TỪ chỉ VỊ trí trong tiếng nhật và tiếng việTPHÐP HéI ¢M TRONG CÊU T¹O CH÷ N¤M VIÖT
S.TSKH Nguyễn Quang Hồng* Mở đầu Từ những ký tự Hán ngữ quen thuộc, các thế hệ tiền bối của người Việt đã tạo ra nhiều chữ Nôm ghép (hợp thể) theo phép Hình thanh (ghép ký tự biểu nghĩa với ký tự biểu âm) và phép Hội ý (ghép hai ký tự cùng biểu nghĩa). Bên cạnh đó, trong các văn bản chữ Nôm ghi tiếng Việt, còn thấy không ít những chữ do ghép hai thành tố cùng biểu âm để tạo nên một chữ Nôm mới. Như: {另lánh + 令“lệnh} > llánh (tránh). Hay như: {古 cổ +弄 lộng} *[klo] > Sống. Những chữ vuông kiểu này chưa hề được phản ánh trong thuyết Lục thư của Hứa Thận đời nhà Hán. Các nhà nghiên cứu chữ Nôm từ lâu đã quen biết những chữ Nôm đặc biệt này, song chính thức gọi tên kiểu tạo chữ này là phép Hội âm (trong mối liên tưởng với phép Hội ý), thì dường như lần đầu tiên được nói tới năm 1986 trong Đề cương biên soạn bộ Tự điển chữ Nôm do Viện Nghiên cứu Hán Nôm chủ trì thực hiện (NXB Giáo dục, 2006). Danh ngữ này cũng đã được GS Nguyễn Tài Cẩn dùng đến trong một bài nghiên cứu về chữ Nôm trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, công bố năm 1989 [xem: Nguyễn Tài Cẩn, 2001, tr.208]. Đi sâu vào khảo cứu những chữ Nôm hội âm, chúng ta sẽ bắt gặp những cứ liệu đa dạng và phức tạp hơn nhiều so với những gì đã được biết tới. Cung cấp những cứ liệu đa dạng như thế và thực hiện việc phân tích chúng trên bình diện văn tự học là những gì chúng tôi muốn trình bày trong bản báo cáo này. Với hai ví dụ vừa dẫn trên đây, trên đại thể, chúng ta có thể phân chia tất cả các chữ Nôm hội âm thành hai loại chính, căn cứ vào vai trò của các thành tố tạo chữ trong chức năng biểu âm: chữ Nôm hội âm đẳng lập và chữ Nôm hội âm chính phụ. 1. Hội âm đẳng lập Trong phép hội âm đẳng lập, cả hai ký tự biểu âm đều có vai trò ngang nhau trong chức năng biểu âm, và chúng “nương tựa vào nhau” để cùng thể hiện âm đọc của ngữ tố Việt. 1.1. Số lượng các chữ Nôm thuộc loại cấu trúc này không nhiều so với chữ hình thanh hay hội ý, nhưng chúng đã xuất hiện từ rất sớm trong các tác phẩm thời nhà Trần và rải rác cho đến cuối thời nhà Nguyễn. - Trước hết, có một vài chữ còn lưu lại trong văn bản tác phẩm Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông:
- Trong Hồng Đức quốc âm thi tập thời Lê Thánh Tông, chúng ta cũng bắt gặp một chữ Nôm hội âm đẳng lập:
Dưới thời nhà Nguyễn, những chữ Nôm hội âm đẳng lập không đến nỗi hiếm hoi như ở thời nhà Lê, đặc biệt thường thấy trong tác phẩm của các văn nhân ở miền Trung và miền Nam: - Trong Từ điển Hán Việt Tự Đức thánh chế tự học giải nghĩa ca:
- Trong Lục Vân Tiên truyện (bản khắc Duy Minh Thị, 1874) của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu có 2 chữ:
- Trong Phú bần truyện diễn ca của Trương Minh Ký (bản khắc ở Gia Định năm 1884), có 3 chữ trong đó chữ 之二 Gì được sử dụng rất nhiều lần:
- Trong Lý hạng ca dao (bản sao của Trần Duy Vôn) cũng có một chữ hội âm đẳng lập:
- Chúng tôi còn gặp một vài chữ hội âm đẳng lập mà trong đó có một thành tố vốn đã là một chữ Nôm rồi, như chữ {坘 lời + 例“lệ”} Rày trong bài Văn tế chị của Nguyễn Hữu Chỉnh và chữ Mấy trong bài Hịch đánh Trịnh cũng của Nguyễn Hữu Chỉnh thời Lê mạt.
Ngoài ra, ở một vài tác giả khác [Đào Duy Anh. Chữ Nôm - tr.81; Nguyễn Tá Nhí. Các phương thức biểu âm..., tr.144-148] còn nêu ra mấy chữ “ghép âm” nữa, như: Giữ, 末蜜 Mặt, Rồng, Và, ... Nhưng trong số này chỉ có chữ 末蜜 Mặt mới đúng là “hội âm đẳng lập”, còn các chữ khác e rằng không phải, vì trong cấu trúc của chúng có một thành tố vốn đã là thành tố biểu nghĩa rồi: 宁 (< 貯 “trữ”) là “giữ”, 曡 “long” là “rồng”, 番 “phiên” là “lần”, và nên coi đó là những chữ Nôm hình thanh. Trong Tự điển chữ Nôm - 2006 do nhóm chúng tôi biên soạn có thu nạp chữ hội âm 馬美 {馬 “mã”+” 美 “mỹ”} đọc là Mở, nhưng kiểm tra lại văn bản thì rất tiếc là các câu dẫn đều dùng chữ Mở khác: 鎼 {美 “mỹ” biểu âm +開 “khai” biểu nghĩa}, đó là một chữ hình thanh quen thuộc. 1.2. Với những chữ dẫn ra trên đây thì trong mỗi chữ có hai thành tố gần như đồng âm với nhau. Ta có thể gọi đó là hội âm đẳng lập chính danh. Ngoài ra, thảng hoặc có thể bắt gặp một ít chữ mà trong đó hai thành tố biểu âm có âm đọc khác hẳn nhau, và âm đọc của chữ Nôm mới do chúng tạo nên bị rơi vào tình trạng “lưỡng khả” (hoặc theo thành tố này, hoặc theo thành tố kia). Nếu tách riêng ra, mỗi ký tự có thể đã là một chữ Nôm mượn thẳng để ghi cho một ngữ tố Việt, nhưng gần nghĩa với nhau. Những chữ này cũng xin tạm coi là chữ Hội âm đẳng lập, nhưng không được “chính danh” cho lắm, vì ở đây dường như có sự can thiệp bởi sự liên tưởng về ngữ nghĩa. Chữ Hội âm đẳng lập tạm gọi là giả danh như vậy không nhiều, chỉ lẻ tẻ mấy trường hợp:
2. Hội âm chính phụ Trong phép “hội âm chính phụ”, thì một thành tố biểu âm chỉ đóng vai trò phụ trợ để thể hiện phần âm đầu vốn dĩ gồm hai phụ âm của ngữ tố Việt thời trung đại (như: 筗 {巴 “ba” + 斏 “lăng”} *blăng > trăng / giăng; {古 “cổ” + 弄 “lộng”} *klong > trống v.v.), hoặc giả để điều chỉnh âm đọc vốn có của ký tự còn lại (như: 塀 {布+司} *Bua > vua, 筽 {意 +个} ấy, v.v. Theo đó có thể phân biệt 2 nhóm chữ hội âm chính phụ, dựa vào vai trò “biểu âm” hay “chỉnh âm” của thành tố phụ. 2.1. Thành tố phụ có chức năng biểu âm. Đây là loại chữ hội âm có mặt ngay từ khi chữ Nôm mới hình thành để phản ánh cấu trúc ngữ âm C1C2VC3 của từ đơn tiết trong tiếng Việt sơ thuỷ, như đã thấy trong bản giải âm kinh Phật thuyết, và sau đó còn lưu lại trên văn bản các tác phẩm thời trung đại. Xin dẫn sau đây những chữ hội âm chính phụ như thế trong 3 tác phẩm thời trung đại mà ở đó các thành tố phụ có chức năng thực sự biểu âm cho phụ âm kép đầu âm tiết. - Trước hết là trong bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh. Theo khảo sát của chúng tôi, trong văn bản này đã dùng ít nhất là 9 ký tự phụ cho chữ hội âm để góp phần thể hiện phụ âm C1 trong các tổ hợp phụ âm C1C2 - đầu âm tiết với khá nhiều chữ Nôm hội âm. Sau đây chỉ kê ra một số trường hợp như vậy: (a) 阿 “a” thể hiện âm tắc họng *[ʔ-] (hoặc âm xát họng [h-]) trong *[ʔ-], *[ ʔl-] và cả *[ ʔ r-], *[ ʔph]. Ví dụ:
- Trong tác phẩm Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông (bản khắc Liên Hoa, 1745), ta bắt gặp 6 chữ Hội âm chính phụ với 4 k tự phụ như sau:
- Trong văn bản Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi (bản khắc năm Tự Đức 21, 1868), ta thấy không ít các chữ Nôm ghép với ký tự phụ như đã thấy trong các tác phẩm trước, nhưng thực sự có khả năng biểu âm phụ chỉ có thể là một số trường hợp như sau: (a) 阿“a” có lẽ thể hiện âm tắc họng *[ʔ-] hoặc xát họng *[h-] trong *[ʔj-] / *[hj]: {阿 “a” + 耶 “da”} *[ʔja] > Giơ: 検 襖旦叢林 . Giơ tay áo đến tùng lâm [5a]. (b)巴 “ba” thể hiện âm *[b-] trong *[bl-] và *[bd-]. Như:
(d)車 “cư” / “xa”, 巨 “cự”, 古 “cổ” thể hiện âm *[k-] trong *[kl-] (và có thể cả *[kr], *[ks], *[sl-], *[kj]?) ở các chữ như:
Khi liệt kê các chữ Nôm trên đây và thử “tái lập” âm đọc của từ hay ngữ tố mà chúng đại diện, chúng tôi tự cho phép mình làm việc hoàn toàn độc lập với một số tác giả khác (chẳng hạn: Hoàng Thị Ngọ, Shimizu Masaaki), và để ngỏ khả năng có nhiều cách tiếp cận và ghi âm khác nhau. Bởi vì bức tranh ngữ âm mà các chữ Nôm hội âm đang xét phản ánh là hết sức phức tạp, thuộc nhiều thời kỳ khác nhau, và cũng bị chi phối bởi nhiều nhân tố khác nữa trong khi viết chữ. Mà ngay trong cùng một văn bản, chưa kể sự can thiệp sửa chữa của người đời sau khi sao chép hoặc khắc in lại các văn bản này, thì vốn cũng đã có khi sử dụng nhiều cách viết cho cùng một từ hay ngữ tố tiếng Việt. Đặc biệt đáng lưu là sự tồn tại “song thức” và thậm chí “tam thức” trên chữ viết để ghi âm cho cùng một từ Việt. Tình hình này khá phổ biến trong bản giải âm kinh Phật thuyết, xin dẫn một vài ví dụ:
Với những trường hợp như thế, ta có thể đặt giả thiết như sau: Cách viết tách rời 2 ký tự để ghi một từ (như {巴 低} > Để, {多 迷} Về, v.v.) là phản ánh cách đọc song tiết Cv-CVC; cách viết 2 ký tự gộp lại thành một chữ Nôm hợp thể (như {巴+低} > Để; 米个 {米+个} và {多+迷} > Về, v.v.) là phản ánh cách đọc đơn tiết với tổ hợp âm đầu: CCVC, và đây là chữ Nôm hội âm chính phụ. Còn trường hợp chỉ viết với 1 ký tự là cách ghi âm đại khái bằng một chữ Hán theo phép giả tá. Việc thêm vào những chữ đơn giả tá này một ký tự phụ nào để tạo chữ Nôm hội âm chính phụ đôi khi dường như là “lưỡng khả”. Ví dụ:
Đối với Hằng là một ngữ tố Hán Việt, nếu ngày xưa cũng đọc đúng như vậy, thì tại sao lại phải gia thêm vào chữ Hán này một thành tố phụ nữa để làm gì, nếu không muốn thể hiện một cách đọc hơi khác. Nhưng ở đây lại không gia thêm một thành tố phụ duy nhất, mà khi thì dùng个“cá” (với âm *[k-]), khi thì dùng波 “ba” (với âm *[b-]). Cũng vậy với ngữ tố thuần Việt Trái: khi thì dùng thành tố phụ巴“ba” (với âm *[b-]), khi thì dùng巨“cự” (với âm *[k-]). Phải chăng những hiện tượng “bất nhất” trên hình thức chữ viết như đã nêu có thể cho ta thấy tình hình thực tế trong phát âm một số từ ngữ thời bấy giờ là chưa thật sự ổn định, có sự dao động giữa song tiết Cv - CVC với đơn tiết CCVC và cả CVC. Đồng thời cũng chưa có sự ổn định trong cách phát âm các tổ hợp phụ âm đầu C1C2, nhất là khi C1 là *[b-] hay *[k-]. 2.2. Tuy nhiên, cũng không nên nghĩ rằng tất cả các ký tự phụ như thế được dùng trong chữ Nôm ghép đều đảm nhiệm chức năng biểu âm thực sự. Trước hết, cần phải loại trừ những chữ hình thanh, trong đó thành tố biểu nghĩa hoặc biểu âm lại chính là những ký tự ta thường gặp trong chữ Nôm hội âm (như: 爯 {羌 “khương” biểu âm + 司 “tư” biểu ý “soi xét, trông coi”} > Gương [26a] trong Cư trần lạc đạo; 儯 {丁 “đinh” biểu ý “đứa, thằng” + 多 “đa” biểu âm} > Đứa [33b, 50a] hoặc: 琾 {魚 “ngư” biểu ý + 个 “cá” biểu âm} > Cá [13a] trong Quốc âm thi tập, v.v.). Trường hợp chữ 塀 {布 “bố” + 司 “tư”} > Vua; { 巨 “cự” + 懶 “lãn”} > Lớn lại dường như cho phép giải thuyết theo cả hai hướng: vừa là chữ hình thanh, vừa là chữ hội âm chính phụ (GS Đào Duy Anh có lẽ đã suy đoán nhầm, khi ông viết rằng: “Chúng tôi thấy có hai chữ 爯 (gương) và (vui), 羌viết (khương) và 盃 (bôi) rồi thêm dấu cá hay nhấp nháy là đủ rồi, người ta không hiểu thêm chữ 司 (tư) là có ý nghĩa gì. Chúng tôi đoán rằng chữ 司 là do dấu cá个 viết lộn thành, sau sự viết lầm ấy, người ta đã giữa cách viết quen lầm lẫn cho đến ngày nay” [Đào Duy Anh, 1975, tr.82]). Tiếp theo, có không ít những chữ Nôm tự tạo mặc dù mang các ký tự phụ quen thuộc, song chúng không tham gia biểu âm, mà chỉ làm nhiệm vụ báo hiệu cho người đọc biết điều chỉnh cách đọc âm Hán Việt của thành tố biểu âm sao cho thích hợp mà thôi. Chúng ta tạm gọi đây là những chữ Nôm hội âm chính phụ giả danh. Những chữ Nôm như vậy đã xuất hiện ngay từ văn bản còn lại của các tác phẩm có niên đại sớm mà chúng ta đang quan tâm xem xét. Chẳng hạn như:
Các ký tự phụ, đặc biệt là个“cá”, được tiếp tục sử dụng trong các văn bản của những tác phẩm thời sau. Vai trò thuần tuý chỉnh âm của chúng được thể hiện qua một vài ví dụ khá điển hình với tiếng Ấy (ss. “ý”) và Cược (ss. “cục”), xuất hiện trong bản giải âm Truyền kỳ mạn lục:
Những chữ Nôm hội âm phản ánh âm đầu là C1C2 - ở các tác phẩm thời đại trước vẫn tiếp tục được kế thừa để dùng đến trong các văn bản ở thời đại sau (như thời Lê mạt và thời nhà Nguyễn), mặc dù vào thời sau này, các thuỷ âm kép kiểu C1C2 - hầu như đã không còn trong tiếng Việt nữa. Bởi vậy, không nên hễ thấy trong văn bản bất kỳ thời nào mà có những chữ mang các ký tự biểu âm cổ như 巴 “ba”, 車 “xa”/ “cư”, 古 “cổ”, 巨 “cự”, 麻 “ma”, 司“tư”, v.v. thì liền tưởng rằng thời ấy vẫn bảo lưu các âm cổ C1C2 tương ứng. Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum, et Latinum, 1651) của Alexandre de Rhodes chỉ ghi nhận 3 phụ âm kép là bl-, ml-, tl-, cho thấy muộn nhất là đến giữa thế kỷ XVII trong tiếng Việt đã không còn các C1C2- kiểu ps-, pl-, ks-, kn-, kl-, sl-, v.v…, như chúng có thể đã được ghi nhận trong các văn bản chữ Nôm xuất hiện trước đó, mà các cứ liệu ngôn ngữ dân tộc họ hàng cũng góp phần chứng minh. Sang đầu thế kỷ XVIII, có thể bắt gặp trong thư từ giữa các thầy giảng người Việt một ít từ với âm đầu bl-, ml- (mnh-) như Blở (= trở), mlời (= lời / nhời). Thế nhưng những âm đầu phụ âm kép như thế hầu như không hề lưu lại dấu vết gì trong bộ Từ điển Việt-La (Dictionarium Anamittico Latinum) của Pierre Pigneaux de Béhaine (tức Bá Đa Lộc Bỉ Nhu), bản thảo viết tay hoàn thành vào năm 1722. Bởi vậy, xét giá trị biểu âm của các thành tố phụ trong chữ Nôm hội âm, cần phải phân biệt hai khả năng: Một là, các thành tố phụ phần lớn có thể thực sự phản ảnh các âm cổ là các cụm phụ âm C1C2 khá đa dạng trong tiếng Việt khoảng từ cuối thế kỷ XVII về trước. Hai là, kể từ đầu thế kỷ XVIII về sau, các thành tố phụ trong chữ Nôm hội âm hầu như không còn giá trị thể hiện âm đọc vốn có nữa, mà trở thành yếu tố thuần tuý hình thức, chỉ có tác dụng “điều chỉnh” âm đọc của thành tố chính (báo hiệu không đọc theo âm Hán Việt) mà thôi. Những thành tố phụ không thực sự đại diện cho một phẩm chất âm thanh như vậy, vẫn được kế thừa để tạo ra các chữ Nôm mới ở thời sau. Và càng về sau, vai trò thuần tuý “điều chỉnh” âm đọc càng dồn lên vai của thành tố phụ dễ viết nhất là ký tự “cá” 个. Cuối cùng, thay vì ký tự “cá” 个 là một dấu hiệu chỉnh âm không thành chữ là dấu “nháy” ‹ (chủ yếu trong các văn bản viết tay thời Nguyễn). Thế nhưng xu hướng tạo chữ theo cấu trúc “hình thanh” (biểu âm + biểu ý) sớm xuất hiện và ngày càng phát triển mạnh khiến cho lối viết chữ Nôm với ký tự phụ “cá” 个 hay dấu “nháy” ‹ nhanh chóng bị đẩy lùi vào quá khứ. Tuy nhiên, ta không nên đánh đồng giá trị của ký tự “cá” 个và dấu “nháy” ‹ vì hai lẽ: Một là, “cá” 个vốn biểu thị một âm thanh có thực (như *[k-] trong Phật thuyết), còn dấu “nháy” ‹ thì chưa bao giờ có được phẩm chất đó. Hai là, và điều này liên quan đến cấu trúc hình thể của chữ nhiều hơn: nếu “cá” 个là một chữ đơn hẳn hoi, vốn được mượn làm ký tự biểu âm như tất cả các chữ làm thành tố phụ khác, thì dấu “nháy” ‹ đơn thuần chỉ là dấu... “nháy”, không là chữ, cũng không là một “bộ kiện” tạo chữ (như “bộ thủ” trong chữ “hình thanh” chẳng hạn). Nói về ký tự biểu âm của chữ Nôm tiếng Việt, có một điều cần lưu ý về mặt lý thuyết văn tự là, ở chữ Nôm cũng như các hệ chữ vuông cùng loại hình như chữ Hán, các ký tự tham gia biểu âm chưa bao giờ diễn biến theo xu hướng rút gọn lại thành một danh sách hữu hạn, quy nạp và cải tạo hình thể để lập thành một hệ thống các ký tự ghi âm chuyên biệt (như chuyện đã xảy ra với chữ Kana của người Nhật chẳng hạn). Chỉ khi nào xu hướng chuyên biệt hoá trong tạo lập các ký tự ghi âm được thể hiện rõ rệt, lập thành một hệ thống “ký tự ghi âm” hoặc chữ cái với một số lượng xác định, và khi viết chữ không cần đến các ký tự biểu nghĩa nữa, thì khi ấy mới có thể nói tới khả năng hình thành một hệ thống văn tự ghi âm thực sự được. Chữ Nôm, như đã biết, mặc dù gánh vác một chức năng biểu âm rõ rệt, trước sau vẫn là một hệ thống chữ viết “biểu âm - biểu ý”. Nhận xét bổ sung (1) Xin có đôi lời thuyết minh thêm về hiện tượng dùng hai chữ Hán viết “tách rời” để ghi âm cho một từ tiếng Việt thời sơ thuỷ với cấu trúc ngữ âm là Cv-CVC, như chúng ta có thể bắt gặp khá nhiều trong văn bản giải âm kinh Phật thuyết. Với chữ Nôm, đây cũng là bước sơ khởi dùng chữ Hán để ghi âm các từ ngữ của tiếng Việt xưa. Tuy nhiên, khi nhìn nhận chữ Nôm như một hệ thống đã định hình, tương ứng với tiếng Việt từ khi đã thực sự chuyển thành một ngôn ngữ đơn lập - âm tiết tính, thì hiện tượng viết chữ chưa khuôn vào một ô vuông như thế, lại không tồn tại lâu dài về sau, có thể coi như là hiện tượng sơ khởi và không đi vào hệ thống, tức là không “nhập hệ”. Chúng ta chỉ nên xem xét riêng hiện tượng này khi nói về thời kỳ sơ thuỷ trong lịch sử hình thành chữ Nôm. Có một số từ Việt được ghi bằng hai chữ Hán như vậy vẫn tiếp tục xuất hiện trong các văn bản chữ Nôm thời sau, nhiều khi là vì tiền âm tiết Cv - đã được “đánh giá” như một âm tiết độc lập rồi. Chẳng hạn như trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, bên cạnh các chữ Hình thanh như 廏 Đá, 懯 Ngàn, đôi khi ta còn gặp các hình thức song tiết 羅廏 la đá, 羅懯 la ngàn, ... (như: 鬪勜岃羅廏檘 - Dấu người đi la đá mòn [10a], 羅懯筃搩蔑尚奚 - La ngàn non nước một thằng hề [38a]). Ở đây, chữ 羅 la chiếm một âm tiết hẳn hoi trong dòng thơ lục ngôn, hoặc thất ngôn, và chữ廏 đá, chữ 懯 ngàn không chỉ đơn thuần là chữ biểu âm đơn thể, mà đã “nghĩa” hoá thành chữ hình thanh với thành tố biểu ý là石 “thạch” cho 廏 đá hoặc 千 “thiên” cho 懯 ngàn. Vậy phải coi ký tự 羅 “la” là một chữ Nôm riêng rồi, dù nghĩa chữ này không được xác định riêng. (2) Có thể nhận thấy rằng: trong cấu trúc chữ Nôm hội âm (đẳng lập cũng như chính phụ), ít nhất là có một thành tố tự nó vốn đã có thể được dùng để ghi ngữ tố Việt đang xét (theo phương thức biểu âm đơn thể). Vậy mục đích của việc tạo chữ hội âm như thế là gì? Có người nghĩ rằng làm như vậy “chẳng lợi gì mà còn có hại cho cách đọc” [Đào Duy Anh. Chữ Nôm - tr.81]. Với một số chữ hội âm đẳng lập đã dẫn ra ở trên, nhất là thuộc loại không chính danh, như đã nói, nếu chỉ nhìn vào mặt chữ thì hoàn toàn có thể cho ta hai cách đọc phải lựa chọn. Tình trạng “lưỡng khả” này chỉ được giải quyết nhờ dựa vào ngữ cảnh mà chúng xuất hiện. Tuy nhiên, cũng không phủ nhận một vài khía cạnh tích cực của lối cấu tạo hội âm đẳng lập này: Một là, bằng cách này, người ta thực hiện được phần nào việc Nôm hoá mặt chữ, hạn chế bớt các chữ Hán mượn thẳng để ghi âm tiếng Việt. Hai là, qua đó, triệt tiêu được khả năng đọc theo âm Hán Việt và liên tưởng ngữ nghĩa với chữ Hán đơn thể được mượn dùng, yên tâm đọc theo “âm Nôm nghĩa Nôm”. Còn các chữ hội âm chính phụ thì chức năng “biểu âm” của ký tự phụ đối với phụ âm C1 trong tổ hợp C1C2 đầu âm tiết là hết sức rõ ràng ở thời kỳ đầu hình thành chữ Nôm tương ứng với thực tế ngữ âm tiếng Việt đương thời. Và so với thực tế ngữ âm tiếng Việt thời cuối Lê đầu Nguyễn về sau, tất cả các ký tự đó chỉ được kế thừa dùng đến như là một biện pháp đánh dấu cho việc cần phải điều chỉnh âm đọc của ký tự chính trong chữ Nôm đang xét sao cho phù hợp. (3) Cuối cùng, ta hãy liên hệ sang chữ Hán, xem ở đó có diễn ra những gì tương tự như vừa trình bày trên đây về cấu trúc “biểu âm hợp thể” (tức hội âm) trong chữ Nôm hay không. Trong giới nghiên cứu về chữ Hán, chưa từng có một học giả nào nói đến những trường hợp gọi là chữ Hán “biểu âm hợp thể”(hội âm đẳng lập hoặc chính phụ) như chữ Nôm. Quả thực, trong hàng vạn chữ Hán đang được biết tới, chẳng có một chữ nào thuần tuý biểu âm mà lại có thể phân tích chúng ra được thành hai ký tự biểu âm ghép với nhau. Trong khi đó, một số học giả dựa trên sự đối chiếu các nhóm chữ Hán hình thanh có âm đọc khác nhau mà lại cùng chung một ký tự biểu âm, đã đi đến những giả thiết về sự có mặt các âm đầu “phức hợp” trong ngữ âm Hán thượng cổ, như: *[kl-], *[ml-], *[pl-] và cả *[kt-], *[kp-], *[mp-], *[nt-], *[xm-]...Chẳng hạn: Ký tự 各 “các” vừa biểu âm cho 格 “cách”, 閣 “các”, vừa biểu âm cho 路 “lộ”, 洛 “lạc”, v.v. Như vậy, có nhiều khả năng là 各 “các” vốn có thuỷ âm C1C2 là *[kl-], nhưng 格 “cách”, 閣 “các” chỉ giữ cho mình C1 là *[k-], còn 路 “lộ” 洛 “lạc” thì chỉ ứng với C2 *[l-]. Song cũng có thể là tất cả các chữ đó đều mang thuỷ âm C1C2 *[kl-]. Thuyết này khởi đầu bởi học giả người Anh là Edkins và được học giả người Thuỵ Điển là B.Karlgren trình bày kỹ trong một công trình của mình về ngữ âm tiếng Hán và âm Hán Nhật, công bố năm 1940. Hai nhà Hán học S.E. Jakhontov (Nga) và E.G. Pulleyblank (Hoa Kỳ) cũng cho rằng thời thượng cổ, tiếng Hán đã từng có các phụ âm kép, song tất cả đều biến mất từ trước thời nhà Đường [E.G. Pulleyblank,1962]. Trong giới ngữ học và văn tự học Trung Quốc, có người cơ bản tán thành thuyết này (như GS Đổng Đồng Hoà trong Hán ngữ âm vận học), cũng có người kịch liệt phản đối (như GS Đường Lan trong Trung Quốc văn tự học). Cho đến nay, vấn đề phụ âm “phức hợp” có thực sự tồn tại trong tiếng Hán thượng cổ hay không, vẫn là một đề tài còn đang tiếp tục tranh cãi. Tuy nhiên, dẫu rằng vấn đề này sẽ được chứng minh theo hướng nào, thì có một sự thật đáng ghi nhận là khi sáng tạo ra phép cấu tạo chữ Nôm theo cấu trúc “biểu âm hợp thể” (hội âm), tổ tiên người Việt đã không học hỏi được gì ở cách cấu tạo đã có trong chữ Hán, không hề được phản ảnh trong thuyết “Lục thư” của Hứa Thận. Đây thực sự là một sáng tạo quan trọng trong lĩnh vực ngữ văn của ông cha ta, khiến cho chữ Nôm có thể tương thích với cơ cấu ngữ âm tiếng Việt thời bấy giờ. Khuôn hai thành tố biểu âm vào một chữ vuông để tạo ra chữ “biểu âm hợp thể” là một thành tựu nổi bật, song phải chăng đây là một thành tựu riêng của chữ Nôm tiếng Việt. Trong các hệ văn tự ô vuông cùng loại hình với chữ Nôm, hiện chúng tôi chưa tìm thấy một chữ nào thuộc loại “hội âm chính phụ” phản ánh phụ âm kép đầu âm tiết CC - như chữ Nôm Việt (việc dùng chữ “cá” và dấu “nháy” chỉ để chỉnh âm thì cũng có), trong khi đó thì ở chữ Nôm Việt loại chữ này chiếm vị thế khá rõ rệt, nhất là ở giai đoạn đầu trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Còn đối với loại chữ “hội âm đẳng lập” thì thảng hoặc có thể bắt gặp đôi ba chữ trong chữ Choang (“cổ Tráng tự”) hoặc chữ Dao ở Trung Quốc. Ví dụ như mấy chữ sau đây trong Cổ Tráng tự tự điển [Quảng Tây, 1989]:
TƯ LIỆU HÁN NÔM
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Каталог: jspui -> bitstream -> 123456789 -> 14892 123456789 -> Vò Quúnh Thu Cao häc K18 123456789 -> Khoa Báo chí Đhkhxh&NV 123456789 -> Acknowledgements 123456789 -> Danh mục chữ viết tắT 123456789 -> Chương TỔng quan vật liệu mao quản trung bình (mqtb) trật tự 1 Giới thiệu chung 123456789 -> Khoa hóa họC (141 142 báo cáo) 14892 -> TỪ chỉ VỊ trí trong tiếng nhật và tiếng việT tải về 2.37 Mb. Chia sẻ với bạn bè của bạn: |