thuyết xã hội của Giáo hội là điểm gặp gỡ giữa Phúc âm với đời sống xã hội. Nói cách khác, học thuyết xã hội  một đàng dựa trên ánh sáng Phúc âm, nhưng một đàng khác cũng dựa trên những nguyên tắc lành mạnh của lý trí, triết học, các khoa học nhân văn. Giáo hội sử dụng tất cả những nguồn tri thức vừa kể để có một nhận thức khách quan về thực tại xã hội. Khi trình bày học thuyết xã hội, Giáo hội không đề ra những giải pháp kỹ thuật cụ thể về kinh tế chính trị, nhưng chỉ muốn vạch ra những tiêu chuẩn phán đoán cái gì thích hợp hay trái nghịch với nhân phẩm, với công bằng xã hội. Vì thế, vai trò của học thuyết xã hội  thường mang tính cách phê bình, nghĩa là nhận định xem những khuôn mẫu mà các chuyên gia về kinh tế chính trị xã hội đề ra có thực sự giúp cho con người phát triển hay không.

4) Học thuyết xã hội mang ba chiều kích :

Lý thuyết - lịch sử - thực tiễn.

a/ Lý thuyết, bởi vì đề ra những nguyên tắc luân lý về thực trạng của con người và đời sống xã hội.

b/ Lịch sử, bởi vì nó gồm có những phán đoán về những thực tại và hoàn cảnh biến thiên của lịch sử. Xét vì những hoàn cảnh này biến đổi liên tục tùy nơi và tùy thời, nên những phán đoán về chúng cũng cần được xét đi xét lại để xem những gì là phù hợp hay tương phản với nhân phẩm.

c/ Thực tiễn, bởi vì Giáo hội không phải chỉ đứng ngoài cuộc để phê phán, nhưng qua những phần tử của mình, Giáo hội muốn góp tay vào việc xây dựng một xã hội công bằng nhân đạo hơn khi mang ra áp dụng học thuyết xã hội.

5) Phương pháp. Để có thể nắm vững các vấn đề và nhận thức những nguyên nhân của chúng, học thuyết xã hội áp dụng phương pháp vừa quy nạp vừa diễn dịch, tóm lại trong công thức: nhìn, xét và làm.

a/ Nhìn, có nghĩa là học hỏi thực tại, nhờ những khoa học khác nhau: từ những khoa học nhân văn cho tới các khoa triết lý, và dĩ nhiên là không thể bỏ qua mặc khải Kitô học về con người.

b/ Xét, có nghĩa là cắt nghĩa thực trạng xã hội dưới ánh sáng của đức tin và của thực tại khách quan.

c/ Làm, có nghĩa là lựa chọn đường lối hành động, không những là qua việc thay đổi cơ cấu bên ngoài mà cả qua việc thay đổi tâm thức não trạng (tức là cải hoán theo tinh thần Phúc âm).

6) Giá trị. Từ thông điệp Mater et Magistra, các đức Giáo hoàng dần dần phân biệt trong HTXH những cấp độ giá trị khác nhau trong giáo huấn về các vấn đề xã hội, được Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo lặp lại ở số 2423. Có ba cấp độ chính: a/ nguyên tắc suy luận (principes de réflexion); b/ tiêu chuẩn phán đoán (critères de jugement); c/ chiều hướng hành động (orientations pour l'action).

Thực ra không dễ gì phân biệt ba cấp độ đó. Đại khái, với hai cấp độ đầu tiên thì có thể nói như sau : những nguyên tắc thì có tính cách bền vững, còn những phán đoán thì tùy thuộc vào những hoàn cảnh nhất thời. Sự phân biệt này đã được công đồng Vaticano II nói tới ở đầu Hiến chế Vui mừng và Hy vọng. Văn kiện này được chia làm hai phần: phần đầu gồm có những nguyên tắc đạo lý về con người, về thế giới; phần thứ hai thì phát biểu thái độ trước một vài vấn đề khẩn trương của thời đại. Do đó việc giải thích phần thứ hai cần được đối chiếu với những thực trạng của thời buổi đương thời, chứ không mang tính chất bất biến. Dĩ nhiên sự phân biệt này cũng được áp dụng trong toàn thể học thuyết xã hội của Giáo hội. Những nguyên tắc về phẩm giá con người, về trách nhiệm của con người đối với xã hội thì có tính cách bền vững. Còn những phán đoán về những vấn đề cụ thể thì thay đổi tùy theo hoàn cảnh xã hội. Thí dụ trong quá khứ, nhiều Giáo hoàng đã bênh vực quyền tư hữu chống lại những chủ nghĩa cộng sản; nhưng dần dần, trước những bất công của chế độ tư bản, Giáo hội cũng cho thấy những khuyết điểm của quyền tư hữu khi nó không đếm xỉa gì tới tình liên đới, dẫn tới sự bóc lột tha nhân. Từ đó, học thuyết về quyền tư hữu lần lần được bổ túc bởi học thuyết về việc các tài sản được dành cho toàn thể nhân loại hưởng dụng.

Đến cấp độ thứ ba (những chiều hướng hành động) thì lại càng lỏng lẻo hơn nữa, theo nghĩa là có nhiều đường hướng khác nhau để thực thi những nguyên tắc đạo lý. Do đó, các tín hữu công giáo không bắt buộc phải theo một đường hướng nhất định (thí dụ không buộc phải gia nhập một nghiệp đoàn, một đảng phái nào đó) khi tìm cách diễn đạt những nguyên tắc xã hội Kitô giáo vào lãnh vực cụ thể của một chính sách kinh tế, chính trị. Vì thế, một tín hữu công giáo tại Hoa kỳ có thể bỏ phiếu hay gia nhập Đảng Cộng hòa hay đảng Dân chủ, tùy theo họ thấy đảng nào có đường lối gần với học thuyết xã hội của Giáo hội hoặc là dễ có phương thế để cải cách xã hội cho hợp với những nguyên tắc của học thuyết xã hội.

Trong bài trước, chúng tôi đã điểm qua vài nguyên tắc suy luận, tựa như : nhân phẩm và nhân quyền, công ích, nguyên tắc liên đới và hỗ trợ, nguyên tắc tham gia vào sinh hoạt xã hội. Trong những bài sắp tới đây, chúng tôi xin điểm qua một vài áp dụng của những nguyên tắc và phán đoán vào lãnh vực kinh tế, chính trị quốc gia và quốc tế. Thực ra, học thuyết xã hội của Giáo hội còn bao gồm những vấn đề về gia đình, văn hóa, khoa học kỹ thuật; nhưng chúng tôi tạm gác qua một bên.

Trước khi kết thúc, thiết tưởng nên thêm một câu hỏi: học thuyết xã hội của Giáo hội dành cho ai ? Dĩ nhiên, tiên vàn học thuyết xã hội dành cho các tín hữu công giáo. Nhưng từ năm 1963, khi viết thông điệp Pacem in terris, đức Gioan XXIII đã muốn ngỏ lời với “hết mọi người thiện chí”. Việc Giáo hội công giáo muốn đối thoại với hết mọi người không phải chỉ vì lý do thực tiễn, tức là Giáo hội cũng sống trong một xã hội với cộng đoàn nhân loại và muốn xây dựng cộng đồng này chứ không phải cộng đồng trên cung trăng; nhưng còn vì một lý do khác nữa, đó là Giáo hội không muốn áp đặt một ý thức hệ hay một chủ thuyết nào trên cộng đồng nhân loại nhưng chỉ muốn cộng tác với mọi người khám phá ra cái gì phù hợp với lý lẽ chân chính, với khát vọng tự nhiên của con người. Giáo hội thâm tín rằng con người, dù theo tín ngưỡng hay ý thức hệ nào đi nữa, cũng đều khát vọng tới những giá trị căn bản tựa như: chân lý, tự do, công bằng, liên đới, hòa bình, yêu thương. Giáo hội muốn đồng hành với nhân loại để nhắm đạt tới những mục tiêu ấy.
Linh mục Phan Tấn Thành, O.P.

Đang tải dữ liệu

[Sưu tầm của GDHT]




NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN XÂY DỰNG HỌC THUYẾT XÃ HỘI – QUYỂN CẨM NANG (Compen-dium) GIẢI THÍCH BỐI CẢNH
Roma, 06/11/2004 (Zenit. org) - Giáo huấn Công giáo về xã hội thường đề cập đến tầm quan trọng của con người, hoặc những khái niệm như là công ích, nhưng không đi sâu vào nhiều chi tiết như đối với những gì chúng nhắm đến. Sau khi giải thích những yếu tố làm nền tảng xây dựng học thuyết xã hội của Giáo Hội, Quyển Cẩm Nang Học thuyết Xã hội của Giáo Hội vừa mới được công bố, đã dành riêng hai chương bàn về con người và đưa ra một loạt những nguyên tắc.

“Giáo Hội nhìn thấy nơi những người nam và những người nữ, nơi mỗi một con người, hình ảnh sống động của chính Thiên Chúa”, số 105 khẳng định. Đức Kitô, bằng việc nhập thể của Ngài, đã kết hợp chính mình với nhân loại, tiếp nối sự gián đoạn, trao ban cho chúng ta “một phẩm giá khôn sánh và bất khả chuyển nhượng”.

Điều này có liên quan đến xã hội, Quyển Cẩm Nang lưu ý, bởi vì nhân vật chính của đời sống xã hội luôn là con người. Thật vậy, toàn bộ giáo huấn xã hội được Giáo hội cống hiến “khai triển từ nguyên tắc khẳng định phẩm giá bất khả xâm phạm của con người” (Số 107).

Sách Sáng Thế nói về con người như là hữu thể được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Con người thụ tạo được đặt ở trung tâm và chóp đỉnh của tất cả tạo vật, và nhận lãnh từ Thiên Chúa hơi thở sự sống. Do đó, trong mỗi con người có một mối tương quan nội tại với Thiên Chúa, là điều không bao giờ có thể bị loại bỏ, cho dù có thể bị người ta quên đi hay không nhìn nhận (Số 108-109). Sách Sáng Thế cũng thuật lại cách người nam và người nữ cùng được sáng tạo với nhau như thế nào, do đó chứng minh rằng con người không phải là một tạo vật đơn độc, nhưng có một bản tính xã hội.

Trình thuật Kinh Thánh cũng nói đến tội lỗi đã tác hại bản tính con người như thế nào và trở nên “cội rễ của những chia rẽ cá nhân và xã hội” (Số 116). Tội lỗi, tách lìa khỏi Thiên Chúa, cũng kéo theo việc tách lìa khỏi tha nhân và thế giới chung quanh mình. Cũng có những tội lỗi tạo nên một cuộc tấn cống trực tiếp vào đồng loại, nhất là chúng tác hại đến những vấn đề công bình, quyền được sống, và quyền tự do tin vào Thiên Chúa.

Nhưng cùng với thực tại tội lỗi vẫn luôn hiện diện, chúng ta đừng quên “tính phổ quát của ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô”, Quyển Cẩm nang nhắc nhở (Số 120). Hơn nữa, ơn cứu chuộc do Đức Kitô mang lại có khả năng làm cho mỗi người thông phần bản tính của Thiên Chúa.

Quyển Cẩm nang cũng cảnh giác trước một vài sai lầm trong những ý niệm về con người. Chúng ta phải tránh những quan niệm giản lược chủ trương những cá nhân hoặc như là có quyền tự quyết tuyệt đối (absolutely autonomous) hoặc như chỉ là một tế bào trong một cơ thể to lớn. Một sai lầm khác đó là bỏ qua tính duy nhất giữa thân xác và linh hồn, lầm lẫn này có thể dẫn đến hoặc là chủ thuyết duy linh (spiritualism) khinh chê thân xác, hoặc chủ thuyết duy vật không nhìn nhận linh hồn (Các số 125-129).

Một xã hội công bằng

Dựa vào những hệ quả của quan niệm của Giáo Hội về con người, Quyển Cẩm nang khẳng định rằng chỉ có thể có một xã hội công bằng “khi nó được đặt nền tảng trên sự kính trọng phẩm giá siêu việt của con người” (Số 132). Bản văn cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tự do. Những nhà cầm quyền phải cẩn thận về những hạn chế mà họ đặt trên sự tự do (Số 133), và nhân phẩm của chúng ta đòi hỏi chúng ta phải hành động “theo khả năng lựa chọn có tự do và ý thức” (Số 135).

Tuy nhiên, sự tự do này không phải là vô hạn, bởi lẽ chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền quyết định điều gì là tốt hay xấu. Hơn nữa, sự tự do phải được sử dụng bởi một lương tâm được luật luân lý tự nhiên hướng dẫn (Các số 136-143).

Những hệ quả khác là:

- Phẩm giá bình đẳng của tất cả mọi người, bất luận giữa đàn ông hay đàn bà, hoặc những người thiểu năng (disabilities) (Các số 144-148).

- Bản tính xã hội của mọi người có nghĩa là chúng ta lớn lên và thực hiện ơn gọi của mình trong mối tương quan với những người khác (Các số 149-151).

- Sự hiện hữu các quyền của con người đặt nền trên phẩm giá của con người (Các số 152-155).

Chính trung tâm”

Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng về con người, Quyển Cẩm Nang tiếp tục xem xét những nguyên tắc cơ bản khác “cấu thành chính trung tâm của giáo huấn Công giáo về xã hội” (Số 160). Nguyên tắc cơ bản đầu tiên của chúng là công ích (common good).

Công ích vượt lên trên tổng số đơn thuần những lợi ích của cá nhân trong xã hội. Nó là toàn thể những điều kiện cho phép người ta đạt được sự thành toàn của mình một cách đầy đủ và dễ dàng hơn (Số 164). Những điều kiện này thay đổi tùy theo những điều kiện lịch sử cụ thể, nhưng bao hàm những yếu tố như là dấn thân cho hòa bình, một hệ thống pháp lý lành mạnh và cung cấp những dịch vụ thiết yếu.

Nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm công ích, nhưng các cá nhân cũng có trách nhiệm trong việc giúp cho công ích phát triển, tùy theo khả năng cho phép mỗi người. Nhà nước cũng có trách nhiệm điều hòa những thiện ích đặc thù của các nhóm người và các cá nhân với công ích. Đây là một nhiệm vụ tế nhị, Quyển Cẩm nang lưu ý, và trong thể chế dân chủ, nhà cầm quyền phải cẩn thận giải thích công ích không chỉ theo ý muốn của thành phần đa số, nhưng cũng phải tôn trọng thiện ích của các thành phần thiểu số.



Chia sẻ của cải

Nguyên tắc tiếp theo đó là mục đích chung của của cải (Các số 171-184). Thiên Chúa muốn trái đất và tài nguyên của nó có ích cho tất cả mọi người. Điều này có nghĩa là mỗi người phải được quyền hưởng đồng đều phúc lợi cần thiết cho sự phát triển đầy đủ.

Nguyên tắc này, Quyển Cẩm nang giải thích, phải được thực thi tùy theo bối cảnh văn hóa và xã hội khác nhau, nhưng không có nghĩa rằng mọi sự đều có sẵn cho mọi người sử dụng tùy ý. Quyền sử dụng tài nguyên của trái đất cần phải được thực hiện trong một đường lối công bằng và trật tự, theo một trật tự pháp lý minh bạch. Nhưng nguyên tắc này không loại trừ quyền tư hữu. Tuy nhiên, điều quan trọng đừng quên thực tại này là của cải chỉ là một phương tiện, chứ không phảỉ là cùng đích nơi chính nó.

Điều quan trọng cần ghi nhớ đó là: “Nguyên tắc của cải dành cho mọi người là một lời mời gọi phát triển một quan niệm về kinh tế được cảm hứng bởi những giá trị luân lý giúp cho mọi người không quên nguồn gốc và mục đích của của cải, hầu đạt đến một thế giới công bằng và liên đới, trong đó việc làm giàu của cải có thể nhận lấy một nhiệm vụ tích cực” (Số 174).

Quyển Cẩm nang cũng nhấn mạnh nguyên tắc dành quyền ưu tiên cho người nghèo, được thực thi bởi đức ái Kitô giáo, được cảm hứng từ sự khó nghèo của Đức Giêsu và việc Ngài quan tâm đến người nghèo.

Tổ chức xã hội

Một nguyên tắc khác xây dựng học thuyết xã hội đó là nguyên tắc bổ trợ (subsidiarity). Xã hội dân sự được thành lập bởi nhiều nhóm người, nhà nước không những chỉ nhìn nhận vai trò của họ và tôn trọng quyền tự do hành động của họ, nhưng còn phải giúp đỡ để họ có thể thực hiện chức năng của mình.

Mỗi người, mỗi gia đình và mỗi nhóm người đều có điều độc đáo để cống hiến cho cộng đồng, Quyển Cẩm nang lưu ý (Số 187), và việc từ chối vai trò này sẽ giới hạn, hoặc thậm chí phá hủy, tinh thần tự do và sáng kiến.

Do đó, nguyên tắc bổ trợ chống lại “một vài hình thức tập trung quyền lực, chế độ quan liêu bàn giấy, và sự trợ giúp phúc lợi cũng như sự hiện diện thái quá và không thể biện minh của Nhà nước trong những cơ chế công quyền”.

Một hàm ý của nguyên tắc bổ trợ là một nguyên tắc khác - đó là sự tham gia (participation). Thật là quan trọng khi tất cả mọi người đều cộng tác vào đời sống xã hội, văn hóa và chính trị (Số 189). Sự tham gia, Quyển Cẩm nang khẳng định, là một trong những cột trụ của hệ thống dân chủ.

Một nguyên tắc khác liên quan đến đời sống xã hội đó là sự liên đới (solidarity). Trong thời hiện đại có một ý thức ngày càng mạnh mẽ hơn về sự phụ thuộc lẫn nhau (interdependence) giữa các cá nhân và các dân tộc. Sự liên đới vừa là một nguyên tắc của đời sống xã hội vừa là một nhân đức luân lý (Số 193). Nhờ việc thực thi sự liên đới, mỗi người sẽ dấn thân cho việc thực hiện công ích và phục vụ tha nhân.

Do đó, sự liên đới nói lên ước muốn trao tặng chính mình vì thiện ích của đồng loại. Tuy nhiên, đây không chỉ là một mối quan tâm có tính nhân ái (philanthropic). Đồng loại của chúng ta, Số 196 nói, không chỉ là một ai đó có những quyền lợi “nhưng là hình ảnh sống động của Thiên Chúa Cha, được máu Đức Giêsu Kitô cứu chuộc và hằng được Chúa Thánh Thần tác động”.

Lm. Gheg. Văn Ngọc Anh

Nguồn : VietCatholic News (10/11/ 2004)

[Sưu tầm của GDHT]



BA YẾU TỐ QUAN YẾU CỦA HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO
Valencia - Trong tuần lễ suy tư về học thuyết xã hội Công Giáo đang diễn ra tại Tây Ban Nha, Đức Tổng Giám Mục Agustin Garcia-Gasco của tổng giáo phận Valencia đã đưa ra một lá thư mục vụ tựa đề “Dấn thân mà Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đòi hỏi nơi chúng ta”. Trong thư này, Đức Cha Agustin nói với các tín hữu rằng “những giá trị căn bản của loài người được bảo vệ nếu ba thiện ích căn bản là phẩm giá con người, cuộc sống và tự do tôn giáo được bảo vệ”.

“Chỉ khi nào chúng ta nhìn nhận những quyền không thể tương nhượng này chúng ta mới ngăn cản nổi những cản trở không thể chấp nhận được đối với nhân quyền”. Đức Tổng Giám Mục cũng nhấn mạnh rằng khi những quyền này bị chà đạp, hòa bình thế giới cũng bị lâm nguy.


Đặc biệt trong tình trạng đáng lo ngại hiện nay là quyền tự do tôn giáo của người Công Giáo giữa “một sự chế riễu có hệ thống về văn hóa đối với niềm tin tôn giáo”. Điều đáng lo là sự chế riễu này đang được thấy nhãn tiền không chỉ nơi các quốc gia Cộng Sản, Hồi Giáo mà còn tại “các nước dân chủ như tại Tây Ban Nha là những nước xem ra có sự tôn trọng vững chắc đối với quyền tự do của cá nhân”.
“Nếu không có một thái độ tôn trọng, nếu không soi sáng công lý để cho phép chúng ta hiểu biết và trao cho mỗi người cái gì thuộc về họ, hòa bình bị đe dọa trong mọi khía cạnh của cuộc sống xã hội”. Đức Tổng Giám Mục nhấn mạnh rằng “sự tôn trọng vô điều kiện phẩm giá mỗi con người” phải được nuôi dưỡng ở mọi cấp trong xã hội.
Sau khi chỉ ra rằng chúng ta được mời gọi là “những người chăm sóc cho hồng ân sự sống đã nhận được từ Thiên Chúa”, Đức Tổng Giám Mục cảnh cáo rằng phẩm giá con người đang “bị chà đạp trong xã hội chúng ta ngày nay mỗi khi có cuộc tấn công vào sự sống”, dù là từ “những cuộc xung đột vũ trang, chủ nghĩa khủng bố và các hình thức bạo lực đa dạng” hay từ “những cái chết thầm lặng vì đói, vì phá thai và vì các thí nghiệm trên phôi thai người”.
Đức Tổng Giám Mục kêu gọi người Công Giáo hãy thẳng thừng phản bác những ý thức hệ tương đối “là những thứ lý thuyết đưa sự sống con người đến những lúc khó khăn nhất trong sự tồn tại của nó vì chúng bắt nguồn từ những lợi nhuận hay những chính sách kinh tế coi con người là một gánh nặng khi người đó không còn khả năng sản xuất”.
Liên quan đến tự do tôn giáo, Đức Tổng Giám Mục nhấn mạnh rằng hòa bình trên thế giới đang bị đe dọa khi “các tín hữu Kitô và các tín đồ của các tôn giáo khác phải đương đầu với những khó khăn trong việc biểu lộ công khai và tự do xác tín tôn giáo của họ” và ngài cảnh cáo chống lại thứ “chủ nghĩa thế tục không khoan dung” đang tìm cách cấm mọi biểu hiện công khai của đức tin.
“Khi phẩm giá con người không được tôn trọng, khi sự sống bị tấn công và tự do bị áp chế, điều phải dẫn đến là một não trạng và một nền văn hóa thù địch với hòa bình”.

Trong phần kết luận, Đức Tổng Giám Mục Garcia-Gasco đã kêu gọi “sự tái thiết một nền văn hóa chân thực cho phẩm giá con người và các quyền căn bản”


Đặng Tự Do

[Sưu tầm của GDHT]



XÂY DỰNG XÃ HỘI CÔNG BẰNG

THEO HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO
Bài thuyết trình của Đức cha Phaolô Bùi Văn Đọc tại Hội thảo khoa học quốc tế "Công bằng Xã hội, Tránh nhiệm Xã hội và Liên Đới Xã hội" do tổ chức Misereor của Giáo Hội Công giáo Đức cùng với Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam (Viện Triết Học) đồng tổ chức, diễn ra tại Hà Nội, trong hai ngày 15 và 16 tháng 10 năm 2007.

Phần 1

DẪN NHẬP

Sống trong thời đại tin học và toàn cầu hoá, mỗi con người, mỗi tổ chức xã hội, mỗi đất nước càng có nhiều cơ may để gặp gỡ nhau và càng có điều kiện để “nối vòng tay lớn”. Những chiếc cầu nối liên hai bờ sông cả. Những con đường cao tốc nối gần những miền đất xa xôi. Những tuyến bay dài nối những phương trời xa lạ. Những hợp đồng kinh tế nối kết đời sống các dân tộc. Những gặp gỡ nối kết con người. Những giao lưu văn hoá nối kết các truyền thống. Những đối thoại tôn giáo nối kết niềm tin. Mọi cố gắng hợp tác và nối kết đều nhằm mục đích giúp con người xích lại gần nhau và sống chung với nhau.

Chủ đề Hội thảo khoa học quốc tế “Công bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và đoàn kết xã hội” của chúng ta là một cố gắng gặp gỡ và nối kết những quan điểm về xây dựng xã hội con người, từ đó mở ra cơ hội hợp tác với nhau nhằm mục đích phục vụ con người trong xã hội một cách hữu hiệu

Được vinh dự góp phần trong cuộc hội thảo này, tôi xin được giới hạn nội dung bài thuyết trình vào cụm từ thứ nhất là “công bằng xã hội”. Và xây dựng công bằng xã hội ở đây được trình bày theo Học Thuyết Xã Hội Công Giáo. Tuy nhiên, học thuyết này không hiểu như là một ý thức hệ, một lý thuyết xã hội, một dự án riêng cho một hệ thống kinh tế hoặc xã hội, cũng không phải là một lý thuyết luân lý trừu tượng cho các tập thể con người, nhưng là suy tư của Giáo hội về các thực tại con người và xã hội trong thời đại chúng ta nhờ lý trí và các ngành khoa học nhân văn, và dưới ánh sáng của Phúc Âm, từ đó đề nghị những nguyên tắc chỉ dẫn đời sống thực tiễn cho xã hội. Vì thế bài thuyết trình này được trải dài trong ba phần cụ thể như sau:

I. Con người và xã hội

II. Giáo Hội và Nhà Nước

III. Các nguyên tắc lớn của Học Thuyết Xã Hội Công Giáo



tải về 0.49 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương