SÁch giải nghĩa sách 1 VÀ 2 TÊ-sa-lô-ni-ca pre-publication version



tải về 3.12 Mb.
trang3/13
Chuyển đổi dữ liệu19.08.2016
Kích3.12 Mb.
#23476
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13


Tóm lại, mục đích của Phao-lô khi viết thư thứ nhì là:

1. Để khiến các con dân Chúa ở Tê-sa-lô-ni-ca được mạnh mẽ khi phải đối diện với sự bắt bớ nghiêm trọng.

2. Để sửa lại những điều sai lầm mà một số con dân Chúa đã tin về thời điểm mà Chúa Giê-su sẽ trở lại.

3. Để trấn an họ rằng họ xứng đáng làm công dân trong Vương Quốc của Đức Chúa Trời. Bằng chứng của điều đó là: (1) đức tin của họ, (2) sự cố gắng làm theo ý muốn Đức Chúa Trời, và (3) chịu đựng sự bắt bớ.

4. Để cảnh cáo một số con dân Chúa thay đổi lối sống, bởi vì họ lười biếng và hay xen vào chuyện của người khác.



DÀN BÀI SÁCH 1 TÊ-SA-LÔ-NI-CA

Thư đầu tiên Phao-lô gửi cho người Tê-sa-lô-ni-ca có thể được chia ra làm bốn phần chính. Dưới đây là những phân đoạn này kèm theo các câu Kinh Thánh trích dẫn và chủ đề cho biết ý tưởng chính hay các ý tưởng ở trong mỗi phân đoạn. Những phân đoạn này được in trong các khung mầu xám. Dưới mỗi đầu đề của phân đoạn, các tiểu đoạn trong các phân đoạn được liệt kê với chủ đề của mỗi tiểu đoạn.



PHÂN ĐOẠN 1:1 Lời chào thăm mở đầu: Phao-lô gửi lời chào thăm đến hội thánh tại thành phố Tê-sa-lô-ni-ca.
PHÂN ĐOẠN 1:2-3:13 Cảm tưởng của Phao-lô về các tín hữu ở Tê-sa-lô-ni-ca, sự đáp ứng của họ đối với Phúc Âm và sự cảm tạ của Phao-lô về họ.
1:2-10 Phao-lô cám ơn Đức Chúa Trời về cách người Tê-sa-lô-ni-ca chấp nhận Phúc Âm và tiếp tục theo Chúa.

2:1-12 Phao-lô bênh vực chính ông và các bạn đồng hành để chống lại sự tố cáo là họ đã làm bậy trong khi ở tại Tê-sa-lô-ni-ca.

2:13-16 Một lần nữa Phao-lô cám ơn Đức Chúa Trời về cách người Tê-sa-lô-ni-ca chấp nhận Phúc Âm.

2:17-3:5 Phao-lô giải thích rằng ông rất muốn tới thăm các con dân Chúa ở tại Tê-sa-lô-ni-ca một lần nữa, nhưng ông đã bị ngăn trở như thế nào, và tại sao ông sai Ti-mô-thê đi thay ông.

3:6-13 Ti-mô-thê trở lại với báo cáo làm cho Phao-lô vui mừng, được khuyến khích và làm ông càng muốn đi thăm lại Tê-sa-lô-ni-ca hơn nữa.

PHÂN ĐOẠN 4:1-5:22 Phao-lô ban những lời chỉ dẫn và cổ võ về cách sống thế nào cho đẹp lòng Đức Chúa Trời, kèm với sự dạy dỗ về sự trở lại của Chúa Giê-su.

4:1-12 Phao-lô chỉ dẫn và cổ võ người Tê-sa-lô-ni-ca sống đẹp lòng Đức Chúa Trời và yêu mến lẫn nhau.

4:13-5:11 Sự trở lại của Chúa Giê-su

5:12-22 Phao-lô cho thêm lời chỉ dẫn về cách sống đẹp lòng Đức Chúa Trời.



PHÂN ĐOẠN 5:23-28 Lời chào thăm kết luận: Phao-lô cầu nguyện chúc phước cho người Tê-sa-lô-ni-ca, xin họ cầu nguyện cho ông và các bạn đồng hành, và gửi lời chào thăm.

Về dàn bài của sách 2 Tê-sa-lô-ni-ca, xin xem trang 89.



TÓM TẮT SÁCH

Sứ đồ Phao-lô nói với các con dân Chúa ở Tê-sa-lô-ni-ca ông cám ơn Đức Chúa Trời vì cách họ đã chấp nhận và tiếp tục tin Phúc Âm về Chúa Cơ Đốc Giê-su. Ông nói rõ là ông và các bạn đồng hành của ông không làm điều gì sai lầm khi ở tại Tê-sa-lô-ni-ca cả. Phao-lô giải thích tại sao ông không thể đến thăm Tê-sa-lô-ni-ca, nhưng lại sai Ti-mô-thê đi thay. Khi Ti-mô-thê trở lại với Phao-lô, tin tức về các con dân Chúa ở Tê-sa-lô-ni-ca trong chuyến đi mới nhất này là một khích lệ lớn cho Phao-lô. Tin này làm cho Phao-lô rất muốn đi thăm tín hữu ở Tê-sa-lô-ni-ca một lần nữa. Ông nói cho họ biết cách sống một đời sống đẹp lòng Đức Chúa Trời và sẵn sàng cho Chúa Giê-su trở lại thế gian.



LỜI GIẢI NGHĨA SÁCH 1 TÊ-SA-LÔ-NI-CA

PHÂN ĐOẠN 1:1 Lời chào thăm mở đầu: Phao-lô gửi lời chào thăm đến hội thánh tại thành phố Tê-sa-lô-ni-ca.




1:1a

Phao-lô, Sin-vanh và Ti-mô-thê: Giống như Phao-lô, Sin-vanh có hai tên là Sin-vanh và Si-la. Sin-vanh có lẽ là cách viết theo tiếng La-mã của tên Si-la trong tiếng Hy-ba-lai (Do Thái). Trong lời chào thăm của 1 và 2 Tê-sa-lô-ni-ca và 1 Phê-rơ người viết dùng cách viết theo tiếng La-tinh là Sin-vanh. Lu-ca dùng tên Si-la trong sách Công-vụ có lẽ đây là tên được gọi thông thường. Điều quan trọng trong khi dịch là phải nói rõ ràng tên Sin-vanh và Si-la chỉ cùng một nhân vật. Một số người phiên dịch giải quyết nan đề này bằng cách chỉ dùng tên Si-la và dùng lời chú thích ở cuối trang viết tên theo hình thức Sin-vanh. Có thể dùng một cách khác đó là viết tên Sin-vanh như trong bài và dùng lời chú thích ở cuối trang giải thích ông cũng là Si-la trong sách Công-vụ.

Sin-vanh và Ti-mô-thê ở với Phao-lô tại Tê-sa-lô-ni-ca. Phao-lô đang viết thư, nhưng hai người này cũng gửi lời chào thăm người Tê-sa-lô-ni-ca. Bởi vì trong phần mở đầu của thư không dùng động từ chào thăm, có thể trong ngôn ngữ của bạn phải dùng lời chào thăm như viết trong Phần Kinh Thánh Cần Dịch (PKTCD), để nghe có vẻ tự nhiên hơn.



1:1b

hội thánh Tê-sa-lô-ni-ca: Trong Tân Ước (TƯ) hội thánh được hiểu là không phải là ngôi nhà thờ nhưng mà là một nhóm người sống ở trong cùng một địa bàn và cùng họp lại để thờ phượng Đức Chúa Trời và Chúa Cơ Đốc Giê-su. Phao-lô đang viết thư cho những người ở trong thành phố gọi là Tê-sa-lô-ni-ca.

1:1c

ở trong Đức Chúa Trời, là Cha và ở trong Chúa Giê-su Cơ Đốc:

ở trong: Cụm từ ở trong là những từ khó dịch cách thích hợp và tự nhiên nhất ở những chỗ chỉ liên hệ đến một người, ý nghĩa của nó thay đổi tùy theo văn mạch. Ở đây chúng có nghĩa là ‘những người thuộc về Đức Chúa Trời’ hay “những người cùng nhóm lại để thờ phượng Đức Chúa Trời.” Bản Dịch ý (BDY) dịch từ này là “của”: “Hội thánh của Thượng Đế.”

là Cha: Trong một số ngôn ngữ từ cha phải có một người sở hữu, và không thể đứng một mình. Trong PKTCD luôn luôn dùng cụm từ của chúng ta khi nói đến chaChúa.

Đức Chúa: Dịch từ kurios trong tiếng Hy-lạp có nghĩa là ‘chủ,’ ‘chúa, thầy’ hay ‘người lãnh đạo.’ Nó là tước vị để chỉ sự tôn trọng. Tuy nhiên, trong một số ngôn ngữ từ “chủ” không có nghĩa tốt. Từ Hy-lạp kurios gần như luôn luôn dùng để chỉ Đức Giê-su Cơ Đốc trong TƯ, dầu đôi khi nó được dùng để chỉ Đức Chúa Trời. Trong PKTCD dùng thành ngữ “Chúa Cơ Đốc Giê-su của chúng ta” và bạn nên dịch “chúa” bằng từ thích hợp nhất trong ngôn ngữ của bạn. Trong một số ngôn ngữ người ta không thể dùng từ “chúa” hay “chủ” một mình, như trong tiếng Việt Nam, vì vậy phải dùng từ đức đứng trước như trong tên “Đức Chúa Trời” hay “Đức Giê-su.” Trong các ngôn ngữ khác họ phải nói “chúa của chúng ta” hay “chủ của chúng ta.” Vậy tốt hơn nên dịch “cha” là “cha của chúng ta,” hay dùng cùng một cách như vậy.

Đức Giê-su Cơ Đốc: Trong thư này, giống như hầu hết các thư tín trong TƯ, Cơ Đốc đã trở thành một tên riêng chỉ nối liền với Giê-su. Từ Hy-lạp là christos, có nghĩa là ‘Đấng được xức dầu của Đức Chúa Trời.’ Vậy bạn nên phiên dịch theo ý nghĩa hay phiên âm từng từ một giống như là Giê-su Cơ Đốc trong thư này. Hãy xem phần 9 trong phần Hướng Dẫn Xử Dụng Bộ Sách Giải Nghĩa.

1:1d

Nguyện xin anh chị em được đầy ân sủng và bình an: Đây là lời chào thăm thông thường Phao-lô dùng trong các thư của ông. Phê-rơ cũng đã dùng các lời chào thăm ấy trong các thư của mình. Â n sủng hàm ý cả phước hạnh về vật chất lẫn thuộc linh. Bình an hàm ý phúc lợi về phần thể chất, tâm thần và thuộc linh trong mọi hoàn cảnh, ngay cả khi người ở Tê-sa-lô-ni-ca bị những người khác gây rắc rối. Hãy xem lời giải nghĩa trong 5:23a.1 Thật ra thành ngữ này là một lời cầu nguyện. Hãy xem các Câu Định Nghĩa (CĐN) trong PKTCD cho 1:1d.

PHÂN ĐOẠN 1:2-3:13 Cảm tưởng của Phao-lô về các tín hữu ở Tê-sa-lô-ni-ca, sự đáp ứng của họ đối với Phúc Âm và sự cảm tạ của Phao-lô về họ.

Chủ để của các tiểu đoạn trong Phân Đoạn này như sau:


1:2-10 Phao-lô cám ơn Đức Chúa Trời về cách người Tê-sa-lô-ni-ca chấp nhận Phúc Âm và tiếp tục theo Chúa.

2:1-12 Phao-lô bênh vực chính ông và các bạn đồng hành để chống lại sự tố cáo họ đã làm bậy trong khi ở tại Tê-sa-lô-ni-ca.

2:13-16 Một lần nữa Phao-lô cám ơn Đức Chúa Trời về cách người Tê-sa-lô-ni-ca chấp nhận Phúc Âm.

2:17-3:5 Phao-lô giải thích rằng ông rất muốn tới thăm các con dân Chúa ở tại Tê-sa-lô-ni-ca một lần nữa, nhưng ông đã bị ngăn trở như thế nào, và tại sao ông sai Ti-mô-thê đi thay ông.

3:6-13 Ti-mô-thê trở lại với báo cáo làm cho Phao-lô vui mừng, được khuyến khích và làm ông càng muốn đi thăm lại Tê-sa-lô-ni-ca hơn nữa.

TIỂU ĐOẠN 1:2-10 Phao-lô cám ơn Đức Chúa Trời về cách người Tê-sa-lô-ni-ca chấp nhận Phúc Âm và tiếp tục theo Chúa.




1:2-3 Phao-lô cầu nguyện và cám ơn Đức Chúa Trời về người Tê-sa-lô-ni-ca.

Khi Phao-lô cầu nguyện, ông cám ơn Đức Chúa Trời về đức tin, về tình yêu thương của các con dân Chúa đối với những người khác, và hy vọng của họ về Chúa Giê-su sẽ trở lại.



1:2

Chúng tôi hằng cảm tạ Đức Chúa Trời về tất cả anh chị em, thường nhắc đến anh chị em trong khi cầu nguyện:

Chúng tôi: Đây đề cập đến Phao-lô và các bạn đồng hành của ông.

hằng: Mặc dầu cấu trúc văn phạm của tiếng Hy-lạp không rõ, một số nhà giải kinh và bản dịch nói là từ hằng đi với cảm tạtiếp tục đi với từ nhắc đến trong 1:3a. Chúng ta theo quan niệm này. Phao-lô viết lời tuyên bố tương tự ở trong 2 Tê-sa-lô-ni-ca 1:3 và Phi-líp 1:3-5. Ông có vẻ muốn nói: “Bất cứ khi nào chúng tôi cầu nguyện cho anh chị em, chúng tôi cám ơn Đức Chúa Trời bởi vì chúng tôi nhớ lại anh chị em đang làm điều đẹp lòng Đức Chúa Trời và bởi vì chúng tôi biết rằng Đức Chúa Trời đã chọn anh chị em làm dân sự của Ngài.”

nhắc đến: Không phải Phao-lô hay Đức Chúa Trời đã quên họ, nhưng sự cốt yếu của việc cầu nguyện là chúng ta nhắc Đức Chúa Trời, Đấng không bao giờ quên, nhớ đến các lời hứa cho dân của Ngài và đến tên các con dân Ngài để Chúa sẽ giúp đỡ họ.


PHÂN ĐOẠN 1:1 Lời chào thăm mở đầu: Phao-lô gửi lời chào thăm đến hội thánh tại thành phố Tê-sa-lô-ni-ca.

1:1a Phao-lô, Sin-vanh và Ti-mô-thê

Chính tôi Phao-lô, Sin-vanh và Ti-mô-thê là người gởi lời chào thăm trong lá thư này đến anh chị em

-HAY-

Tôi, Phao-lô cùng với Sin-vanh và Ti-mô-thê chào thăm anh chị em

-HAY-

Lá thư này đến từ tay Phao-lô. Sin-vanh và Ti-mô-thê cùng chào thăm anh chị em

1:1b kính gởi hội thánh Tê-sa-lô-ni-ca

các con dân Chúa ở tại hội thánh của thành phố Tê-sa-lô-ni-ca

-HAY-

là những người ở trong nhóm con dân Chúa nhóm họp với nhau tại thành phố Tê-sa-lô-ni-ca

1:1c ở trong Đức Chúa Trời, là Cha và ở trong Chúa Giê-su Cơ Đốc.

là những người thuộc về Đức Chúa Trời, Cha của chúng ta và Chúa Giê-su Cơ Đốc của chúng ta.



-HAY-

để thờ phượng Đức Chúa Trời Cha của chúng ta và Chúa Giê-su Cơ Đốc của chúng ta.



1:1d Nguyện xin anh chị em được đầy ân sủng và bình an.

Chúng tôi cầu xin rằng Đức Chúa Trời sẽ ban phước và khiến anh chị em có sự bình an trong lòng.

-HAY-

Chúng tôi cầu xin rằng Đức Chúa Trời sẽ tử tế với anh chị em và cho anh chị em được thoả lòng.


PHÂN ĐOẠN 1:2-3:13  Cảm tưởng của Phao-lô về các tín hữu ở Tê-sa-lô-ni-ca, sự đáp ứng của họ đối với Phúc Âm và sự cảm tạ của Phao-lô về họ.




TIỂU ĐOẠN 1:2-10 Phao-lô cám ơn Đức Chúa Trời về cách người Tê-sa-lô-ni-ca chấp nhận Phúc Âm và tiếp tục theo Chúa.



1:2-3  Phao-lô cầu nguyện cám ơn Đức Chúa Trời về người Tê-sa-lô-ni-ca.




1:2 Chúng tôi hằng cảm tạ Đức Chúa Trời về tất cả anh chị em, thường nhắc đến anh chị em trong khi cầu nguyện.

Khi chúng tôi cầu nguyện cho anh chị em, chúng tôi luôn luôn cám ơn Đức Chúa Trời về anh chị em.







1:3a

Trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, chúng tôi nhớ: Đây là một thành ngữ diễn tả lời cầu nguyện như một người đi đến một chỗ giống như đến “trước mặt” vua để yêu cầu một điều gì. Nên dịch một cách cẩn thận để độc giả không nghĩ rằng Phao-lô nói đến một chỗ riêng biệt hay một địa điểm nào.

1:3b-d

đến công việc anh chị em làm do đức tin, lao khổ anh chị em chịu vì tình thương và lòng kiên trì của anh chị em nhờ hy vọng nơi Đức Giê-su Cơ Đốc, Chúa chúng ta: Các từ do trong “làm do,” trong “chịu vì” và nhờ trong “nhờ hy vọng” ở Bản Dịch Mới (BDM) được dịch từ cùng một từ Hy-lạp có nghĩa là ‘của.’ Trong tiếng Việt chúng ta có thể hiểu là “bởi.” Câu này có nghĩa là ‘việc làm bởi đức tin, sự lao khổ bởi tình thương, chịu đựng bởi hy vọng.’

1:3b

công việc anh chị em làm do đức tin: Tin tưởng Đức Chúa Trời và Chúa Giê-su Cơ Đốc mà không làm gì hết chứng tỏ đó không phải là sự tin tưởng thật. (Hãy so sánh với Gia-cơ 2:14.) Họ làm việc thiện bởi vì đức tin của họ nơi Đức Chúa Trời và Chúa Giê-su Cơ Đốc.

1:3c

lao khổ anh chị em chịu vì tình thương: Đa số các học giả nghĩ câu này có nghĩa như vậy, bởi vì họ yêu mến các tín hữu khác, họ làm việc khó nhọc để giúp đỡ những tín hữu này. Khi dịch câu này bạn nên chỉ rõ ràng ai là người yêu và ai là người được yêu:

Tình yêu thương của anh chị em đối với Đức Chúa Trời và Chúa Giê-su Cơ Đốc khiến anh chị em làm việc khó nhọc.



- hay-

Bởi vì anh chị em yêu thương các tín hữu nên anh chị em làm việc khó nhọc để giúp đỡ họ.



1:3d

lòng kiên trì của anh chị em nhờ hy vọng nơi Đức Giê-su Cơ Đốc, Chúa chúng ta:

hy vọng: Từ này, theo nghĩa trong KT, có nghĩa là ‘chắc chắn là một việc gì đó sẽ xảy ra,’ và tương tự như “một niềm tin mạnh mẽ rằng một việc gì đó sẽ xảy ra.” Họ hy vọng cái gì? Tức là điều họ tin chắc sẽ xảy ra là gì? Đó là Chúa Giê-su sẽ trở lại, khiến người chết sống lại, và đem các con dân Chúa lên thiên đàng với Ngài (1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:13-18). Có hai cách để dịch từ hy vọng ở đây:
(1) Bởi vị họ tin tưởng mạnh mẽ, họ trở nên vững vàng, không giao động và kiên nhẫn. Để thống nhất với 1:3b và 1:3c, câu này nên dịch là “sự kiện anh chị em chắc chắn rằng Chúa Giê-su Cơ-Đốc sẽ trở lại khiến cho anh chị em đứng vững.” Các câu 1:6, 2:14, 3:4 và 3:8 chỗ Phao-lô nói với sự bằng lòng của ông về cách họ đứng vững trong khi bị bắt bớ đã hỗ trợ cho cách diễn dịch này.

(2) Cách diễn dịch là “sự bền-đỗ về sự trông-cậy của anh em trong Đức Chúa Jêsus-Christ” (Bản Dịch Cũ) (BDC) ít được chấp nhận hơn, bởi vì nó mất đi sự nối liền với “hy vọng” khiến họ “kiên trì.”

Cách diễn dịch đầu tiên được ưa thích hơn. Trong tất cả những lời giải nghĩa sau đây về sách 1 và 2 Tê-sa-lô-ni-ca, khi có nhiều cách để dịch (theo ý nghĩa), cách dịch được đánh số (1) luôn luôn là cách dịch được ưa chuộng hơn.

1:4-10 Đức tin của người Tê-sa-lô-ni-ca là sự làm chứng tốt.

Phao-lô biết Đức Chúa Trời đã chọn họ cho chính Chúa bởi vì ông đã thấy họ đáp ứng như thế nào khi ông và các bạn đồng hành của ông giảng cho họ. Các người Tê-sa-lô-ni-ca thấy sự giảng dạy của Phao-lô và các bạn đồng hành của ông có quyền năng của Đức Thánh Linh và họ tin tưởng mạnh mẽ vào điều họ giảng. Kết quả là, một số người Tê-sa-lô-ni-ca trở nên các môn đệ vui vẻ của Chúa Giê-su, của Phao-lô và các bạn đồng hành của ông, mặc dầu bị đồng bào của họ bắt bớ. Họ lại còn trở nên gương mẫu cho các con dân Chúa trong xứ Ma-xê-đoan và A-chai, khi tin tức về đức tin của họ lan ra khắp nơi. Cho nên bất cứ chỗ nào Phao-lô và các bạn đồng hành của ông đến giảng, người ta đều đã biết người ở Tê-sa-lô-ni-ca đã trở lại tin Đức Giê-su như thế nào.

1:4

Thưa anh chị em, là những người được Đức Chúa Trời yêu quí, chúng tôi biết rằng Đức Chúa Trời đã chọn anh chị em: anh chị em: Đây là một từ cho thấy họ là người trong gia đình của Đức Chúa Trời. Nếu trong ngôn ngữ của bạn có một từ tổng quát dùng để chỉ người già cũng như trẻ,

1:3a Trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta,

Bởi vì khi chúng tôi cầu nguyện với Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, chúng tôi luôn luôn nhớ đến và cảm ơn Chúa về ba điều sau:



1:3b chúng tôi nhớ đến công việc anh chị em làm do đức tin,

đức tin của anh chị em trong Đức Chúa Trời và Chúa Giê-su Cơ Đốc của chúng ta khiến anh chị em làm các việc lành như thế nào,



-HAY-

bởi vì anh chị em tin nơi Đức Chúa Trời và Chúa Giê-su Cơ Đốc của chúng ta nên anh chị em làm việc lành,



1:3c lao khổ anh chị em chịu vì tình thương

tình yêu thương của anh chị em đối với Đức Chúa Trời và Chúa Giê-su Cơ Đốc của chúng ta khiến anh em lao khổ như thế nào,



-HAY-

bởi vì anh chị em yêu mến Đức Chúa Trời và Chúa Giê-su Cơ Đốc của chúng ta nên anh chị em lao khổ,



1:3d và lòng kiên trì của anh chị em nhờ hy vọng nơi Đức Giê-su Cơ Đốc, Chúa chúng ta.

và sự kiện anh chị em tin chắc rằng Chúa Giê-su Cơ Đốc sẽ trở lại khiến cho anh chị em đứng vững như thế nào.



-HAY-

và bởi vì anh chị em chắc chắn rằng Chúa Giê-su Cơ Đốc của chúng ta sẽ trở lại nên anh chị em tiếp tục tin Chúa mạnh mẽ.



1:4-10  Đức tin của người Tê-sa-lô-ni-ca là sự làm chứng tốt.




1:4 Thưa anh chị em, là những người được Đức Chúa Trời yêu quí, chúng tôi biết rằng Đức Chúa Trời đã chọn anh chị em.

Và chúng tôi cũng cảm tạ Đức Chúa Trời bởi vì chúng tôi biết rằng Đức Chúa Trời yêu mến anh chị em và đã chọn anh chị em làm dân sự của Ngài.





phái nam cũng như phái nữ thì nên dùng từ này hơn là một từ chuyên biệt.

chúng tôi biết rằng: Đây muốn đề cập lại như trong 1:2. Vậy sự liên hệ giữa 1:2 và 1:4 là: chúng tôi cám ơn Đức Chúa Trời bởi vì chúng tôi biết…. Hãy xem PKTCD của 1:4. Việc Đức Chúa Trời lựa chọn người Tê-sa-lô-ni-ca trở nên môn đệ của Đức Giê-su là một lý do khác nữa làm ông cám ơn Đức Chúa Trời vì họ là dân của Ngài.

Đức Chúa Trời đã chọn anh chị em: Chúa đã chọn họ để làm gì? Để làm dân của Ngài, để được cứu rỗi, để nhận sự sống vĩnh cữu, để trở nên tín hữu, để phục vụ Chúa, để trở nên giống như Chúa Giê-su và mọi thứ khác nữa. Các nhà giải kinh ủng hộ tất cả mọi điều trên. “Làm dân của Ngài (CĐN)” có vẻ bao gồm tất cả mọi sự còn lại, và hợp với ý tưởng Đức Chúa Trời chọn dân Y-sơ-ra-ên để làm tuyển dân của Ngài trong CƯ.

1:5a

Vì Phúc Âm chúng tôi đã truyền cho anh chị em:

vì: Trong 1:5-9 Phao-lô đưa bằng chứng cho lời tuyên bố của ông trong 1:4 cho thấy Đức Chúa Trời đã chọn họ.

Phúc Âm chúng tôi đã truyền cho anh chị em: Phúc Âm thường có nghĩa là ‘tin tức tốt về Chúa Cơ Đốc Giê-su’ hay ‘tin tức tốt lành đến từ Đức Chúa Trời.’ Rõ ràng Phao-lô muốn nói ông và các bạn đồng hành của ông đến Tê-sa-lô-ni-ca để giảng cho những người ở đó. Những người ông đang viết thư cho đã nghe và chấp nhận điều ông giảng. BDY dùng nghĩa đen “vì chúng tôi công bố Phúc Âm cho anh em” thay vì dùng thành ngữ truyền cho.

1:5b-c

không phải chỉ bằng lời nói nhưng bằng quyền năng, nhờ Đức Thánh Linh: Lời nói không sẽ không đủ để thuyết phục người Tê-sa-lô-ni-ca tin tưởng nơi Đức Chúa Trời và Chúa Cơ Đốc Giê-su. Họ đã thấy các phép lạ xảy ra khi Phao-lô và các bạn đồng hành của ông giảng. Chính Đức Thánh Linh khiến cho những điều này xảy ra. Tuy nhiên, dù Đức Thánh Linh thật làm cho tâm trí họ tin quyết, trong câu đầy lòng tin quyết này đề cập đến Phao-lô và các bạn đồng hành của ông. Hãy xem Lời Giải Nghĩa kế tiếp. So sánh đời sống của Phao-lô ở tại Cô-rinh-tô được chép trong 2 Cô-rinh-tô 6:6-7 thấy giống như đời sống của ông tại Tê-sa-lô-ni-ca được mô tả cách chi tiết ở trong 1 Tê-sa-lô-ni-ca 2:1-12.

1:5d

đầy lòng tin quyết: Câu hỏi ở đây là ai là người đầy lòng tin quyết? Người Tê-sa-lô-ni-ca hay Phao-lô và các bạn đồng hành? Các nhà giải kinh chia phe giữa hai quan niệm sau:
(1) Phao-lô và các bạn đồng hành của ông đầy lòng tin quyết vào chân lý trong sứ điệp của họ. Quan niệm này được nhiều người ưa thích bởi vì các từ Hy-lạp tập trung về phong cách Phúc Âm được mang đến cho người Tê-sa-lô-ni-ca. Tức là Phúc Âm được giảng với quyền năng của Đức Thánh Linh, và những người giảng đầy lòng tin quyết vào điều họ nói.

(2) Người Tê-sa-lô-ni-ca đầy lòng tin quyết rằng sứ điệp là xác thật.



Каталог: uploads
uploads -> -
uploads -> 1. Most doctors and nurses have to work on a once or twice a week at the hospital
uploads -> Kính gửi Qu‎ý doanh nghiệp
uploads -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
uploads -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
uploads -> Tác giả phạm hồng thái bài giảng ngôn ngữ LẬp trình c/C++
uploads -> BỘ TÀi nguyên và MÔi trưỜng
uploads -> TRƯỜng đẠi học ngân hàng tp. Hcm markerting cơ BẢn lớP: mk001-1-111-T01
uploads -> TIÊu chuẩn quốc gia tcvn 8108 : 2009 iso 11285 : 2004
uploads -> ĐỀ thi học sinh giỏi tỉnh hải dưƠng môn Toán lớp 9 (2003 2004) (Thời gian : 150 phút) Bài 1

tải về 3.12 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   13




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương