SÁch giáo lý CỦa giáo hội công giáo sách giáo lý CỦa giáo hộI



tải về 4.7 Mb.
trang16/68
Chuyển đổi dữ liệu31.07.2016
Kích4.7 Mb.
#11671
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   68

640 999. "Sao các bà lại đến giữa kẻ chết mà tìm Đấng hằng sống ? Người không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi" (Lc 24,5-6). Trong biến cố phục sinh, yếu tố đầu tiên mà ta gặp là ngôi mộ trống, Tự nó, sự kiện này không phải là một bằng chứng trực tiếp. Việc thân xác Đức Ki-tô không còn trong mồ có thể được giải thích cách khác (x.Ga 20,13; Mt 28,11-l5). Dầu vậy, mọi người đều coi ngôi mộ trống là dấu chỉ chủ yếu. Việc phát hiện mồ trống là bước đầu dẫn các môn đệ đến việc nhìn nhận chính sự kiện Chúa sống lại. Đó là trường hợp các phụ nữ đạo đức (x.Lc 24,3,22-23), tiếp đến là Phê-rô (x.Lc 24,l2). Khi vào trong mồ trống và thấy "những băng vải để ở đó" (Ga 20,6)", người môn đệ Đức Giê-su yêu quý" (Ga 20,2) khẳng định rằng : "Ông đã thấy và ông đã tin" (Ga 20,8). Điều này giả thiết rằng : khi thấy mộ trống ( x.Ga 20,5-7), ông nhận ra việc mất xác Chúa không phải là do loài người, và Đức Giê-su đã không đơn gian trở lại cuộc sống trần thế như trường hợp La-da-rô vậy ( x.Ga 11,44).
Những lần hiện ra của Chúa Phục sinh
641 553 448. Những người đầu tiên được gặp Đấng Phục Sinh (x.Mc 16,1; Lc 24,1; Mt 28,9-10; Ga 20,11-18) là bà Ma-ri-a Mác-đa-la và các phụ nữ đạo đức đến để hoàn tất việc ướp xác Đức Giê-su (x. Ga 19,31.42) đã được mai táng vội vã vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, vì ngày sa-bát sắp bắt đầu. Như vậy, các phụ nữ là những sứ giả đầu tiên loan báo Đức Ki-tôsống lại cho chính các tông đồ (Lc 24,9-10). Về phần các tông đồ, Đức Ki-tô hiện ra trước hết với Phê-rô, sau đó với nhóm Mười Hai (x.1Cr 15,5).Vì được mời gọi củng cố niềm tin của anh em mình (x.Lc 22,31-32), nên Phê-rô được thấy Đấng Phục Sinh trước họ. Chính dựa trên chứng từ của ông, mà cộng đoàn kêu lên : "Chúa đã sống lại thật rồi, và đã hiện ra với ông Xi-mon" (Lc 24, 34.36).

642 659 , 881 860. Tất cả những gì đã xảy ra trong những ngày lễ Vượt Qua đó thôi thúc các tông đồ, đặc biệt là Phê-rô, ra sức xây dựng một kỷ nguyên mới đã bắt đầu từ sáng ngày Phục Sinh. Với tư cách chứng nhân của Đấng Phục Sinh, họ là những viên đá nền móng của Hội Thánh Người. Đức tin của cộng đoàn tín hữu tiên khởi được xây dựng trên lời chứng của những con người cụ thể mà các Ki-tô hữu quen biết và phần đông còn sống giữa họ. Các "chứng nhân về cuộc Phục Sinh của Đức Ki-tô" (x.Cv 1,22) trước tiên là Phê-rô và Nhóm Mười Hai, nhưng không chỉ mình họ : thánh Phao-lô nói rõ ràng Đức Giê-su "đã hiện ra với hơn năm trăm người một lượt; Người cũng hiện ra với ông Gia-cô-bê rồi với tất cả các tông đồ" (1Cr 15,4-8).
643. Với những chứng từ này, chúng ta có thể khẳng định Đức Ki-tô đã phục sinh trên bình diện thể lý và phải nhận đó là một sự kiện lịch sử. Từ các sự kiện, chúng ta rút ra kết luận : đức tin của các môn đệ đã bị thử thách triệt để do việc Đức Giê-su chịu nạn chịu chết trên cây thập giá, sự kiện đã được Người báo trước (x. Lc 22,31-32). Cuộc khổ nạn đã làm cho các môn đệ bị chấn động mạnh đến nỗi họ (ít ra là một số ) không tin ngay việc Chúa sống lại. Các sách Tin Mừng không hề nói đến một cộng đoàn cuồng nhiệt trong hứng khởi thần bí, nhưng cho thấy "các môn đệ ủ rũ" (Lc 24,17) và sợ hãi (x. Ga 20,19). Họ không tin lời các phụ nữ đạo đức viếng mộ trở về, nhưng "cho là chuyện nhảm nhí" (Lc 24,11) (x.Mc 16,11-13). Khi tỏ mình cho Nhóm Mười Một, chiều ngày Phục Sinh, Đức Giê-su "khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người sống lại" (Mc 16,14).
644. Dù đối diện với thực tế là Đức Giê-su phục sinh, các môn đệ vẫn còn nghi ngờ (x. Lc 24,38) vì không tin rằng điều này có thể xảy ra được, nên họ tưởng trông thấy ma (x.Lc 24,39). "Các ông vẫn chưa dám tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng" (Lc 24,41). Ông Tô-ma cũng đã từng nghi ngờ như vậy (x.Ga 20,24-27). Và khi Đức Giê-su hiện ra lần cuối cùng tại Ga-li-lê, theo thánh Mat-thêu tường thuật "có mấy người vẫn còn hoài nghi" (Mt 28,17). Do đó, giả thuyết cho rằng Phục Sinh là "sản phẩm" của đức tin (hoặc do nhẹ dạ) của các tông đồ, không đứng vững. Trái lại, dưới tác động của ơn thánh, các ông tin vào cuộc Phục Sinh vì có kinh nghiệm trực tiếp về việc Đức Giê-su đã thực sự sống lại.
Trạng thái nhân tính của Đức Ki-tô Phục Sinh
645 999. Đức Giê-su phục sinh có những tương quan trực tiếp với các môn đệ của Người, qua tiếp xúc (x.Lc 24,39; Ga 20,27) và việc chia sẻ bữa ăn (x.Lc 24,30.41-43; Ga 21,9.13-15). Nhờ đó, Người muốn cho họ thấy Người không phải là ma (x.Lc 24,39), và thân xác phục sinh của Người chính là thân xác đã bị hành hạ và đóng đinh thập giá, vì còn mang dấu vết cuộc khổ nạn (x.Lc 24,40; Ga 20,20,27). Tuy nhiên thân xác đúng nghĩa và có thật này có các đặc tính mới của một thân xác vinh hiển : Người không còn bị ràng buộc trong không gian và thời gian nữa, nhưng có thể đi đâu và lúc nào tùy ý, vì nhân tính của Người không còn bị giam giữ trên trần thế mà chỉ thuộc về thế giới thần linh của Chúa Cha (x.Ga 20,17). Do đó Đức Giê-su phục sinh hoàn toàn tự do để hiện ra như Người muốn : dưới hình dáng một người làm vườn (x.Ga 20,14-15) hoặc "dưới hình dạng khác" (Mc 16,12) hơn những hình dạng quen thuộc với các môn đệ, nhằm khơi dậy đức tin của họ (x. Ga 20,14.16; 21,4.7).
646 934 549. Đức Ki-tô Phục Sinh không có nghĩa là Người trở lại với đời sống trần thế, như trường hợp của những kẻ Người đã cho sống lại trước cuộc Vượt Qua : con gái ông Giai-rô, người thanh niên thành Na-im, ông La-da-rô. Các sự kiện này là những biến cố kỳ diệu, tuy nhiên những người được hưởng phép lạ đó, nhờ quyền năng của Đức Giê-su, chỉ trở lại với cuộc sống trần thế "bình thường"; rồi một lúc nào đó, họ vẫn phải chết. Đức Ki-tô Phục Sinh thì hoàn toàn khác hẳn. Trong thân xác sống lại, Người chuyển từ trạng thái chết sang cuộc sống khác, vượt trên thời gian và không gian. Thân xác của Đức Giê-su Phục Sinh tràn đầy quyền năng Chúa Thánh Thần. Thân xác này tham dự vào đời sống thần linh vinh hiển, đến nỗi thánh Phao-lô có thể nói : Đức Ki-tô là "người thượng giới" (1Cr 15,35-50).
Phục Sinh, biến cố siêu việt
647 1000. Trong đêm Phục Sinh, Hội Thánh hát : "Ôi đêm thật diễm phúc, đêm duy nhất biết được thời gian Đức Ki-tô từ cõi chết phục sinh". Thực vậy, không một ai chứng kiến tận mắt biến cố Phục Sinh và không một thánh sử nào mô tả nó. Không ai có thể nói Phục Sinh đã diễn biến như thế nào về mặt thể lý. Giác quan lại càng khó nhận ra được yếu tính sâu xa nhất của Phục Sinh là sự chuyển qua một cuộc sống khác. Tuy Phục Sinh là biến cố lịch sử, có thể ghi nhận được nhờ dấu chỉ mộ trống và những lần gặp gỡ thực sự giữa các tông đồ với Đức Ki-tô sống lại, nhưng Phục Sinh vẫn là trung tâm mầu nhiệm đức tin, vì nó siêu việt và vượt trên mọi chiều kích lịch sử. Do đó, Đức Ki-tô Phục Sinh không tỏ mình ra cho thế gian (x. Ga 14,22) mà chỉ cho các môn đệ của Người, "cho những kẻ từng theo Người từ Ga- li-lê lên Giê-ru-sa-lem. Giờ đây chính họ làm chứng cho Người trước mặt dân" (Cv 13,31).
II. PHỤC SINH, CÔNG TRÌNH CỦA BA NGÔI THIÊN CHÚA

648 258 989 663 445 272. Phục Sinh của Đức Ki-tô là đối tượng của đức tin, vì đó là sự can thiệp siêu việt của chính Thiên Chúa trong công trình sáng tạo và trong lịch sử. Trong cuộc Phục Sinh này, cả Ba Ngôi Thiên Chúa vừa cùng chung hoạt động, vừa biểu lộ tính cách riêng biệt của mình. Phục Sinh được thực hiện do quyền năng của Chúa Cha, Đấng "đã làm cho Đức Ki-tô Con của Người sống lại"(Cv 2,24); nhờ đó, Chúa Cha đưa trọn nhân tính - cùng với thân xác - của Đức Ki-tô vào mầu nhiệm Ba Ngôi một cách hoàn hảo. Đức Giê-su được mặc khải chung cuộc là "Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng theo Thánh Thần do việc Người từ cõi chết sống lại" (Rm 1,3-4). Thánh Phao-lô nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa biểu lộ quyền năng (x.Rm 6,4; 2Cr 13,4; Pl 3,10; Ep 1,19-22; Dt 7,16) qua công trình của Thánh Thần làm cho nhân tính đã chết của Đức Giê-su được sống lại và nâng lên tình trạng vinh hiển.
649. Về phần Chúa Con, Người tự sống lại do quyền năng Thiên Chúa của mình. Đức Giê-su loan báo : Con Người sẽ phải đau khổ, chết và sống lại (theo nghĩa chủ động của từ) (x.Mc 8,31; 9,9,31; 10,34). Nơi khác, Người khẳng định rõ ràng : "Tôi hy sinh mạng sống để rồi lấy lại ....Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy" (Ga 10,17-18) "Chúng ta tin ... rằng Đức Giê-su đã chết và đã sống lại" (1Th 4,14).
650 626 1005. Các giáo phụ chiêm ngắm mầu nhiệm Phục Sinh từ ngôi vị Thiên Chúa của Đức Ki-tô. Ngôi vị này vẫn kết hợp với hồn và xác đã bị cái chết tách rời : "Nhờ sự duy nhất của bản tính Thiên Chúa hiện diện ở cả hai phần của con người, nên hai phần này có thể tái hợp với nhau. Như vậy, chết là tách rời hai phần của con người và phục sinh là kết hợp hai phần ấy lại" (T. Ghê-gô-ri-ô thành Nít-sê, bàn về Phục Sinh của Chúa Ki-tô; DS 325; 359; 369; 539).

III. Ý NGHĨA VÀ ẢNH HƯỞNG CỨU ĐỘ CỦA PHỤC SINH
651 129 274. "Nếu Đức Ki-tô không chỗi dậy, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và đức tin của anh em cũng trống rỗng" (1Cr 15,14). Trên hết mọi sự, Phục Sinh xác nhận tất cả những gì chính Đức Ki-tô đã làm và đã dạy. Khi phục sinh, Đức Ki-tô chứng tỏ Người có thẩm quyền của một vị Thiên Chúa, nên toàn thể các chân lý kể cả những chân lý mà lý trí loài người khó chấp nhận, đều đáng tin.
652 994 601. Đức Ki-tô Phục Sinh hoàn tất những lời hứa của Cựu Ước (x.Lc 24,26-27,44-48) và của chính Người khi còn sống tại thế (x.Mt 28,6; Mc 16,7; Lc 24,6-7). Thuật ngữ "đúng theo Kinh Thánh" (x.1Cr 15,3-4 và kinh Tin kính Ni-xê Con-tan-ti-nôpô-li) cho thấy việc Đức Ki-tô Phục Sinh hoàn tất các lời tiên báo này.
653 445 461,422. Phục Sinh xác nhận thiên tính thật của Đức Giê-su. Người đã nói : "Khi các ông đưa Con Người lên cao, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu" (Ga 8,28). Phục Sinh của Đấng bị đóng đinh chứng minh rằng Người thực sự là "Đấng Hằng Hữu", là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa. Thánh Phao-lô có thể tuyên bố với người Do Thái : "Điều Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Người đã thực hiện ... khi làm cho Đức Giê-su sống lại, đúng như lời đã chép trong thánh vịnh 2 : "Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha sinh ra Con" (Cv 13,32-33). Mầu nhiệm Phục Sinh liên kết mật thiết với mầu nhiệm Con Thiên Chúa Nhập Thể. Phục sinh hoàn tất mầu nhiệm này theo ý định muôn đời của Thiên Chúa.
654 1987 1996. Có hai khía cạnh trong mầu nhiệm Vượt Qua : Đức Ki-tô chết để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, và phục sinh để mở đường vào cuộc sống mới. Cuộc sống mới này bao hàm trước tiên là sự công chính hóa, nghĩa là đặt chúng ta lại trong ân sủng của Thiên Chúa (x. Rm 4,25), để "cũng như Đức Ki-tô đã được sống lại từ cõi chết, chúng ta cũng được sống đời sống mới" (Rm 6,4). Đời sống mới này là chiến thắng sự chết do tội lỗi gây ra và được thông phần lại vào ân sủng (x.Ep 2,4-5; 1Pr 1,3). Kế đến, đời sống mới thực hiện ơn làm nghĩa tử Thiên Chúa vì con người trở thành anh em của Đức Ki-tô, như chính Người gọi các môn đệ sau khi sống lại : "Hãy đi báo tin cho các anh em của Thầy" (Mt 28,10; Ga 20,17). Chúng ta trở thành anh em của Đức Ki-tô không phải do bản tính nhưng do hiệu quả của ân sủng, vì ơn làm nghĩa tử thông hiệp chúng ta thực sự vào đời sống Con Một Thiên Chúa, như mầu nhiệm Phục Sinh đã mặc khải trọn vẹn.
655 989 1002. Cuối cùng, sự phục sinh của Đức Ki-tô, cũng như chính Đức Ki-tô Phục Sinh, là nguyên lý và nguồn mạch sự sống lại của chúng ta mai sau : "Đức Ki-tô đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu ..., như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người, nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống lại" (1 Cr 15,20-22). Trong lúc chờ đợi sự hoàn tất đó, Đức Ki-tô Phục Sinh sống trong lòng mọi tín hữu. Nơi Người, các Ki-tô hữu "được cảm nghiệm những sức mạnh của thế giới tương lai" (Dt 6,5) và cuộc sống của họ được Đức Ki-tô lôi cuốn vào trong cung lòng đời sống của Thiên Chúa (x.Cl 3,1-3), "để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình" (2 Cr 5,15).
TÓM LƯỢC
656. Phục Sinh vừa là một biến cố lịch sử đươc các môn đệ chứng thực vì họ đã thực sự gặp Đấng Phục Sinh, vừa là biến cố siêu việt vì nhân tính của Đức Ki-tô đi vào trong vinh quang Thiên Chúa.
657. Ngôi mộ trống và những băng vải xếp ở đó nói lên rằng : nhờ quyền năng của Thiên Chúa, thân xác của Đức Ki-tô thoát khỏi xiềng xích sự chết và sự hư nát. Những chứng cứ trên chuẩn bị các môn đệ gặp gỡ Đấng Phục Sinh.
658. Đức Ki-tô, "trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại" (Cl 1,18), là nguyên lý sự sống lại của chúng ta: ngay trong hiện tại, Người công chính hóa linh hồn chúng ta (x.Rm 6,4), và sau này cho thân xác chúng ta được sống lại (x.Rm 8,11).

Mục 6
"CHÚA GIÊSU ĐÃ LÊN TRỜI,

NGỰ BÊN HỮU THIÊN CHÚA CHA TOÀN NĂNG”

659 645 66 697 642. "Nói xong, Chúa Giê-su được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa" (Mc 16,19). Thân xác Đức Ki-tô đã được vinh hiển ngay khi Người sống lại; điều này được chứng thực qua các đặc tính mới và siêu nhiên mà từ nay thân xác của Người được hưởng vĩnh viễn (x.Lc 24,31; Ga 20,19.26). Nhưng trong bốn mươi ngày, vinh quang của Người vẫn còn che giấu dưới dạng một con người bình thường ( x.Mc 16,12; Lc 24,15; Ga 20,14-15; 21,4). Người ăn uống thân mật với các môn đệ của Người (x.Cv 10,41) và dạy dỗ họ về Nước Trời (x.Cv 1,3). Lần hiện ra cuối cùng được kết thúc bằng việc nhân tính của Người đi vào vinh quang Thiên Chúa một cách vĩnh viễn; vinh quang này được tượng trưng bằng đám mây (x.Cv 1,9; Lc 9,34-35; Xh 13,22) và cõi trời (x. Lc 24,51) nơi từ nay Người ngự bên hữu Thiên Chúa (x.Mc 16,19; Cv 2,33; 7,36; Tv 110,1). Hoàn toàn ngoại lệ và độc nhất, chỉ một lần, Người tỏ mình ra cho thánh Phao-lô "chẳng khác nào cho một đứa trẻ sinh non" (1Cr15,8) trong lần cuối cùng này, Người đặt ông làm tông đồ (x.1Cr 9,1; Ga 1,16).
660. Vinh quang còn che giấu của Đấng Phục Sinh trong thời gian này được giải thích qua lời Người nói với bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na: "Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ : "Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em" (Ga 20,17). Điều này cho thấy sự khác biệt trong cách thể hiện, giữa vinh quang của Đức Ki-tô Phục Sinh và vinh quang của Đức Ki-tô được tôn vinh bên hữu Chúa Cha. Biến cố Thăng Thiên, vừa lịch sử vừa siêu việt, đánh dấu sự chuyển tiếp từ vinh quang này đến vinh quang kia.
661 792. Giai đoạn cuối cùng này vẫn liên kết mật thiết với giai đoạn đầu, nghĩa là khi Ngôi Hai từ trời xuống nhập thể. Chỉ Đấng "từ Chúa Cha mà đến" mới có thể "trở về cùng Chúa Cha": đó là Đức Ki-tô (Ga 16, 28). "Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống" (Ga 3,13) (x. Ep 4, 8-10). Với sức tự nhiên, nhân loại không thể vào được "Nhà Cha" (Ga 14,2), vào sự sống và hạnh phúc của Thiên Chúa. Chỉ Đức Ki-tô mới có thể mở lối cho con người : "Người lên trời không phải để lìa xa chúng ta là những kẻ yếu đuối, nhưng vì là Đầu và là thủ lãnh của chúng ta, nên Người đã lên trước, để chúng ta là những chi thể của Người vững niềm tin tưởng cũng sẽ được lên theo" (MR. Tiền tụng lễ Thăng thiên).
662 1545 1137. "Phần tôi, một khi được đưa lên khỏi đất, tôi sẽ kéo mọi người đến với tôi" (Ga 12,32). Việc đưa lên thập giá mang ý nghĩa biểu hiện và báo trước việc "đưa lên" trong mầu nhiệm Thăng Thiên. Thập Giá là bước đầu của Thăng Thiên. Đức Giê-su Ki-tô, vị Thượng Tế duy nhất của Giao Ước mới và vĩnh cửu, đã chẳng "vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, ... nhưng Người đã vào chính cõi trời, để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên Chúa, mà chuyển cầu cho chúng ta" (Dt 9, 24). Trên trời, Đức Ki-tô liên tục thực thi chức tư tế của Người, "Người hằng sống để chuyển cầu cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa" (Dt 7, 25). Với tư cách "Thượng Tế đem lại phúc lộc của thế giới tương lai" (Dt 9,11), Người là trung tâm và là chủ tế của Phụng Vụ tôn vinh Chúa Cha trên trời (x. Kh 4,6-11).
663 648. Từ nay, Đức Ki-tô, ngự bên hữu Chúa Cha : "Ngự bên hữu Chúa Cha nghĩa là hưỡng vinh quang và danh dự của Thiên Chúa; Con Thiên Chúa đã hiện hữu từ muôn thuở như Thiên Chúa và đồng bản thể với Chúa Cha, nay đang ngự trong vinh quang và danh dự này cùng với thân xác được tôn vinh (T. Gioan Đa-mát 0.4.2)".
664 541. Việc Đức Ki-tô ngự bên hữu Chúa Cha khai mạc triều đại Đấng Mê-si-a, thực hiện thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en về Con Người : "Người được trao cho quyền thống trị, vinh quang và vương quốc; mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phụng sự Người. Vương Triều của Người vĩnh cửu, không bao giờ mai một; Vương Quốc của Người sẽ vô cùng vô tận" (Đn 7,14). Kể từ lúc ấy, các tông đồ trở thành chứng nhân cho "Triều Đại không bao giờ chấm dứt" (Kinh Tin Kính Ni-xê Con-tan-ti-nô-pô-li).
TÓM LƯỢC
665. Đức Ki-tô lên trời nghĩa là nhân tính của Người vĩnh viễn đi vào thượng giới của Thiên Chúa. Từ nơi đó, Người sẽ trở lại (x.Cv 1,11). Giữa Thăng Thiên và Tái Lâm, loài người không trông thấy Người được (x.Cl 3,3).
666. Đức Giê-su Ki-tô, Đầu của Hội Thánh, đi trước chúng ta vào Vương Quốc vinh hiển của Chúa Cha, để chúng ta là chi thể của Thân Thể Người, sống trong niềm hy vọng một ngày kia được ở vĩnh viễn với Người.
667. Đức Giê-su Ki-tô đã vĩnh viển đi vào cung thánh trên trời. Người không ngừng chuyển cầu cho chúng ta như là Đấng trung gian bảo đảm sẽ luôn ban tràn đầy Thánh Thần cho chúng ta.

Mục 7
"NGAY SAU BỞI TRỜI,

NGƯỜI LẠI XUỐNG PHÁN XÉT KẺ SỐNG VÀ KẺ CHẾT”

I. NGƯỜI SẼ TRỞ LẠI TRONG VINH QUANG
Đức Ki-tô đã hiển trị qua Hội Thánh...
668 450 518. "Đức Ki-tô đã chết và sống lại chính là để làm Chúa kẻ sống cũng như kẻ chết" (Rm 14,9). Đức Ki-tô lên trời cùng với cả nhân tính, thông phần vào quyền năng và uy quyền của chính Thiên Chúa. Đức Giê-su Ki-tô là Chúa : Người nắm mọi quyền bính trên trời dưới đất. Người "vượt trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi tước vị có thể có được" vì Chúa Cha "đã đặt tất cả dưới chân Người" (Ep 1,20-22). Đức Ki-tô là Chúa vũ trụ (.x.Ep 4,10; Cr 15,24.27-28) và lịch sử. Nơi Người, lịch sử loài người cũng như toàn thể công trình sáng tạo "được thu tóm" (Ep 1,10) và hoàn tất một cách siêu việt.
669 792,1088 541. Đức Ki-tô là Chúa và cũng là Đầu Hội Thánh, Thân Thể của Người (x.Ep 1,22). Sau khi chu toàn sứ mạng, Đức Ki-tô được đưa lên trời và được tôn vinh, nhưng vẫn lưu lại trần thế trong Hội Thánh. Công trình cứu chuộc là nguồn mạch quyền bính mà Đức Ki-tô thực thi trên Hội Thánh bằng sức mạnh Thánh Thần (x.Ep 4,11-13). "Triều Đại của Đức Ki-tô hiện diện một cách bí nhiệm trong Hội Thánh", "mầm mống và khởi điểm Nước Trời tại thế "(LG 3,5).
670 1042 825 547. Từ khi Đức Ki-tô lên trời, ý định của Thiên Chúa bước vào giai đoạn hoàn thành. Chúng ta đang sống trong "giờ cuối cùng" (1 Ga 2,18; 1 Pr 4,7). "Như thế thời đại cuối cùng đã đến với chúng ta. Việc canh tân thế giới được thiết lập một cách bất khả thu hồi và thực sự đã bắt đầu được thực hiện ngay từ bây giờ : Hội Thánh lữ hành đã được trang điểm bằng sự thánh thiện đích thực, tuy chưa hoàn toàn" (LG 48). Các dấu lạ điềm thiêng (x. Mc 16,17-18) xác nhận lời rao giảng của Hội Thánh, minh chứng triều đại Đức Ki-tô đã hiện diện (x. Mc 16,20).
...trong khi chờ đợi muôn loài qui phục Người

671 1043 769, 773 1043, 2046 2817

Tuy đã hiện diện trong Hội Thánh, nhưng triều đại của Đức Ki-tô chưa được hoàn tất "một cách đầy quyền năng và vinh hiển" (Lc 21,27) ( x.Mt 25,31), vì Người chưa ngự giá mây trời mà đến. Triều đại này còn bị các thế lực sự dữ tấn công (x. 2 Th 2,7), cho dù cơ bản chúng đã bị chính Đức Ki-tô đánh bại. Cho đến khi muôn loài qui phục Người (x.1Cr 15,28), "cho tới khi có trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị, Hội Thánh lữ hành mang khuôn mặt chóng qua của đời này, qua các bí tích và định chế là những điều thuộc thời đại này. Và Hội Thánh vẫn sống giữa các thụ tạo tới nay còn rên siết và quằn quại trong cơn đau đớn lúc sinh nở, và mong đợi con cái Thiên Chúa xuất hiện" (LG 48).Vì vậy, các tín hữu cầu xin Đức Ki-tô mau trở lại (2Pr,11-12)nhất là trong cử hành Thánh Thể (1Cr 11,26) : "Lạy Chúa, xin ngựđến ! " (1 Cr 16, 22; Kh 22,17.20).


672 732 2612. Trước khi lên trời, Đức Ki-tô khẳng định rằng chưa đến giờ Người thiết lập Triều Đại Mê-si-a vinh hiển mà Ít-ra-en mong đợi (x. Cv 1,6-7). Theo lời các ngôn sứ (x. Is 11,1-9), triều đại này sẽ mang lại cho mọi người đầy tràn tình thương, công lý và bình an. Theo Đức Ki-tô, thời hiện tại là thời của Thánh Thần và của chứng nhân (x. Cv 1,8), cũng là thời Hội Thánh gặp nhiều "thống khổ" (1Cr 7,26), thử thách (x.1 Pr 4,17) và chiến đấu (x.Ep 5,16)trong những ngày cuối cùng ( x.1Ga 2,18; 4,3; 1Tm 4,1). Đây là thời gian chờ đợi và canh thức (x. Mt 25,1-13; Mc 13,33-37).
Đức Ki-tô quang lâm vinh hiển, niềm hy vọng của Ít-ra-en
673 1040 1048. Từ khi Đức Ki-tô lên trời, ngày quang lâm vinh hiển của Người luôn gần kề (x.Kh 22,20), mặc dù chúng ta "không biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt" (Cv 1,7) (x. Mc 13,32). Cho dù ngày quang lâm và "những thử thách cuối cùng phải xảy ra trước đó" (2 Th 2,3-12) (x. Mt 24,44; 1Th 5,2) còn được Thiên Chúa "cầm giữ " lại, ngày quang lâm vẫn có thể xảy ra bất cứ lúc nào .
674 840 58. Đấng Mê-si-a quang lâm vinh hiển ( x. Rm 11,31) đến lúc nào là tùy thuộc vào việc "toàn thể Ít-ra-en" (Rm 11,26; Mt 23,39) nhận biết Người. Nhưng hiện nay "một phần dân Ít-ra-en còn cứng lòng" (Rm 11,25)"họ không tin"(Rm 11,20) Đức Giê-su. Thánh Phê-rô nói với người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem sau lễ Hiện Xuống : "Anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em. Như vậy, thời kỳ thảnh thơi mà Chúa ban cho anh em sẽ đến, khi Người sai Đấng Ki-tô Người đã dành cho anh em, là Đức Giê-su đến. Đức Giê-su còn phải được giữ lại trên trời cho đến thời phục hồi vạn vật, thời mà Thiên Chúa đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ của Người mà loan báo tự ngàn xưa" (Cv 3,19-21). Thánh Phao-lô cũng phụ họa : "Nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hòa giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thâu nhận lại sẽ là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?" (Rm 11,15). Việc "người Do Thái trở về đông đủ" (Rm 11,12) trong ơn cứu độ của Đấng Mê-si-a, sau khi các dân ngoại gia nhập đông đủ (x. Rm 11,25; Lc 21,24 ), sẽ làm cho dân Chúa "đạt tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô " (Ep 4,13) trong đó "Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài "(1 Cr 15,28).
Thử thách tối hậu của Hội Thánh
675 769. Trước khi Đức Ki-tô quang lâm, Hội Thánh phải trải qua một cuộc thử thách cuối cùng khiến nhiều tín hữu bị lung lạc đức tin ( x. Lc 18,8; Mt 14,12). Những cuộc bách hại mà Hội Thánh phải chịu trong suốt cuộc lữ hành trên trần thế (x. Lc 21,12; Ga 15,19-20) sẽ vạch trần "mầu nhiệm sự dữ" dưới hình thức bịp bợm tôn giáo; hình thức này chỉ đem lại cho con người một giải đáp giả tạo cho các vấn đề của họ để rồi họ phải xa rời chân lý. Sự bịp bợm tôn giáo nham hiểm nhất là sự bịp bợm của tên Phản Ki-tô, nghĩa là của một thuyết Mê-si-a giả hiệu : trong đó, con người tự tôn vinh chính mình thay vì tôn vinh Thiên Chúa và Đấng Mê-si-a của Người đã đến trong xác phàm ( x. 2Th 2, 4-12; 1Th 5,2-3; 2Ga 7; 1Ga 2,18.22).
676 2425. Sự bịp bợm phản Ki-tô đó hiện hình trong thế giới, mỗi khi người ta tự hào sẽ thực hiện được, trong lịch sử, niềm hy vọng thời Mê-si-a vốn chỉ có thể hoàn tất bên kia lịch sử qua cuộc phán xét cánh chung. Hội Thánh cũng không chấp nhận thứ Nước Trời giả mạo dù dưới hình thức hiền hòa Thuyết Ngàn Năm (DS 3839) hoặc dưới dạng chính trị của một thuyết Mê-si-a trần tục, "tai ác tự bản chất " (Pi-ô XI, Thông điệp "Thiên Chúa Đấng cứu chuộc " ; GS 20-21.).
677 1310 2853. Hội Thánh chỉ bước vào vinh quang Nước Trời sau cuộc Vượt Qua cuối cùng, theo gót Chúa mình trong cái chết và Phục Sinh (x. Kh 19,1-9). Nước Trời sẽ không được thực hiện bằng việc Hội Thánh tiến tới và khải hoàn trong lịch sử (x. Kh 13,8), nhưng do Thiên Chúa chiến thắng cơn hoành hành cuối cùng của sự dữ (x. Kh 20, 7-10), làm cho Giê-ru-sa-lem mới từ trời xuất hiện (x. Kh 21, 2-4). Sau cơn rung chuyển cuối cùng trong toàn vũ trụ của thế giới đang qua đi này, (x. 2 Pr 3,11-12), Thiên Chúa sẽ toàn thắng cuộc nổi loạn của sự dữ dưới hình thức cuộc Phán Xét cuối cùng (x. Kh 20,12).
1038-1041.


tải về 4.7 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   12   13   14   15   16   17   18   19   ...   68




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương