TỰ ÐIỂn phụng vụ



tải về 0.56 Mb.
trang8/13
Chuyển đổi dữ liệu28.07.2016
Kích0.56 Mb.
#8221
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13

Ch


Chay Tịnh

(= Jeuen)

Tiếng La-tinh ieinium có nghĩa là tự nguyện tiết giảm ăn uống. Trong lịch sử nhân loại, khắp nơi đều thấy có việc thực hành chay tịnh tuyệt đối hay tương đối vì lý do tôn giáo hay vì các lý do khác. Qua việc chay tịnh, con người nhìn nhận mình lệ thuộc Thiên Chúa, vì lúc không sử dụng lương thực Thiên Chúa ban, con người cảm nghiệm được tính cách bấp bênh của sức lực mình: chay tịnh để tự hạ trước Thiên Chúa (xc. Tv 34,13; 68,11; Ðnl 8,3). Ăn chay là muốn bày tỏ cùng Thiên Chúa rằng: nếu không có Người, chúng ta không thể làm được gì; trong giây phút ta muốn cầu khấn Người một việc quan trọng (xc. Tl 20,26; 2Sm 12,16-22; Edr 8,21; Et 4,16), nhất là để nhìn nhận mình là tội nhân và qua việc nhìn nhận thực lòng tính cách hư vô của mình, con người khẩn cầu Chúa thứ tha (1V 21,27; Ðn 9,3). Chay tịnh thân xác chỉ có ý nghĩa khi đi đôi với một sự kiêng giữ hay xa tránh tội (xc. Is 58,1-12), nói khác đi, chay tịnh chỉ là hình thức bên ngoài (Mt 5,16-18).

Trong Tin mừng, Chúa Giê-su đã từng chay tịnh để chuẩn bị gặp gỡ Thiên Chúa hoặc chuẩn bị thực hiện công trình cao cả với Thiên Chúa. Như ông Mô-sê và ông Ê-li-a, Ðức Ki-tô đã chay tịnh 40 đêm ngày trong sa mạc (Mc 4,1; Xc. Xh 24,18; 34,28; 1V 19,8), trước khi công bố Luật mới trong bài giảng trên núi. Tuy nhiên Người cho thấy rằng chay tịnh tự nó chỉ có giá trị tương đối với các môn đệ, những người được mời tham dự bữa tiệc của Ðấng Thiên sai, thì chay tịnh nói lên thái độ sốt sắng đợi chờ Tân lang, tức là Ðức Ki-tô (Mt 9,14-15).

Chay tịnh của Hội thánh vào ngày thứ Tư lễ Tro và ngày thứ Sáu Tuần Thánh nói lên ý muốn đền tội và từ bỏ tội lỗi, đó cũng là một sự chuẩn bọ đón mừng lễ Phục sinh. Chay tịnh Thánh Thể được giới hạn một giờ trước khi rước lễ - 15 phút đối với các bệnh nhân - chủ yếu đây là một cử chỉ tôn kính, là sự chuẩn bị đón nhận chính Ðức Ki-tô trong bí tích, làm hiện thực công trình yêu thương tuyệt diệu của Người.
Chặng Dừng

(= Station)

Trong tiếng La-tinh, statio có nghĩa là đứng hoặc dừng lại. Ở Rô-ma, ngay từ thời cổ xưa của Ki-tô giáo, chặng dừng là nhà thờ nơi vị giám mục gặp gỡ con chiên của mình vào một ngày lễ phụng vụ khá quan trọng nào đó. Các sách bí tích của Hội thánh Rô-ma chỉ rõ trước chặng dừng cho nhiều ngày chúa nhật và ngày lễ (nhất là trong mùa Vọng và mùa Chay). Cũng có khi người ta tụ họp ở một nơi rồi từ đó kéo nhau đi sang một nơi khác, như nay vẫn còn thấy qua việc Rước Nến vào ngày 2 tháng 2 hoặc Rước Lá (xc. Lá, Nến). Một số cộng đoàn tu sĩ, nhất là đan sĩ, có thói quen đi chặng trong hành lang đan viện trước khi cử hành một số việc phụng vụ: các tu sĩ đứng yên lặng vài phút tại chỗ trước khi đi vào cung nguyện, mục đích là chuẩn bị con người mình trước việc cử hành phụng vụ sắp tới.

Trong các nhà thờ, chặng đàng Thánh giá là 14 nơi tưởng niệm cuộc Thương khó của Chúa Kitô, mỗi nơi có một dấu thánh giá và hình ảnh nghệ thuật gợi lại nội dung chặng đó. Thứ tự truyền thống như hiện nay không phải là hình thức duy nhất. Mỗi người cũng có thể đi đàng thánh giá bằng cách theo các chặng, ví dụ như bắt đầu từ bữa Tiệc ly và kết thúc bằng biến cố Phục sinh. Ði đàng thánh giá không phải là một việc phụng vụ, nhưng là một việc đạo đức (xc. Á Phụng vụ).


Chấm

(= Ininction)

Chấm là một trong những cách hiệp lễ dưới hai hình: linh mục nhúng Bánh thánh vào chén Máu thánh cho thụ nhân rước lấy. Khi sử dụng hình thức này đương nhiên không thể cho hiệp lễ trên tay (xc. Hòa chung).
Chân Ðèn Nhiều Ngọn

(= Candélabre)

(Xc. Nến)

Chất Liệu

(= Matière)

Nói theo thần học bí tích, cùng với mô thức chất liệu, là một trong hai yếu tố của bí tích: chất liệu là dấu hiệu khả giác của bí tích, ý nghĩa của nó được mô thức xác định.

- Trong bí tích Thánh tẩy: chất liệu gồm việc đổ nước trên trán của thụ nhân, hoặc dìm xuống bể nước.

- Trong bí tích Xức dầu bệnh nhân: chất liệu là việc xức dầu bệnh nhân trên tay và trên trán người bệnh.

- Trong bí tích truyền chức: chất liệu là việc đặt tay.

- Trong bí tích Thánh Thể: chất liệu là bánh và rượu.

- Trong bí tích Hôn phối: chất liệu được diễn tả qua việc chính hai người ký kết sự ràng buộc hôn nhân cách hợp pháp (khi đó mô thức là lời nói diễn tả sự ưng thuận).

- Trong bí tích Sám hội: chất liệu là hành động sám hối (ăn năn tội, xưng tội). Việc thống hối giả thiết phải có tội lỗi hối nhân đã phạm trước.
Chính Nhờ Ðức Ki-Tô

(= Per Ipsum)

"Chính nhờ Ðức Ki-tô, cùng với Ðức Ki-tô và trong Ðức Ki-tô, mọi vinh quang và danh dự đều thuộc về Cha là Thiên Chúa toàn năng, cùng với Chúa Thánh Thần muôn đời". Ðó là lời kết thúc mỗi kinh Tạ ơn. Ðó là vinh tụng ca chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi, chỉ có linh mục đọc, trong khi cầm đĩa đựng Mình Thánh và chén đựng Máu Thánh đưa lên với một cử chỉ tiến dâng (xc. Dâng Chúa vào Ðền Thánh). Có thể nói: đây là giây phút quan trọng nhất trong thánh lễ; các lời nói và cử chỉ đều diễn tả rõ rệt Ðức Ki-tô chịu hiến tế là Ðấng được Chúa Cha ban tặng đồng thời được dâng lại cho Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, để mưu ích cho toàn thể Hội Thánh.

Trong Cựu ước, một người trở thành tư tế khi nhận trong tay những lễ phẩm để "đưa lên đưa xuống" trước nhan Ðức Chúa (xc. Xh 29,24.26; Lv 14, 12.24; Ds 5,25...). Vì thế, việc hát hoặc đọc toàn thể kinh Tạ ơn - và câu kết kinh Tạ ơn - thuộc quyền của linh mục, làm nhân danh Ðức Ki-tô. Còn cộng đoàn phụng vụ thì hô lớn A-men khi kết thúc Kinh Tạ ơn, để tỏ ý chấp nhận Giao ước (xc. Xh 24,7).


Chiêm Niệm

(= Contemplation)

Nếu từ La-tinh contemplare (chiêm niệm), có thể được hiểu là sống trong đền thờ, thì tự nó, chiêm niệm là một hành vi phụng vụ tuyệt hảo. Trên Giê-ru-sa-lem thiên quốc, nơi mà Ðền Thờ là chính Thiên Chúa (Kh 21,22), sự chiêm niệm và hưởng kiến đều hoàn hảo. Tuy nhiên, ở dưới đất này, cái nhìn trong sáng cần có trong sự chiêm niệm phải kéo dài ra khỏi phụng vụ, không phải vì phụng vụ bị giới hạn cách này hay cách khác, nhưng vì giới hạn của chính chúng ta, là những con người chưa thể đón nhận được toàn bộ nội dung của những cử hành Giao ước (xc. Kinh nguyện, Sống).
Chu Kỳ Kính Thánh

(= Sanctoral)

Ðây là toàn bộ các ngày phụng vụ được dành cho việc cử hành kính các thánh vào những ngày ấn định trong lịch. Mừng kính các thánh còn là tôn vinh Thiên Chúa, vì khi tưởng thưởng công nghiệp của các thánh, Thiên Chúa tưởng thưởng chính các hồng ân của Người (xc. Kinh Tiền tụng các Thánh I). Tuy nhiên, không nên để cho việc mừng kính các thánh lấn lướt các ngày phụng vụ được dành để cử hành các mầu nhiệm chính của Ơn Cứu độ chúng ta trong Ðức Giê-su Ki-tô: mùa Giáng sinh với mùa Vọng, mùa Phục sinh với mùa Chay (xc. Phần phụng vụ theo mùa). Nên tham khảo các chỉ dẫn về qui luật thứ bậc các ngày phụng vụ trong phần nhập đề sách Lễ hay Các Giờ kinh Phụng vụ.
Chu Kỳ Phụng Vụ

(= Cycle)

Tiếng Hy Lạp kuklos nghĩa là vòng tròn. Trong các tôn giáo và các nền triết lý lớn, ý niệm chủ yếu là ý niệm tuần hoàn của sự trở về với thời đại hoàng kim nguyên thủy mà một chuỗi những suy thoái đã tách rời chúng ta ra khỏi thời đại đó. Chu kỳ phụng vụ, được lồng vào những chu kỳ của vũ trụ, cho phép thoát khỏi những chu kỳ của định mệnh và nhờ những nghi thức thích hợp, làm cho thời kỳ nguyên thủy trở thành thời hiện tại. Trong ý niệm này, thăng và trầm kế tục nhau.

Tuy nhiên, trong Ki-tô giáo thì không thể hiểu về chu kỳ như thế: chắc chắn rằng, mọi sự đều đến từ Thiên Chúa và trở về với Thiên Chúa. Sự kiện Thiên Chúa đến với chúng ta không hề ngụ ý nơi Người có một sự suy thoái nào. Một cách tự do và cá vị, Người đã ban mình cho chúng ta nhờ các hành động cứu độ Người đã thực hiện trong lịch sử. Lịch sử không phải là một mớ bòng bong vô ngã và tất yếu của một sức mạnh mù quáng, nhưng là sự nối tiếp những hành vi tự do được một cá nhân thực hiện trong thời gian. Ðể tác động đến chúng ta, Thiên Chúa hành động trong lịch sử, và chính chúng ta, khi đáp lại sáng kiến của Người, cũng hành động trong thời gian. Lịch sử cứu độ không theo chu kỳ, nhưng theo đường thẳng: việc Thiên Chúa hạ cố đến với chúng ta và việc chúng ta tiến lên với Người không phải là những hành vi kế tiếp nhau, nhưng xảy ra đồng thời và gắn bó với nhau; đó là một sự gặp gỡ, một Giao ước.

Dù vậy, trong Ki-tô giáo, vẫn có chu kỳ phụng vụ. Chu kỳ này đi theo những chu kỳ vũ trụ: chu kỳ thường nhật gồm những giờ kinh phụng vụ kế tiếp nhau, có trọng tâm là thánh lễ; chu kỳ hằng tuần bắt đầu từ chúa nhật và trở lại chúa nhật; chu kỳ hằng năm triển khai toàn bộ lịch sử cứu độ từ mùa Vọng này đến mùa Vọng khác một cách khá chi tiết.

Qủa thực, các chu kỳ khác nhau này cử hành chính mầu nhiệm Phục sinh: Ðâu là những vòng tròn đồng tâm, có bán kính lớn nhỏ hơn kém, đáp ứng nhu cầu của con người theo một tiết điệu giảm dần. Hội thánh không đi quanh vòng tròn. Theo hình trôn ốc, Hội thánh tiến bước về đích điểm định mệnh của mình, là sự hoàn tất Giao ước nơi Giê-ru-sa-lem trên trời. Thiên Chúa, Ðấng tạo dựng chúng ta, đã khơi dậy và nâng đỡ trong chúng ta tính năng động dẫn đưa chúng ta đến với Người. Bao lâu chúng ta chưa vĩnh viễn bước vào vòng tròn tương quan Ba Ngôi (xc. Ba Ngôi, Vinh quang), thì phụng vụ của thời đại Lịch sử Cứu độ này vẫn đặt chúng ta ở giữa đồi Can-vê với Giê-ru-sa-lem thiên quốc và, một cách mầu nhiệm, làm cho chúng ta trở thành những người cùng thời đại với nhau.


Chủ Sự

(= Célébrant)

Vị giám mục, linh mục hoặc phó tế, trong một cộng đoàn phụng vụ, đại diện chính thức của Ðức Ki-tô và vì thế thực thi trách vụ chủ tọa, được gọi là vị chủ sự. Tự bản chất, vị chủ sự cao nhất là đức giám mục, rồi đến các linh mục cùng hành lễ với người, và các phó tế thi hành tác vụ của mình (xc. Cử hành, Ðồng tế).
Chủ Tuần

(= Hebdomadier)

Tiếng Hy Lạp hebdomos, tiếng La-tinh hebdomas hay hebdomada nghĩa là thứ bảy, là một chu kỳ bảy ngày. Chủ tuần là người của tuần lễ, người trực tuần. Trong lãnh vực phụng vụ, chủ tuần là vị linh mục chủ sự thánh lễ và kinh thần vụ suốt một tuần lễ trong cộng đoàn tu sĩ hay linh mục. Trong các cộng đoàn không phải là tư giáo, vị chủ tuần chủ sự các nhiệm vụ chính trong giờ kinh thần vụ suốt một tuần: xướng và kết thúc kinh nguyện. Các vị trực tuần khác phải đọc các bài đọc ngắn, xướng các bài hát,v.v...
Chúa Nhật

(= Dimanche)

Trong tiếng La-tinh, dies dominicus nghĩa là ngày của Chúa. Mọi người đều biết đến việc ngày Chúa nhật. Ðối với các tác giả sách Tin mừng, Chúa nhật là ngày thứ nhất trong tuần, trong khi đối với người Do Thái, ngày sa-bát là ngày thứ bảy và là ngày cuối cùng (Mt 28,1; Mc 16,2.9; Lc 24,1; Ga 20,1.19; 1Cr 16,2), cho nên ngày Chúa nhật được gọi là Ngày của Chúa (Kh 1,10), vì đó là ngày Chúa sống lại: "Ðây là ngày Chúa đã dựng nên, ta hãy vui mừng và hoan hỉ trong ngày đó!" (Tv 117, 24). Nối kết với những lần Chúa Ki-tô hiện ra vào chiều ngày Phục sinh (Ga 20,26), và cũng nối kết với những bữa ăn mà Chúa Phục sinh dùng với các môn đệ (Lc 24,30.41-43), các Ki-tô hữu đầu tiên đã họp nhau để cử hành lễ Tạ ơn vào buổi chiều Chúa nhật (Cv 20,7tt).

Ðể cử hành biến cố Phục sinh cho tốt hơn, người ta đi đến chỗ tập họp vào sáng Chúa nhật, và chuẩn bị buổi cử hành này bằng một đêm canh thức. Như vậy, người ta đã đem lại ý nghĩa cho ngày người ngoại giáo gọi là ngày Mặt trời (tiếng Ðức: sontag; tiếng Anh: Sunday) và là ngày thứ hai trong tuần lễ vũ trụ (ngày Thổ tinh, Mặt trời, Mặt trăng, Hỏa tinh, Thủy tinh, Mộc tinh và Kim tinh). Ngày Chúa nhật là ngày mặt trời, vì đó là ngày Chúa Ki-tô, Mặt trời công chính đích thực (Ml 3,20) đã chỗi dậy sau giấc ngủ của sự chết cứu độ.

Trong nhãn quan Ki-tô giáo, vì là ngày thứ nhất trong tuần, tức là ngày nguồn gốc của mọi sinh hoạt Ki-tô giáo, nên ngày Chúa nhật cũng là ngày thứ 8, một chủ đề quan trọng trong biểu tượng các con số: nó gợi lên cái ở bên kia thời gian, gợi lên cái vĩnh cửu mà Chúa Ki-tô phục sinh đã bước vào, cái bến bờ nơi Người đang chờ đợi chúng ta (xc. Ga 21,4tt). Vừa là khởi điểm vừa là đích điểm, ngày Chúa nhật là trung tâm của chu kỳ phụng vụ hàng tuần, cũng như thánh lễ là trung tâm của chu kỳ hằng ngày, và lễ Phục sinh là trung tâm của chu kỳ hằng năm. Vì là ngày gốc và ngày cao điểm, ngày Chúa nhật là ngày hoàn hảo nhất cho tập họp Ki-tô hữu để cử hành lễ Tạ ơn: cử hành ngày này bằng việc tham dự thánh lễ Chúa nhật, đó là nhu cầu thiết yếu của mọi Ki-tô hữu. Ðể tỏ lòng tri ân vì cuộc sống mới do Chúa Ki-tô phục sinh đem lại, trong suốt ngày này, người ta tham gia những hoạt động mang dấu ấn của sự dữ tặng và dấu ấn của niềm vui.
Chúa Thánh Thần

(= Esprit Saint)

Trong tiếng La-tinh, Spiritus có nghĩa là hơi thở. Thần Khí Thiên Chúa, sức mạnh của Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống (St 1,2) được Cựu ước gọi bằng các từ: Gió, Hơi thở, Là nguyên lý làm sinh động, Thần Khí thổi vào mũi con người một Nguồn Sống, nghĩa là một hơi thở đem lại sự sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa. Như vậy, mọi sinh vật được sống động nhờ Thần Khí Thiên Chúa (xc. Tv 103,29-30). Tuy nhiên, những người Thiên Chúa trao cho sứ vụ đặc biệt còn được Thần Khí chiếm hữu cách sâu xa hơn nữa: các thủ lãnh, vua, tư tế và ngôn sứ (St 41,38; Ds 24,30; Tl 3,10; 1Sm 10,10-12; 16,13-14). Nhất là Thần Khí chiếm hữu Ðấng Mê-si-a (Is 11,2), nhằm làm cho toàn thể Dân Giao ước được nên sinh động. Vì bất trung, dân ấy không còn khả năng dâng lên Thiên Chúa việc thờ phượng trong Thần Khí nữa (xc. Ed 37; Tv 49 và 50).

Ðức Giê-su chính là Ðấng Mê-si-a, được thụ thai trong cung lòng Ðức Trinh nữ Ma-ri-a nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Người được đầy bảy hồng ân của Thần Khí, Ðấng đã ngự xuống và ở lại với Người (Ga 1,33), Người ban phát thần khí vô ngần vô hạn (Ga 3,34), và hoàn trả thần khí vào giờ Người được tôn vinh trên thập giá (7,39; 19,30). Thần Khí xuất khỏi Ðức Giêsu khi Người tắt hơi, thổi trên cac Tông đồ vào chiều ngày Phục sinh, đổ tràn như cơn gió mãnh liệt, dưới hình lưỡi lửa, vào ngày lễ Ngũ tuần. Thần Khí khai sinh ra Hội thánh, sau khi đã làm cho Ðức Giê-su đầu thai và đã tác động Người trong suốt đời hoạt động (Lc 4,1-18; 10,21). Thần Khí còn tiếp tục công trình của Người trong thế giới và hoàn thành việc thánh hóa (kinh Tạ ơn IV): Thần Khí liên kết với nước và máu (Thánh tẩy và Thánh Thể) để làm chứng cho Ðức Ki-tô, đưa các tín hữu vào đời sống của Chúa Con khi kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi!" (Ga 19, 34; 1Ga 5,6-8; Ga 4,6; Rm 8,15).

Kể từ khi Ðức Giê-su lên trời, Thần Khí không ngừng được gởi đến cho Hội thánh, qua Chúa Cha và Chúa Con: Thần Khí nhiệm xuất bởi Chúa Con (các tín hữu Ðông phương không nói Thần Khí nhiệm xuất bởi Chúa Con; họ bỏ chữ filioque của các tín hữu Tây phương trong kinh Tin Kính Công đồng Ni-xê-a Công-tăng-ti-nốp, thế kỷ X).

Các tín hữu được dìm vào trong Thần Khí khi chịu Thánh tẩy (Ga 3,4-8); chính Người đóng dấu ấn lên họ khi họ chịu Thêm Sức. Là Ðấng bàu chữa, Người ở bên các tín hữu (Ga 14,16-26; 16,7); Người được kêu cầu ngự xuống trên tế phẩm trong thánh lễ, khi đọc kinh cầu xin Thánh Thần. Qua trung gian tác vụ của linh mục, những người đã được Người thánh hiến (xc. Truyền chức), Người hoàn tất lễ tưởng niệm việc cứu chuộc, tức lễ Tạ ơn (Ga 14,26). Trong mọi bí tích, chính Người hành động, chính Người lại là Ðấng được ban tặng: Người vừa là tác nhân đệ nhất lại vừa là hiệu quả tối hậu (res tantum; xc. Bí tích).

Là mối dây liên kết Chúa Cha và Chúa Con, Thần Khí ở trong chính mầu nhiệm đời sống Ba Ngôi: Người là con sông tuôn chảy nước trường sinh, từ ngai Thiên Chúa và Con Chiên (Kh 22,1); vì xuất phát từ thiên đường đích thực là sự sống của Chúa Ba Ngôi, người tưới đẫm Cây ban sự sống (Thánh giá) và trở thành nguyên lý bản chất phong phú riêng của Thiên Chúa; với những dòng kênh là các động tác phụng vụ (xc. St 2,10; Kh 22,2). Chúa Cha và Chúa Con đến với chúng ta nhờ hiệu quả của Tình Yêu giữa Cha và Con, của Hơi thở do lòng yêu mến giữa Cha và Con. Thần Khí là Hồng ân tuyệt hảo, là Ðấng hoàn thành Công trình Thiên Chúa. Khi đón nhận Thần Khí nghĩa tử, chúng ta được sinh ra bởi Chúa Cha giống như Chúa Con, và có thể kêu lên "Cha ơi" cùng với Chúa Con. Là hình thức cô đọng toàn thể đời sống Ki-tô hữu, phụng vụ giúp chúng ta đón nhận và hoàn trả Thần Khí. Phụng vụ hôm nay là bảo chứng cho vĩnh cửu, là sự trao đổi yêu thương giữa Chúa Cha và Chúa Con trong Thánh Thần. Như vậy, Thần Khí, một cách nào đó, là Trung gian tối hậu củ phụng vụ trong vinh quang (xc. Tư tế).
Chúc Tụng (Thánh ca)

(= Benedictus)

Ðây là những chữ đầu trong bài ca của ông Da-ca-ri-a (Lc 1,67-68) trong lễ nghi cắt bì cho người con của ông là Gioan Tẩy Giả (1,59tt): "Chúc tụng Ðức Chúa là Thiên Chúa Israel..." Là một hành vi tạ ơn trước sự xuất hiện của Ðấng Messia, kinh Chúc Tụng tán dương lòng nhân từ của Thiên Chúa, Ðấng vẫn "nhớ lại Giao Ước của Người" (c. 72: xc. Tưởng nhớ). Mỗi ngày, Hội Thánh lặp lại bài ca này vào giờ Kinh Sáng, lúc vầng hồng xuất hiện ở phía Ðông (c. 78). Như vậy, Hội Thánh sẵn sàng để nhận biết thời giờ được Chúa viếng thăm (Lc 19,44: xc. 1,68.70) và hưởng dùng quyền năng cứu độ mà Thiên Chúa ngừng sắm sẵn (c. 69) hết mọi ngày trong suốt cuộc đời (c. 73). Kinh Chúc Tụng là giây phút long trọng nhất của giờ kinh Ca Ngợi.
Chuyển Cầu

(= Intercession)

Tiếng Latinh Intercedere nghĩa là can thiệp vào, đặt mình vào giữa. Phụng vụ làm cho toàn thể Hội Thánh tham dự vào chức tư tế của Ðức Kitô, Ðấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Như vậy, phụng vụ là thời điểm đặc biệt thuận tiện để chuyển cầu, nghĩa là cầu nguyện cho tất cả mọi người. Trong kinh Tạ Ơn, chuyển cầu là các công thức để dâng lên Thiên Chúa tất cả các tín hữu và hết mọi người, còn sống hay đã qua đời, nhờ sự chuyển cầu của các thánh. Cuối giờ Kinh Sáng và Kinh Chiều cũng có những lời cầu (xc. Lời Nguyện cộng đồng).
Chuông

(= Cloche)

Ngày nay chúng ta không biết được nguồn gốc việc sử dụng các chuông nhỏ làm hiệu báo, trong lãnh vực đời cũng như đạo. Trong các nghi thức thánh, chuông nhỏ có hai chức năng: xua đuổi tà thần, và gợi cho cộng đoàn đang cử hành phụng vụ nhớ lại những kỷ niệm đẹp đẽ về Thiên Chúa của mình (xc. Xh 28,33-35; Hc 45,9). Nhờ những tiếng lục lạc gắn ở phẩm phục vị thượng tế, Ðức Giavê và Dân Người nhớ lại Giao Ước: cả hai cùng nhớ lại mối liên hệ đã được ký kết.

Vào thời đầu của Kitô giáo, chiêng, phách, chuông, kèn, mõ được sử dụng để làm hiệu triệu tập cử hành phụng vụ. Vào thời bình an triều Công-tăng--ti-nô, các cộng đoàn phát triển đông đảo, các sinh hoạt trong các đan viện trở nên phong phú, thì cần có những hiệu báo lớn hơn. Do đó, bắt đầu có chuông lớn, ít là vào đầu thế kỷ VI. Tên gọi chung là signum (dấu hiệu, hiệu báo), còn từ clocca có lẽ do từ clog trong tiếng Ai-len, là một quả chuông nặng các nhà truyền giáo thường sử dụng và từ klochôn trong tiếng Ðức cổ có nghĩa là vỗ, gõ (thế kỷ VIII).

Từ thế kỷ VIII, bắt đầu có nghi thức rửa tội chuông. Tiếng chuông là tiếng các thiên thần xua đuổi tà thần, và kêu gọi các tín hữu đến cử hành phụng vụ; chuông có địa vị cao quý, và cần được chúc lành một cách long trọng. Ðức Giám Mục định một ngày thanh tẩy các chuông, mỗi chuông được xức bốn lần, xông hương một lần. Cuối buổi lễ, người kéo chuông ngân nga vang trời.

Theo truyền thống, người ta ngưng kéo chuông từ thánh lễ ngày thứ Năm Tuần Thánh đến lễ Phục Sinh: đó là dấu hiệu Hội Thánh chịu tang. Dân gian cho rằng những ngày đó các chuông đều trở về Rôma.


Chư Thánh

(= Toussaint)

Theo lịch sử, lễ trọng kính các thánh có lẽ gắn liền với việc cung hiến đền Panthéon cổ xưa tại Rôma, do Ðức Bônifaciô IV cử hành vào đầu thế kỷ VII. Lúc đầu, đền Panthéon được dâng hiến cho chư thần, giờ được dâng hiến cho Ðức Maria và các vị tử đạo; sau này thêm các vị hiển tu. Ngày kỷ niệm giáp năm cung hiến đền Panthéon, cũng là lễ Các Thánh, ban đầu được ấn định vào 13 tháng 5. Ðến năm 835, dời vào 1 tháng 11.

Lễ Các Thánh liên kết Hội Thánh lữ hành với niềm hạnh phúc của Hội Thánh trên trời: việc mừng lễ này không chỉ nhắm đến tất cả các vị thánh đã được tôn phong (xc. Thánh nhân) tức là những vị đã được Hội Thánh dùng thẩm quyền của mình mà quả quyết là đang sống trong vinh quang của Chúa, nhưng cũng còn hưởng đến tất cả những vị thực sự đang sống trong hạnh phúc với Chúa. Cũng như lễ cung hiến, lễ Các Thánh cho ta thưởng nếm trước phụng vụ vĩnh cửu đang khởi đầu nơi phụng vụ trần gian (PV số 8).


Chử Ðỏ

(= Rubrique)

Do tính từ ruber trong tiếng latinh có nghĩa là màu đỏ. Chữ đỏ là phần in bằng mực đỏ trong các sách phụng vụ. Ðó không phải là bản văn phụng vụ, nhưng là những qui định cách thức cử hành phụng vụ. Những người bám sát chử đỏ là những người chỉ chú trọng đến lề luật trong việc cử hành hơn là quan tâm đến ý nghĩa sâu xa của các chức năng phụng vụ.
Chương

(= Chapitre)

Tiếng Latinh Capitudum do từ gốc Caput có nghĩa là đầu, Capitulum là một phần của một chương trong sách lề luật đọc mỗi ngày tại các đan viện hay kinh sĩ hội. Do đó capitulum được dùng để chỉ các kinh sĩ hay các đan sĩ nghe các bài đọc nói trên, về sau dùng để chỉ căn phòng họ ngồi nghe đọc sách.

Hội đồng vương cung thánh đường là đoàn kinh sĩ chính thức, có nhiệm vụ thay mặt giáo phận để cử hành phụng vụ của Hội Thánh, gồm thánh lễ và các giờ kinh phụng vụ. Một tổ chức như thế nói lên niềm xác tín rằng kinh nguyện phụng vụ có vai trò ưu tiên trong đời sống mục vụ của giáo phận.


Chưởng Nghi

(= Cérémonaire)

Là người phụ trách tổ chức và trông coi việc thi hành các nghi lễ phụng vụ. Vị chưởng nghi mặc áo trắng dài hoặc áo các phép.



tải về 0.56 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương