Sinh sản nhân tạo cá LĂng chấm hemibagrus


Phương pháp tính toán các chỉ tiêu sinh sản



tải về 0.85 Mb.
Chế độ xem pdf
trang4/8
Chuyển đổi dữ liệu02.08.2022
Kích0.85 Mb.
#52780
1   2   3   4   5   6   7   8
3787-Article Text-10994-1-10-20170606

Phương pháp tính toán các chỉ tiêu sinh sản 
( )
( )
( )
 
( )
( )
( )
 
( )
( )
( )
 


Lê Văn Dân và Lê Tiến Hữu 
Tập 126, Số 3C, 2017 
72 
Thời gian nở là thời gian tính từ khi trứng cá thụ tinh đến lúc nở. Thời gian hiệu ứng là 
thời gian từ khi tiêm liều quyết định đến khi cá rụng trứng đồng loạt 
( )
( )
( )
 
Số mẫu là 100 trứng được lấy ngẫu nhiên. 
( )
( )
( )
 
( )
( ) 
( )
 
2.3 
Phương pháp xử lý số liệu 
Số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm Excel 2010, SPSS 16.0. Xác định sai khác giữa 
các nghiệm thức bằng phương pháp Tukey với khoảng tin cậy 95 %. 
3
Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1
Nuôi vỗ cá bố mẹ thành thục 
Kết quả trình bày ở Bảng 2 cho thấy kích cỡ cá bố mẹ chín muồi sinh dục có thể tham gia 
sinh sản có chiều dài trung bình là 66 cm tương ứng với khối lượng trung bình 2,87 kg ở cá cái 
và chiều dài trung bình là 74 cm tương ứng với khối lượng trung bình 3,53 kg ở cá đực.
Mùa vụ sinh sản của cá Lăng chấm nuôi trong ao đất được xác định thông qua tỷ lệ % số 
cá thể thành thục ở giai đoạn IV so với số cá thể có mức độ thành thục thấp hơn. Kết quả ở Hình 
2 cho thấy trong ao nuôi, cá thể đực có tuyến sinh dục giai đoạn IV xuất hiện từ tháng 3–6 với tỷ 
lệ khác nhau. Tỷ lệ thành thục cao (73 %) ngay từ tháng 4; tỷ lệ này tăng dần cho đến tháng 5, 
đạt 87 % và đến tháng 6, đạt 100 %; trong khi đó, số cá cái thành thục chỉ có 27 % vào tháng 4 và 
đến tháng 6đạt 67 %. Điều này phản ánh sự phát triển không đồng bộ giữa tuyến sinh dục của 
cá đực và cá cái. Cá đực thành thục sớm và tỷ lệ thành thục cao hơn so với cá cái trong cùng 
thời kỳ. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với qui luật chung về sự phát triển tuyến sinh dục của 
nhiều loài động vật thủy sản (Pravdin). Kết quả cũng cho thấy thời vụ sinh sản của cá Lăng 
chấm nuôi trong ao tại Quảng Bình từ tháng 4 đến tháng 6, so sánh với mùa vụ sinh sản cúa cá 
Lăng chấm ngoài tự nhiên từ cuối tháng 4 tới đầu tháng 9 (Phạm Báu và ctv.) có sự khác biệt, 
điều này có thể giải thích do điều kiện nhiệt độ, lượng mưa tại khu vực này khác biệt so với các 
tỉnh phía Bắc. Do thời gian nghiên cứu ngắn, chỉ có thể kết luận về tỷ lệ thành thục của cá Lăng 
chấm nuôi trong ao ở 5 tháng đầu của năm. Để kết luận chính xác và đầy đủ hơn đối với mùa 
vụ sinh sản, cần tiếp tục nghiên cứu tỷ lệ thành thục của cá bố mẹ ở các tháng còn lại để khép 
kín chu trình và trong thời gian dài hơn với cả cá tự nhiên và nuôi nhân tạo. 

tải về 0.85 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương