TỰ ÐIỂn phụng vụ



tải về 0.56 Mb.
trang2/13
Chuyển đổi dữ liệu28.07.2016
Kích0.56 Mb.
#8221
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13

Áo Lễ


(= Chasuble)

Vào những thế kỷ đầu, đây là loại áo choàng được dùng như thường phục. Còn trong các nghi lễ phụng vụ, người ta sử dụng một loại áo choàng đặc biệt, dần dần trở thành một loại áo dành riêng cho các giáo sĩ, thuộc mọi cấp bậc, kể cả các thày giúp lễ. Chỉ mãi sau này, áo choàng mới trở thành lễ phục dành riêng cho giám mục và linh mục.

Áo lễ ngày nay lấy lại hình thức và kích thước như ban đầu. Trong vài thế kỷ gần đây, nó từng được thu gọn lại như cái hộp đựng đàn violon. Hình thức hộp đựng đàn này đã là cơ hội cho nghệ thuật thêu làm nên nhiều kiệt tác. Ngày nay, nhiều nước, trong đó có Ý, vẫn còn sử dụng kiểu áo đó.

Trong nghi lễ truyền chức, linh mục nhận áo lễ sau khi được xức dầu trên tay. Áo lễ mặc ngoài áo trắng dài và dây các phép. Ðó là áo của vị chủ sự thánh lễ. Khi đồng tế, ít nhất vị chủ sự phải mặc áo lễ.

Khi mặc áo lễ, vị linh mục mang lấy Ðức Ki-tô, và hành động trong tư cách của Người.
Áo Nhà Tạm - Áo Phủ Bình Ðựng Thánh Thể

(= Pavillon)

Áo nhà tạm là tấm vải phủ trên nhà tạm (xc. Khăn phủ nhà tạm). Áo phủ bình đựng Thánh Thể là tấm vải hình tròn phủ trên bình đựng Thánh Thể.

Áo Phó Tế


(= Dalmatique)

Ðó là loại áo khoác ngoài, có nguồn gốc từ vùng Dalmatia (ngày nay là một phần của Nam Tư) được sử dụng khá phổ biến trong đế quốc La Mã ở những thế kỷ đầu. Ðó là một áo lễ tay ngắn, nhưng được xẻ ra ở phía dưới cánh tay.

Khoảng thế kỷ IV hay V, áo này trở thành y phục riêng của các phó tế mặc bên ngoài áo dài trắng và dây các phép. Trong những buổi lễ đại triều, các giám mục có thể mặc áo này bên trong áo lễ: y phục này ám chỉ giám mục là phó tế đích thực, nghĩa là dấu chỉ bí tích của Ðức Ki-tô. Người Tôi tớ (xc. Phục vụ). Chức phó tế là sự tham dự vào sứ vụ của giám mục và những cộng tác viên của người, trong mối dây phục vụ.

Áo Ren


(= Rochet)

Áo ren là loại áo các phép có ren, các giám mục, các kinh sĩ và một số phẩm chức mặc ngoài áo chùng, khi tham dự những buổi lễ long trọng các vị không đích thân cử hành. (xc. Áo các phép).



Áo Trắng Dài


(= Aube)

Trong các tôn giáo, việc cử hành nghi lễ được hiểu như một sự mô phỏng hoạt động của thần linh. Người hành lễ, đặc biệt là vị tư tế hay vị chủ sự, phải giữ mình tinh sạch theo nghi tiết đòi buộc, được biểu trưng bằng y phục trắng. Vì vậy, các thợ dệt của Ít-ra-en đã làm cho tư tế A-a-ron và các con ông "những áo dài bằng vải gai mịn, một khăn chít bằng vải gai mịn, mũ tế bằng vải gai mịn, quần bằng vải gai mịn se, đai lưng bằng sợi gai mịn se..." (Xh 9,27-29).

Trong Tân ước, y phục trắng là dấu chỉ đặc biệt của sự phục sinh, của đời sống mới do mầu nhiệm Phục sinh đem lại cho chúng ta. Theo bốn tác giả Tin mừng, các thiên thần xuất hiện trong biến cố Phục sinh mặc áo dài trắng: "Thiên thần Chúa từ trời xuống và đến lăn tảng đá rồi ngồi trên đó. Người có diện mạo rực rỡ và áo người trắng như tuyết" (Mt 28,3; Xc. Mc 16,5; Lc 24,4; Ga 20,12).

Khi Ðức Ki-tô vinh quang hiện ra với thánh Gio-an trong phần mở đầu sách Khải huyền, Người mặc một chiếc áo dài (podèrès trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là áo dài phủ tới chân). Ðó là y phục của vị thượng tế (1,13; Hc 50,11). Người hứa ban cho những tín hữu thông phần chiến thắng của Người được mặc áo trắng: "Họ sẽ mặc áo trắng cùng đi với Ta, vì họ xứng đáng. Như thế, ai thắng sẽ được mặc áo trắng; Ta sẽ không xóa tên người ấy khỏi sổ trường sinh" (3,4-5; xc. c.18). Thực vậy, đoàn lũ đông đảo những người được chọn xuất hiện trong y phục hoàn toàn trắng: "Ðứng trước ngai và trước Con Chiên, tay cầm nhành lá thiên tuế, họ lớn tiếng tung hô: Chính Thiên Chúa chúng ta, Ðấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta" (7,9-10).

Thánh Gio-an được nghe giải thích rằng những người mặc áo trắng này là "những người đã đến sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Ðền thờ của Người; Ðấng ngự trên ngai sẽ căng lều của Người cho họ trú ẩn" (14,15). Khi vị Hôn thê xuất hiện, sẵn sàng vào dự tiệc cưới Con Chiên, vẻ xinh đẹp của nàng được điểm tô bằng mầu trắng: "Nàng đã được mặc áo vải gai sáng chói và tinh tuyền; vải gai đây chỉ những việc lành của các Thánh" (19,8).

Như vậy, áo trắng là y phục của những người được tái sinh, những người đã giặt áo mình trong máu Con Chiên: những người đã chịu Thánh tẩy coi như đang sống phụng vụ Nước trời và đã bước vào đời sống thần linh. Chính vì thế, khi lãnh bí tích Thánh tẩy, các trẻ nhỏ và người lớn đều mặc áo trắng trừ ngày Thứ bảy và Chúa nhật in albis. (xc. Bài ca Quasimodo). Trong ngày lễ bao đồng, các thiếu niên cũng mặc áo trắng.

Trong những cuộc cử hành phụng vụ, các linh mục, các vị chủ sự, cũng như các người tham dự, mặc áo trắng như dấu chỉ sự tháp nhập của họ vào đời sống Thiên Chúa, được phụng vụ thể hiện nhờ những nghi thức thánh. Màu trắng là màu của phụng vụ vĩnh cửu, là lời kêu gọi ta sống thánh thiện tinh tuyền để bước vào ánh vinh quang.

Cần ghi nhận rằng, đối với Hội thánh Ðông phương, màu trắng là màu của tang chế.



Âm Nhạc


(= Musique)

Âm nhạc được coi là ngành nghệ thuật cao nhất. Phụng vụ nhằm qui tụ và hiến dâng toàn thể nhân loại lên Thiên Chúa, nên không thể không dành cho âm nhạc một vị trí quan trọng, vì âm nhạc có khả năng rất lớn trong việc giúp cho những lời thánh thiêng cũng như những tâm tình cầu nguyện đạt tới hết tầm mức của mình; đồng thời âm nhạc cũng là một yếu tố hiệp nhất cộng đoàn đang ca hát và lắng nghe.

Công đồng Va-ti-ca-nô II nhấn mạnh đến vị trí ưu tiên của âm nhạc trong phụng vụ: "Truyền thống âm nhạc của Hội thánh toàn cầu đã làm nên một kho tàng vô giá, vượt hẳn mọi ngành ghệ thuật khác, nhất là vì điệu nhạc thánh đi liền với lời ca làm nên thành phần cốt yếu và trọn vẹn của Phụng vụ long trọng" (PV số 112 và những số tiếp theo) (xc. Tiếng hát, Bình ca, Nghệ thuật).

Ân Xá


(= Indulgence)

Ân xá là ơn Hội thánh ban để tha hình phạt do tội lỗi gây ra, qua việc thực thi một vài hành vi cụ thể. Ban đầu, ân xá được gắn liền với các cuộc hành hương Ðất Thánh, sau đó được phát triển nhân cơ hội thánh Phan-xi-cô xin Tòa thánh ban ơn toàn xá cho những người viếng đền Portiuncula. Ðến cuối thời Trung cổ, việc gia tăng ân xá một cách thái quá, cùng với việc lãnh nhận dường như máy móc, là một trong những nguyên nhân đưa đến cuộc Cải cách của ông Luther.

Sau Công đồng Va-ti-ca-nô II, đức Giáo hoàng Phaolô VI đã ban hành tông hiến Giáo lý về Ân xá (01/01/1967). Cần ghi nhận rằng: việc ban ân xá không phải là lỗi thời, nhưng được gắn liền với tín điều Hiệp thông các thánh. Thực vậy, ân xá là việc tha thứ trọn vẹn hay một phần những hình phạt tạm thời do các tội đã phạm, dù các tội này đã được tha về phương diện lỗi phạm. Người tín hữu nhận được ân xá khi có lòng chân thành thực hiện một số điều kiện được quy định, qua sự can thiệp của Hội thánh. Là Thừa tác viên ban phát ơn cứu độ, Hội thánh có quyền ban phát kho tàng đền bồi của Ðức Ki-tô và của các thánh. Các ân xá, đại xá hay tiểu xá, được ban cho các tín hữu. Có thể giữ lại cho mình hay nhường cho người đã qua đời, nhưng không thể nhường cho người còn sống.

Trong phụng vụ, cần lưu ý rằng: linh mục có quyền ban ơn toàn xá cho người hấp hối (in articulo mortis), đặc biệt khi ban bí tích Xức dầu hoặc ban Của Ăn đàng. Ai tham dự nghi thức Suy tôn Thánh giá ngày thứ sáu tuần Thánh cũng được lãnh nhận ơn toàn xá, nếu có ý muốn lãnh nhận.

Theo truyền thống, việc tham dự thánh lễ và các bí tích không đem lại ân xá, vì thánh lễ và bí tích đã có hiệu quả trổi vượt là thánh hóa và tẩy luyện. Trong những trường hợp đặc biệt (rước lễ lần đầu, lễ mở tay, các cuộc lễ mừng kỷ niệm) nếu có ban ân xá thì không phải vì do tham dự thánh lễ hay bí tích, nhưng là vì những trường hợp đặc biệt đi kèm với việc cử hành thánh lễ hoặc bí tích. Mọi việc lành, nếu được hưởng ân xá, chỉ vì có liên hệ với đời sống phụng vụ, nguồn mạch và đỉnh cao của toàn bộ đời sống Ki-tô giáo (xc. Sống).
Ấn Tích

(= Caraetère)

Ấn tích là hiệu quả đầu tiên và bền bỉ của các bí tích chỉ lãnh nhận một lần: Thánh tẩy, Thêm sức và Truyền chức. Có thể làm mất ân sủng là hiệu quả cuối cùng của mọi bí tích, nhưng không thể mất dấu tích thiêng liêng in vào tâm hồn qua ba bí tích vừa nói trên. Ấn tích là một một năng quyền thánh được ban cho để cử hành phụng vụ. Chỉ có con cái Thiên Chúa được ghi dấu Thánh Thần để trở thành nghĩa tử (2 Cr 1,12; EP 1,13) mới được cử hành Giao ước chung cục trong Bửu huyết Ðức Ki-tô, được tiến vào công cuộc ngợi khen Vinh quang (Ep 1,14) nhờ tham dự vào địa vị của Con Thiên Chúa. Chỉ những người được đóng ấn của Thiên Chúa trên trán (Kh 7,3tt; 9,4) mới được tham dự phụng vụ thiên quốc. Khi tham dự phụng vụ dưới thế, đó cũng là tham dự trước phụng vụ trên trời.

Nhờ ấn tích Thánh tẩy và Thêm sức, mọi Ki-tô hữu được tham dự phụng vụ một cách sung mãn, liên kết với Ðức Ki-tô như Hôn thê với Hôn phu, và như thế, được tham dự vào đời sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, trong địa vị là người con, Ấn tích Truyền chức đồng hóa Ki-tô hữu sâu xa hơn với sứ vụ của Con Thiên Chúa nhập thể, để phục vụ ơn cứu độ (phó tế) và để tế tự (giám mục và linh mục), vì lợi ích của toàn Dân Chúa. Linh mục không phải chỉ là người hành động hiệp nhất với Ðức Kitô để dâng lên Chúa Cha mọi danh dự và vinh quang, nhưng còn là người hành động như chính Ðức Ki-tô (in persona Christi). Khi đứng trước cộng đoàn, linh mục là hiện thân sống động của Ðức Ki-tô trong Hội thánh, dấu tích của chính Hôn phu. Nếu không có ấn tích Truyền chức ghi trên một số phần tử của Dân Chúa, thì ấn tích của Thánh tẩy và Thêm sức sẽ mất đi năng quyền quan yếu nhất: tức là việc liên kết có tính khách quan và bí tích với Ðức Ki-tô, và việc tham dự sung mãn vào Hy tế của Người (xc. Cộng đoàn Phụng vụ, Tư Tế



B



tải về 0.56 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương