SỐNG, chếT và SAU KHI chết lama Thubten Yeshe



tải về 255.71 Kb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu30.08.2016
Kích255.71 Kb.
#29914
1   2   3   4

BÀI GIẢNG THỨ BA


Trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta đã tạo nên rất nhiều kinh nghiệm hão huyền, tại lúc chết chúng ta lại càng sản xuất ra những phản ứng sai lầm, lú lẫn. Vì càng về gìa, bốn nguyên tố càng bị chìm lặn đi, lại càng tăng thêm sự lầm lẫn, lại càng mất đi sự sáng suốt. Càng về gìa, những cảm nhận của các cơ quan trong người càng yếu đi; bốn nguyên tố bắt đầu ngưng hoạt động. Người thì mất thị giác hoặc nhìn cái này ra cái kia, người thì đi lại khó khăn hoặc không còn có sự kiểm soát bình thường.

Khi chúng tôi nói “nguyên tố đất (địa đại) chìm đi” thì chỉ là ngôn từ. Nó có nghĩa là những thành phần cứng - xương cốt trong thân thể - bắt đầu hư hoại. Những cơ quan cảm nhận của người gìa bị hư hoại, chúng không còn có khả năng nhìn rõ ràng, làm việc đúng. Nguyên tố địa đại đã bắt đầu bị suy thoái, có khi ngay cả khi còn trẻ.

Không phải chỉ có những giác quan bị suy thoái mà ngũ uẩn - những nhận thức của năm giác quan - cũng trở nên yếu dần, vì thế chúng mang lại những sự lầm lẫn và hư ảo. Ngay cả xúc giác cũng bị suy thoái, không còn cho chúng ta những khoái cảm. Khi chúng ta bị nhiễm trùng hay bị bệnh, những thứ như thức ăn, mầu sắc, hình dáng...vân vân...cũng không còn cho chúng ta những khoái cảm mà thường ngày vẫn có. Chúng ta không còn cảm giác với những đối tượng hấp dẫn, ngay cả khi đứng trước một đóa hoa tươi thắm. Bông hoa ngay ở đây mà chúng ta cũng chẳng còn hứng thú gì. Có khi nó còn làm chúng ta thêm bực mình: “ Bông hoa đỏ này đang ghét, đem vất nó đi!” Những người bị bệnh, những người bị khó chịu ở trong người thường có những phản ứng như vậy.

Sự suy thoái của tứ đại có ảnh hưởng đến tâm lý, chúng là nguyên nhân của những kinh nghiệm ở nội tâm, chúng cho những ảo ảnh, như sương khói như lửa chập chờn. Tất cả đều là những kinh nghiệm ở bên trong, ở nội tâm, không có lửa ở bên ngoài. Họ cảm thấy nóng, thấy lạnh nên họ cứ lẩm bẩm: “Hãy đổ nước đi,” hay “ Hãy dập tắt lửa đi.” Sự lầm lẫn, lẩm cẩm xẩy ra ở bên trong. Họ cảm thấy lửa đang cháy, đang thiêu đốt họ ở bên trong. Đó là những ảo cảnh đang xẩy ra ở bên trong. Họ thấy như có lửa, có nước thực sự, nên những nhận xét của tâm thức chỉ toàn là những sai lạc, huyễn ảo. Nếu chúng ta có thể tưởng tượng được những hình ảnh này, chúng ta sẽ hiểu rất rõ.

Thông thường, cái tôi của chúng ta cứ muốn nắm bắt những đối tượng. Nhưng ở thời điểm tan rã của tứ đại thì những đối tượng ở bên ngoài đều tan biến. Chúng ta chỉ thấy, chỉ kinh nghiệm những hình ảnh giả đầy huyễn ảo. Chúng ta mất hết những cái chúng ta muốn nắm bắt, muốn chiếm đoạt nên chúng ta đâm ra sợ hãi. Cùng lúc đó chúng ta cũng không còn nhận ra chúng ta nữa. Trong khi chúng ta đang cảm nghiệm sự chìm dần của tứ đại cùng những ảo ảnh của chúng để lại thì chúng ta hãy nhớ rằng năm giác quan và năm nhận thức cũng đang suy thoái. Nên biết rằng cả một đời chúng ta ôm ấp cái tôi của chúng ta thì bây giờ đây nó đang từ từ biến mất, chúng ta mất nó, chúng ta đâm ra sợ hãi, sợ hãi vô cùng. Trong đời sống thường ngày, cái tôi là bạn chí thân của chúng ta, nó luôn luôn làm cho chúng ta cảm thấy an lòng. Nhưng bây giờ, khi mà tất cả mọi sự đang tàn phai, đang tan rã thì cả bên trong lẫn bên ngoài đều cho chúng ta sự sợ hãi, chúng ta mất hết nơi bám víu, chúng ta mất hết điểm tựa, chúng ta mất hết sự an toàn.

Bằng sự thực hành thiền định, chúng ta tự giáo dục chúng ta những gì sẽ xẩy ra trong lúc chết để chúng ta nhận diện được những sự việc gây ra ảo giác trong tâm thức chúng ta. Hãy nhận biết rằng những ảo giác này không phải tự chúng mà có được và chúng ta cũng chẳng có liên hệ gì với những đối tượng hão huyền đó, nhận biết này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tính không, về sự rỗng lặng.

Chúng ta không nên nghĩ và tin rằng “CÁI-TÔI-ĐANG-CÓ-ĐÂY” là có thật. Chúng tôi cố gắng dùng những từ ngữ giáo dục như “ không có nhị-nguyên TÔI.” Chúng tôi cố gắng dồn vào qúy vị: “không có cái TÔI hiện hữu.” Chúng tôi cố gắng giải thích một cách thông minh, nhưng tại thời điểm chết sự thúc đẩy thông minh này không còn cần thiết, vì chúng ta sẽ mất cái hiện hữu của chúng ta một cách rất tự nhiên. Đó là lý do tại sao trong lúc thiền, có rất nhiều người chứng nghiệm được sự mất cái tôi của họ và họ đâm ra sợ hãi. Đó là điều rất tốt, chúng ta nên sợ !

Những ông sư Tây tạng muốn làm cho qúy vị sợ. Người Tây phương không thích sợ. Tuy nhiên, chúng tôi có tài làm cho qúy vị sợ. Đã có rất nhiều người có kinh nghiệm này. Tại sao chúng ta lại sợ khi mất một cái gì? Mất cái tôi có nghĩa là mất cái tự hữu hay mất cái ý niệm bền chắc về một cái tôi --đó là điều làm chúng ta run sợ. Cái phóng tưởng, cái vọng tưởng về một cái tôi có thật đang run sợ. Đó không phải là cái không nhị-nguyên hay cái bản tính tự nhiên của chúng ta run sợ, chính cái tâm vọng tưởng run sợ.

Trong lúc Lạt ma Je Tsong Khapa đang giảng dậy về tính không, một người đệ tử ruột của ngài ngộ tính không. Ngay trong lúc đang nghe giảng, ông ta run lên vì ông ta cảm thấy mình biến mất, hoàn toàn biến mất. Nên ông ta liền ôm lấy chính ông ta và cả người ông ta rung lên. Lắng nghe sự giảng dậy về tính không và chứng nghiệm về tính không đến cùng một lúc. Nên có những sự kiện như vậy. Do đó sự khám phá ra bản tính tự nhiên của chúng ta sẽ phá đổ tất cả những ý niệm vững chắc về một cái tôi huyễn ảo.

Bên Tây phương có rất nhiều nghĩa khác nhau về từ ngữ “ Mất cái tự ngã, mất cái tôi.” Có hàng trăm lối giải thích khác nhau về chữ “ Self, tôi, thằng tôi, cái bản ngã, tự ngã, ích kỷ, của tôi, tự tôi, chính tôi,......TÔI ! ” Bởi vì đã có những tiền ý niệm nên chúng ta nhất định bản tính của chúng ta “ Tôi là thế này ! ” Chúng ta tự cho nó thường hằng bất biến, không bao giờ mất, tự có như vậy đời đời kiếp kiếp. Tương tự như vậy, khi người Thiên Chúa giáo diễn tả về linh hồn, họ đã sáng tạo nên một cái tôi, họ nghĩ, “Tôi thế này, thế kia, đây là tôi.” Họ có một tiền ý niệm rất mạnh mẽ về họ là ai, họ là cái gì. Cái “tôi ” này không hiện hữu, không có, nó chỉ là một phóng tưởng về một cái tôi của riêng anh.

Thí dụ, khi một người tự giới thiệu họ, bằng cách nói, “ tôi như vậy đó, là chồng của một bà như vậy đó, ” ông ta trình diện một khái niệm về cái tôi của ông ta như là một người chồng tự hiện hữu. Do đó ông ta tự coi ông ta một cách vững chắc là người chồng như vậy và ngay khi đó ông ta xây dựng, ông ta phóng chiếu hình ảnh người vợ của ông ta cũng phải như vậy. Oâng ta trình diện ông ta trong chiều hướng đó và tin tưởng rằng “ vợ tôi cũng phải như vậy, một người vợ tự hiện hữu như vậy.” Kết qủa, ý niệm này đã mang đến toàn là đau khổ. Cho tới khi nào sự có mặt của tôi còn tùy thuộc vào sự có mặt của vợ tôi, sự hiện hữu của vợ tôi còn lệ thuộc vào sự hiện hữu của tôi thì khi vợ tôi mất đi tôi cũng phải mất đi ! Qúy vị có hiểu không? Vậy, khi ông ta cho ông ta là một người chồng như thế nào thì ông ta cũng phóng tưởng người vợ phải như vậy. Rồi khi ông ta không được là người chồng như vậy, người vợ của ông ta không như ông ta tưởng, nó khác, nó thay đổi, nó luôn luôn thay đổi mỗi ngày, ông ta liền nổi cáu với thực tại, ông ta liền nổi sùng với sự thật.

Ngay cả những người trẻ tuổi Tây phương cũng trải qua sự lầm lạc này. Khi vừa mở mắt, họ đã hỏi, “Tôi sẽ làm cái gì ở xã hội Thụy điển này? Tôi sẽ là một kỹ sư? một khoa học gia?...” Họ muốn xác nhận họ với một vài cái gì đó. Họ cảm thấy, “tôi muốn một chức vụ.” Những người bạn trẻ rất là bối rối bởi vì xã hội này nói với họ, “anh phải là như thế, chị phải như vậy.” Một đàng họ tin cái này, đàng khác họ lại tin cái kia. Đúng ra, họ muốn có một cách nào đó để xác nhận họ nhưng họ không tìm ra cách nào cả, dù là một sự xác nhận tạm thời, rồi họ trở nên điên loạn. Họ dùng thuốc, họ cảm thấy mất hết hy vọng: “ Tôi không xác định được tôi, tốt hơn tôi nên bỏ cuộc.” Điều này không có nghĩa là họ không có một cái tôi. Họ đã có một cái tôi rồi. Tuy nhiên, cái tôi của họ muốn xác nhận một cái khác nữa. Họ đã có một tiền ý niệm về họ là ai, nhưng họ vẫn muốn thêm nữa, một cái hay hơn để bỏ thêm vào cái kho tiền ý niệm của họ, nhưng họ đã không tìm thấy cái nào.

Cái hình ảnh ôm giữ cái tôi như là một thực thể tự hiện hữu này rất dễ nhận ra. Không khó lắm. Ngay bây giờ chúng ta có thể nhìn thấy cái hình ảnh mà chúng ta muốn là, hay cái hình ảnh về một cái tôi mà chúng ta hằng mơ tưởng. Ngay ở đây, ngay bây giờ, chúng ta hãy thử kiểm chứng xem sao. Ngay từ khi chúng ta có tiền ý niệm về hình ảnh của chính chúng ta là chúng ta bắt đầu có vấn đề. Chúng ta luôn luôn tự mâu thuẫn, “tôi vẫn chưa tốt đủ”, nguyên nhân là chúng ta đang ôm giữ. Nếu chúng ta tự kiểm điểm theo phương pháp này, chúng ta có thể hiểu được chúng ta đã bị ô nhiễm như thế nào, nó cho chúng ta biết chúng ta chưa hề chạm được sự thật -- qúy vị có thể biết ngay bây giờ. Vì chúng ta tự cho chúng ta một phóng tưởng giới hạn, một hình ảnh giới hạn nên nó trở nên một căn bản cho tất cả mọi thứ: giới hạn về tình yêu, giới hạn về trí tuệ, giới hạn về lòng từ bi... Chúng ta đã thiết lập một căn bản giới hạn cho chính chúng ta, chúng ta đã trở nên chật hẹp. Vì lý do đó, tất cả mọi thứ trong cuộc đời của chúng ta --đời sống, trí tuệ, tình yêu...--cũng trở nên chật hẹp. Bởi vì chúng ta đã tự giới hạn chúng ta chật hẹp như vậy.

Vào lúc chết, khi mà tứ đại bắt đầu chìm thì tất cả những ý niệm thô kệch về chúng ta, về những lạc thú của chúng ta, về những sinh hoạt của chúng ta, về bạn bè của chúng ta, về an toàn, về tình yêu, về lòng từ bi,... tất cả đều tan biến hết. Đó là lý do tại sao chúng tôi nói khi mà phong đại (khí) chìm vào tâm thức, thì 80 hình ảnh u mê về cái tôi biến mất. Khi đó 80 hình ảnh này chấm dứt. Tại nội tâm, chúng ta sẽ kinh nghiệm được sự vắng lặng vĩ đại, chúng ta sẽ kinh nghiệm được sự trống rỗng vĩ đại, như bầu trời xanh kia; chúng ta sẽ chứng nghiệm được, sẽ kinh nghiệm được tự bên trong hoàn toàn rỗng lặng. Bình thường, chúng ta qúa bận rộn với những ý niệm ô nhiễm, với 80 hình ảnh u mê, nên không còn chỗ để nhìn thấy sự thật.

Vào giờ của tử thần, tất cả những ý niệm về nhị nguyên biến mất, nó cho phép chúng ta chạm được sự thật. Đó là tất cả những gì chúng ta sẽ kinh nghiệm được. Cũng thế, năng lượng vật chất của chúng ta thường ngày đi sai đường, lạc lối, bị ô nhiễm, bị thất thoát. Nhưng tại lúc chết, tất cả những nguồn năng lượng này được kết tụ lại một cách tự nhiên vào kinh mạch chính, kinh mạch trung tâm (shushuma) nên chúng ta sẽ kinh nghiệm được sự đại lạc, sự rỗng lặng tuyệt đối. Đó là lý do tại sao mật tông thường chăm chú vào việc đưa năng lượng vào kinh mạch chính. Chúng ta đặt hết sự chú ý vào các luân xa để dẫn năng lượng vào kinh mạch chính. Mỗi khi chúng ta tập trung vào luân xa rốn (quen gọi là luân xa đan điền, hay luân xa 3. --Dg), luân xa trái tim, luân xa cổ họng, luân xa ở giữa hai chân mày, luân xa đỉnh đầu là chúng ta thẩm thấu vào thể vi tế, vào kinh mạch trung tâm, rót tất cả năng lượng vào đó, chấm dứt ngay tất cả những hướng đi sai lạc của năng lượng. Vì thế tất cả những vị hành gỉa du gìa nam (yogis) cũng như nữ (yoginis) kiểm soát năng lượng của họ bằng cách thiền đi vào kinh mạch chính, trong lúc thiền họ có những kinh nghiệm giống y như lúc chết.

Sau khi tứ đại đã chìm hẳn, hơi thở liền ngưng. Bốn linh ảnh bắt đầu xuất hiện: linh ảnh có mầu trắng, đỏ, đen và trong sáng. Bốn linh ảnh này sẽ hội tụ tại kinh mạch chính. Linh ảnh có mầu trắng phản ảnh năng lượng trắng, tượng trưng cho cha; tâm thức của người chết sẽ kinh nghiệm được không gian bao la rỗng lặng, giống như những tia sáng trắng. Cũng như thế, mầu đỏ phản ảnh năng lượng đỏ, sẽ hội tụ vào kinh mạch chính, nó tượng trưng cho mẹ; tâm thức của người chết sẽ kinh nghiệm được màu đỏ trong không gian bao la. Trong mật tông họ giải thích rằng trong mỗi một người chúng ta đều có những nguồn năng lượng âm dương kết hợp này, hai năng lượng này luôn luôn có trong chúng ta. Sau khi linh ảnh đỏ biến mất, linh ảnh đen sẽ xuất hiện rất ngắn ngủi.

Rồi linh ảnh trong sáng đến, có nghĩa là tâm thức của người chết sẽ kinh nghiệm được toàn thể sự bao la vĩ đại của không gian rỗng lặng. Vào trong không gian rỗng lặng tuyệt đối này sẽ kinh nghiệm được, sẽ cảm nghiệm được sự thật tuyệt đối của sự trong sạch, cũng gọi là chứng nghiệm ánh sáng trong suốt. Trong cả thời gian kinh nghiệm ánh sáng trong suốt này tâm thức của người chết sẽ không còn biết được bất cứ một cảm giác trần tục nào nữa. Sẽ không còn một chút ý niệm nào về một người đàn bà đẹp, một người đàn ông lịch sự của Thụy điển, cũng chẳng còn một tiệm buôn bán nào ở đây; cũng không còn một buổi hội họp nào trong tòa nhà Liên hiệp quốc; tại giây phút đó không còn một chút gì bận bịu của Thụy điển. Trong khi kinh nghiệm ánh sáng trong suốt này, tất cả mọi hình thức của cái tôi đều tan biến hết --tôi hãnh diện, tôi tham lam, tôi ganh tị, tôi ...tôi... đều tan biến. Tất cả những trầm uất, hình ảnh đen tối biến mất; tâm thức của người chết chỉ kinh nghiệm có ánh sáng trong suốt mà thôi.

Đây, đây là điều vô cùng quan trọng để hiểu. Khi chúng ta đang bị ô nhiễm, chúng ta không tỉnh thức. Chúng ta cứng nhắc, chẳng có chút uyển chuyển nào, không cởi mở, chúng ta lầm lạc, vì thế chúng ta không trong sạch. Nên tất cả những thức giác chỉ kinh nghiệm được sự đen tối. Nhưng phải hiểu rằng chúng ta vẫn trong sạch, chúng ta vẫn luôn luôn biết ánh sáng ở ngay trước chúng ta. Tôi tin chắc chắn rằng qúy vị biết điều đó, kinh nghiệm được điều đó, nhưng , vì vô minh, mà chúng ta bị ô nhiễm, chúng ta bị mù, chúng ta không còn thấy gì cả. Khi tâm chúng ta trong sạch thì ngay lúc đó ánh sáng sẽ chiếu soi. Nếu chúng ta lầm lẫn, sai lạc và không trong sạch thì những hình ảnh ô nhiễm sẽ xuất hiện ngay lập tức trong tâm của chúng ta và ngay trước mặt chúng ta. Đây là một điều vô cùng quan trọng mà chúng ta phải hiểu, phải biết.

Khi chúng ta cảm thấy u uất, nặng nề ở bên trong là tâm của chúng ta không còn hoạt động. Ngay khi chúng ta cảm thấy đời sống của chúng ta tràn đầy u tối, mặc dù chúng ta có đi ra ngoài trời trong sáng kia chúng ta cũng chẳng thấy gì, chỉ thấy một mầu đen tối. Nhưng khi tâm hồn trong sáng thoải mái, dù bầu trời có âm u chúng ta cũng vẫn cảm thấy tươi vui. Đây là tất cả những gì tôi muốn trình bày với qúy vị. Có bao nhiêu người trong qúy vị ở đây có được kinh nghiệm này? Nó rất đơn giản. Tôi không bao giờ nói những chuyện cao xa ở mãi trên kia. Hãy tỉnh thức.

Càng bối rối, lầm lẫn trong cuộc đời, càng xác định được những phản ảnh trong cuộc sống. Cũng giống như vậy, nội tâm càng trong sạch an tịnh, ngoại cảnh càng an vui, hạnh phúc. Quý vị hãy tự phân tích lấy, nó rất đơn giản. Nó không phải là kinh nghiệm của thiền định mà là những cảm nhận trong cuộc sống. Mỗi khi chúng ta xuống tinh thần, rất tiêu cực, chúng ta có thể nhìn thấy một cách rất dễ dàng đời sống ở bên ngoài cũng phản ảnh như vậy. Nhưng khi tâm hồn lành mạnh, trong sáng thì những cảnh sống ở bên ngoài cũng dễ dàng vui tươi, cũng xẩy ra trong sáng. Đó là điều quan trọng nhưng rất dễ hiểu. Nó không qúa cao, nó không khó hiểu. Nó rất dễ cảm nhận. Chúng ta đang nói về tiêu cực và tích cực, vui và buồn, phải chăng đây là công việc của chúng ta? Công việc của chúng ta là cố gắng trở lên tích cực, vui tươi và có thể thực hành được; vậy hãy cố gắng phân tích lãnh vực này, làn sóng này.

Tôi sẽ trình bày theo một khía cạnh khác. Chúng ta đã đọc tiểu sử của rất nhiều Lạt ma, họ luôn luôn có những linh ảnh trong sáng về các vị thần linh, như Phật, Văn Thù Sư Lợi, Quan Thế Aâm...vân vân...Họ luôn luôn có những linh ảnh trong sáng này xuất hiện ra với họ. Nhưng chúng ta lại luôn luôn có những hình ảnh tức giận, tham lam, ganh ghét hoặc vô minh xuất hiện. Đây là điều rất dễ hiểu và đơn giản, phải không qúy vị? Mặc dù chúng ta là người nhưng có những người luôn luôn có những linh ảnh trong sáng, có những người lại luôn luôn thấy những hình ảnh đen tối. Chẳng có gì qúa phức tạp trong vấn đề này, rất dễ hiểu.

Nếu chúng ta chú trọng và nhận xét thật kỹ vào những kiểu mẫu mà chúng ta thường có, thường gặp như những linh ảnh, âm thanh, hình ảnh... xuất hiện ra trong tâm thức chúng ta thì chúng ta có thể phân tích được những giấc mơ và những hình ảnh đó. Điều này không khó lắm khi chúng ta muốn tìm hiểu ý nghĩa của những gì xuất hiện trong tâm của chúng ta. Đó là việc ích lợi nếu chúng ta phân tích nó. Đây là điều vô cùng quan trọng để chúng ta học hỏi về nghiệp. Mặc dù chúng ta vẫn nói: “ nghiệp như thế này, thế này...,” ‘nghiệp như thế này, thế này’ không gây được sự chú ý ở chúng ta, nhưng khi kinh nghiệm được nghiệp, chúng ta sẽ làm chủ được sự hiểu biết, chúng ta sẽ làm chủ được sự tỉnh thức, chúng ta sẽ làm chủ được tâm thức của chúng ta về bất cứ sự việc gì sẽ xẩy ra cho cuộc đời của chúng ta, trong từng ngày từng tháng -- nó sẽ giúp chúng ta hiểu được nghiệp.

Chúng ta đã được nghe, có rất nhiều đại thiền gỉa vẫn còn ở trong tình trạng thiền định mặc dù ông ta đã chết. Khi họ đạt tới trạng thái kinh nghiệm ánh sáng trong suốt, vị hành gỉa ở ngay trong đó. Họ có thể ở trong trạng thái đó cả ngày, cả tuần hay có khi cả tháng. Vì thế, mặc dầu hơi thở đã ngưng nhưng họ vẫn còn sống cho nhiều tháng nhiều tuần. Cho tới khi nào họ còn ở trong trạng thái thiền định là họ còn sống, họ chưa chết.

Vậy, điều quan trọng cho những thiền giả Thụy sĩ là hãy thay đổi luật nhân quyền của họ. Nhưng họ cần xin phép chính quyền Thụy sĩ ! --“ Ngài có ý nói gì khi ngài nói ‘xin phép để thiền?’ Chúng tôi không cần, chúng tôi đã có phép rồi.” --Sau khi chết, đừng đụng chạm vào thân xác của những thiền giả cho đến khi năng lượng thoát ra khỏi mũi của họ hay bất cứ phần nào trên thân thể của họ. Đó là giấy phép mà quý vị cần.

Chúng tôi cũng có một cách giải thích khác: có một số lạt ma lại nói rằng kinh nghiệm ánh sáng trong suốt là kinh nghiệm tính không; người khác lại cho rằng đó là kinh nghiệm tính không giả, nó không phải là kinh nghiệm tính không thật. Họ tranh luận về điểm này. Vậy, làm thế nào người ta có thể nói họ kinh nghiệm được tính không? Có lẽ không phải việc của chúng ta để tranh cãi về kinh nghiệm được tính không hay là không kinh nghiệm được nó. Công việc của chúng ta là chấm dứt những ý niệm cứng ngắc và những u mê. Ở ngay cái giây phút chúng ta kinh nghiệm được không nhị -nguyên hay không có một cái tôi hiện hữu, thế là đủ rồi. Vậy chúng ta không nên tranh luận.

Chúng ta có thể nói với nhau, theo kiểu thông minh hóa, tôi có thể hỏi, “Kinh nghiệm của anh về tính không là gì?” Anh có thể trả lời, ” Ô, kinh nghiệm của tôi về tính không là lúc tôi không có bạn trai, bạn gái hay không cần một thỏi sô cô la.” Tôi hỏi lại, “ Tại sao? ” và cuộc tranh luận bắt đầu, “Không cần một thỏi sô cô la, đó không phải là tính không.” Quý vị có hiểu không? Tôi có thể tranh luận kiểu khác, “Không có vấn đề gì về chính trị -- đó là kinh nghiệm của anh về tính không. Hừm. Đó không phải là tính không.” Chúng ta có thể tranh luận bằng bất cứ một cách nào. Có thể tôi đang cố gắng thuyết phục anh rằng đó không phải là kinh nghiệm về tính không.

Bây giờ, với sự thực hành, chúng ta đang xây dựng một kinh nghiệm về tính không từ cái-không-là-gì cả. Chúng ta cần phải xây dựng kinh nghiệm về tính không. Chúng ta cần phải xây dựng một chút kinh nghiệm về tính không --từ kinh nghiệm tính không thời trẻ con, kinh nghiệm tính không thời thanh thiếu niên, kinh nghiệm tính không thời trung niên, kinh nghiệm tính không thời lão niên, đến một kinh nghiệm tính không vĩ đại. Chúng ta đang nói về kinh nghiệm, không phải về sự thông minh. Có rất nhiều người nghĩ tính không phải như thế này thế kia, nên khi họ có kinh nghiệm tính không họ bảo nó không đúng! Đó chỉ là cách thông minh hóa tính không mà thôi. Đó không phải là lối trình bày mạch lạc về một kinh nghiệm. Sự mạch lạc có nghĩa là chúng ta bắt đầu từ từ, từ từ, từ từ. Chúng ta xây dựng từ từ mỗi lúc một chút kinh nghiệm về tính không và giảm bớt đi, giảm bớt đi những ý niệm cứng nhắc. Vì thế, tại sao nói về tính không một cách thông minh và thực sự kinh nghiệm tính không hoàn toàn khác nhau.

Ngay tại lúc kinh nghiệm về ánh sáng trong suốt ngưng, là có sự xuất hiện ngược lại. Người chết báét đầu thấy mầu trắng, đỏ rồi đen rồi ánh sáng trong. Bây giờ, khi ánh sáng trong ngưng thì mầu đen hay mầu tối sẽ khởi lên. Rồi từ mầu tối này, chuyển qua mầu đỏ rồi trắng, rồi tất cả các ảo ảnh đều xuất hiện.

Bây giờ chúng ta bắt đầu nói về thân trung ấm (bardo) Đừng vội vàng, đừng hối hả, tôi muốn qúy vị hiểu vấn đề này một cách thật rõ ràng, thật trong sáng. Trong tiến trình của sự chết, ngay tại thời điểm kinh nghiệm ánh sáng trong suốt ngừng, chừng một giây, chúng ta liền trở thành thân trong thân trung ấm. Chúng ta sẽ kinh nghiệm mầu đen, đến mầu đỏ rồi chuyển qua mầu trắng. Cái tôi của chúng ta cũng hiện diện ở đây. Trong cái trạng thái đầy ô nhiễm này, nếu chúng ta chú ý và nhạy cảm chúng ta sẽ thấy một vài loại mầu sắc nữa. Thí dụ, nếu lòng tham hay sự ganh ghét nổi lên mạnh bạo thì nó sẽ chế ngự mầu sắc khác. Vì thế chúng ta nên để ý đến những loại hình ảnh này. Kinh nghiệm trong tiến trình của sự chết cũng giống như trong lúc ngủ. Tiến trình này không chỉ xuất hiện trong lúc chết mà nó còn xuất hiện trong lúc ngủ hay lúc chúng ta bị ngất xỉu. Mỗi khi chúng ta bị kích thích mạnh, chúng ta cũng có những kinh nghiệm như lúc chết. Chúng ta nên thận trọng. Mặc dầu chúng ta đã có những kinh nghiệm về sự chết rất nhiều lần nhưng chúng ta đã không biết, đã không có đủ sự chú ý để nhận biết nó. Nên chúng ta đã không hiểu được những kinh nghiệm riêng của chúng ta.

Như chúng ta thấy đó, tiến trình của sự chết không có gì là bất thường hoặc qúa xa lạ. Chúng ta đã trải qua rất nhiều lần, mỗi khi chúng ta đạt đến một cực điểm là chúng ta có kinh nghiệm về sự chết. Đã từng có những nguyên tố trong người bị chìm mất mà chúng ta không biết bởi vì chúng ta còn đang mải mê trong vô minh mà không để ý đến chúng. Nếu chúng ta có nhạy cảm và thực sự theo dõi từng hành động của chúng ta, chúng ta sẽ nhận biết được những sự chết này xẩy ra trong đời sống thường ngày của chúng ta. Chúng ta đã từng có kinh nghiệm, ngay cả trước khi biết đến thiền.

Chúng ta đã từng có rất nhiều kinh nghiệm qúi gía, thực sự là như vậy. Tôi không nói rằng chúng ta là những đại thiền gỉa nhưng tất cả chúng ta đã từng có những kinh nghiệm qúi báu. Thật là quan trọng để biết được những điều này, thật là quan trọng để chú ý đến chúng và cũng thật là quan trọng nếu gợi lại được những kinh nghiệm qúi gía này. Như thế, chúng ta sẽ tự tin hơn và đời sống tâm linh của chúng ta cũng sẽ lớn mạnh hơn. Chúng sẽ giúp chúng ta hơn. Nếu không được như vậy, chúng ta đã tiêu phí, đã vất đi biết bao nhiêu điều gía trị vào thùng rác như những người Thụy điển vất rác đi mỗi ngày. Thật là hoang phí. Chúng ta có rất nhiều kinh nghiệm tâm linh mà chúng ta cứ vất đi, trong khi đó chúng ta lại đem vào người, khoác vào người những chiếc mền nặng nề trong từng giây phút. Cái gì chúng ta là, cái gì chúng ta kinh nghiệm được, chúng ta không thể mua được bằng tiền; chúng là giá trị quí giá của chúng ta. Nhưng thay vì như vậy, chúng ta lại cố gắng quên chúng đi, vất chúng đi mà đi khoác vào người những cái mà không phải là chúng ta -- thật là điên cuồng!

Bây giờ, tốt hơn, chúng ta hãy trở về công việc của chúng ta. Hãy quán tưởng chủng tử OM AH HUM. Hãy cố gắng quán tưởng chủng tử OM mầu trắng đang ở trong giữa khối óc của chúng ta. Hãy nhận thức rằng chủng tử trắng OM là nguồn năng lượng tinh khiết của những lời nói thánh thiện, âm thanh thánh thiện và thân thể thánh thiện của chư Phật, chư Bồ Tát hay của bất cứ vị nào mà chúng ta nghĩ rằng thanh tịnh.

Sau khi tụng âm OM, hãy tưởng tượng những tia sáng trắng đầy năng lượng OM đang tràn vào thân thể của chúng ta, rồi vào kinh mạch chính của chúng ta, thấm nhập hết vào thân thể chúng ta. Như vậy tất cả những ý niệm, tất cả những nguồn năng lượng bị ô nhiễm của thân xác sẽ được thanh tẩy trọn vẹn. Toàn thể thân xác của chúng ta từ đỉnh đầu đến ngón chân, ngón tay đều được thấm nhuần sự an tịnh, sự an lạc của những tia sáng trắng này. Hãy cảm nhận như vậy. Hãy tụng âm OM khoảng hai đến ba phút trong lúc thiền để thanh tịnh thân xác. Ngay sau khi ngưng tụng mật chú OM, hãy chỉ tỉnh thức, đừng nghĩ đến tốt hay xấu, không phản ứng gì cả, không đối thoại (ở nội tâm) gì cả, hãy dành tất cả sự chú ý vào ánh sáng tâm thức tại giữa não bộ. Hãy ở đó. Hãy chỉ tỉnh thức, rồi ra đi -- mà không một chút trì trệ, xao lãng nào cả.

Trước khi chấm dứt bài giảng này, chúng ta hãy cùng nhau thiền một chút. Không cần phải gò bó, hãy tự nhiên, hãy thực sự thoải mái, hãy để cho năng lượng trôi chảy tự nhiên, hãy chỉ là. Hãy để cho năng lượng của hơi thở được tự nhiên luân chuyển. Đừng nghĩ rằng chúng ta đang thiền, đừng nghĩ rằng chúng ta là một thiền gia. Đừng nghĩ chúng ta là một người khiêm tốn. Đừng nghĩ chúng ta là người chấp ngã. Đừng nghĩ bất cứ một cái gì, một vấn đề gì. Hãy chỉ là ! Hãy chỉ đang là !

Hãy để hai tay của qúy vị ở vị trí nào cũng được, sao cho thật thoải mái; hãy nhắm mắt lại. Hãy quán tưởng chủng tử trắng OM đang ở trong óc của chúng ta. Tụng âm OM liên tục trong khoảng ba phút. Đồng thời, từ OM, nguồn năng lượng an lạc Kundalini (nguồn tâm hỏa trong người, có nơi còn gọi là con hỏa xà, bình thường nó ngủ tại luân xa 1. --Dg) ) đang tràn lan khắp thân thể chúng ta, đi đến đâu nó thanh tẩy tất cả những ô nhiễm đến đó. Hãy quán tưởng toàn thân thể của chúng ta đang tràn ngập ánh sáng. Đây là việc làm vô cùng quan trọng. Tất cả đều tràn ngập những tia sáng năng lượng. Năng lượng sáng này giúp chúng ta phá đổ tất cả những ý niệm nhị nguyên kiên cố kết tụ lâu đời lâu kiếp ở chúng ta .

(Lặp lại âm OM )

Được rồi. Hãy ở trong trạng thái tỉnh thức -- rồi ra đi, đừng nghĩ gì cả. Hãy là!

( Mọi người thiền )

Sự tỉnh thức dẫn chúng ta đến trạng thái zero, không còn bản ngã, trống không, vắng lặng, không. Hãy tỉnh thức, rồi hãy ra đi.

( Mọi người tiếp tục thiền )

Được rồi. Tốt hơn hãy ngừng ở đây không thì chúng ta biến mất hết. Cám ơn qúy vị nhiều lắm.

---o0o---




tải về 255.71 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương