Salvation history


CÁC TIÊN TRI THỜI? KỲ LƯU ÐÀY *** SỰ CHIA RẼ VƯƠNG QUỐC



tải về 0.95 Mb.
trang4/10
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích0.95 Mb.
#31179
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

CÁC TIÊN TRI THỜI? KỲ LƯU ÐÀY


***

SỰ CHIA RẼ VƯƠNG QUỐC


 

SALÔMON? (Ðọc 3V, 1 - 11).

 

Salômon con trai của Bat-shêba, được chọn làm vua thể theo quyết định trên giường lâm chung của Ðavít ; người anh của Salômon là Ađônyah thì không được chỉ định, Salômon tiếp tục công việc Ðavít đã bỏ dỡ. Triều đại ông đã nổi tiếng lẫy lừng về sự vinh quang phú quí . Có biệt tài về những đường lối thế tục, ông đã bước vào thị trường thương mại quốc tế và đem lại sự phồn vinh cho Yêrusalem. Hàng trăm chiếc xe trận đã tậu được với hàng ngàn con ngựa. Di tích những chuồng ngựa đã được tìm thấy tại thành Mêgiđô trong cuộc khai quật tối tân, chứng tỏ rằng điều mô tả trong 3V. 10, 26 không phải là những lời có tính cách yêu nước quá đáng.



"Salômon tậu dàn xe cộ và ngựa : Ông có một ngàn bốn trăm cỗ xe và mười hai ngàn con ngựa ; ông dồn chứa trong các thành để xe và gần bên vua ở Yêrusalem". Lương thực chi dụng trong nhà của ông là "Ba mươi gánh bột tinh lúa miến và sáu mươi gánh bột mỳ, mười bò béo nẫy và hai mươi bò chăn ngoài đồng, một trăm dê cừu không kể hươu nai, hoẳng, cu cu nuôi béo" (3V. 4, 22 - 23).

Chúng ta đọc thấy rằng nữ hoàng Saba đã phải kinh ngạc khi trông thấy "sự thịnh soạn nơi bàn ông, chổ ở của triều thần, hàng ngũ quân hầu và y phục của họ, các quan chước tửu của ông, cùng những lễ thượng hiến mà dâng tiến nơi nhà Yavê".? Sự giàu sang phú quý của ông tiêu biểu cho các triều đình thời xưa, và trái ngược hẳn với sự đơn giản của thủ đô vua Saul ; đó là chưa nói gì đến sự nghèo đói cùng cực mà Môsê và dân chúng phải trải qua nhiều năm trong sa mạc, trong thời kỳ xuất hành. Sự phồn vinh này che đậy một câu chuyện đáng thương tâm về những sưu cao thuế nặng mà người bình dân trong mỗi thị tộc phải gánh chịu, câu chuyện ngàn đời về người giàu trở nên giàu hơn và người nghèo lại càng nghèo mạt là một thực tế hàng ngày trong suốt đời vị vua quá xa hoa này.

 

Mặc dầu quá say mê sự phù phiếm thế trần, vua Salômon cũng góp phần vào lịch sử cứu độ và vào sự phát triển tôn giáo Môsê, trong đó ơn cứu độ được tiềm tàng. Trong khoảng thời gian bảy năm (khoảng 960 - 953 trước TCGS) ông dồn sức lực vào việc xây cất một đền thờ cho Thiên Chúa, trên sân đập lúa của Araunah mà Ðavít, cha của ông, đã mua trước kia . Vật liệu hảo hạng nhất đã tìm được gỗ bá hương cao vút của xứ Liban phía bắc. Vua xứ này tên là Khiram, đã gửi những người thợ tài khéo nhất của ông đến để giúp xây cất. Ðền thờ rất đơn giản về hình thể : Nó hình chữ nhật, không có gì là to lớn đối với tiêu chuẩn thời nay, độ 60 xích chiều dài, 20 xích chiều rộng. Ðược chia làm ba phần chính : một tiền đình, một chính điện và một hậu tẩm, nơi Cực Thánh. Khám Giao Ước được đặt vào giữa cảnh thâm u của hậu tẩm. Khi được đặt vào Hậu Tẩm và khi đám mây chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa đã bao phủ trên nó, thì Khám Giao Ước trở thành một vật cao quý nhất trong nơi thánh thiện nhất trên thế giới. Chỉ một mình vị thượng tế mới được phép vào chốn thâm cung của nó, mỗi năm chỉ được một lần mà thôi, vào dịp lễ xá tội được cử hành cách trọng thể.



 

Nghi lễ thờ phụng chung quanh Khám đã có dưới thời Ðavít trước kia, được cải thiện cho hoàn hảo hơn. Thánh Kinh nói : "Các Lêvít ca sĩ, tất cả nhóm Asaph, Hêma, Giơđutun, các con cái và anh em họ đều mặc lụa là đứng sẵn với chũm chọe, đàn sắt, đàn cầm, ở phía đông tế đàn, và bên cạnh họ là 120 tư tế thổi loa. Vậy khi tất cả như một, họ thổi loa ca hát, đồng thanh cất tiếng ngợi khen cảm tạ Yavê, và trổ tiếng loa, chũm chọe và nhạc khí mà ngợi khen Yavê (2Ks. 5, 12 - 13).

 

Những nghi thức bên ngoài của tôn giáo Môsê cứ như thế mà phát triển. Những nghi thức đó cũng có thể trở thành kiểu cách bên ngoài mà thôi (đó là mối nguy hiểm mà mọi tôn giáo đều gặp), nhưng nó chứng tỏ lòng ước ao của vua cũng như của dân chúng muốn dâng lên Thiên Chúa cái đẹp của ca nhạc và nghi lễ. Tính cách thiêng liêng của Salômon, vị vua thuộc dòng Ðavít và là con của Thiên Chúa, được nổi bật qua đoạn văn mô tả sự dâng hiến đến thánh như sau :



 

"Khi Salômon đã nguyện xong với Yavê tất cả lời khấn nguyện van xin ấy, thì ông đứng dậy trước khỏi tế đàn Yavê, nơi ông quì gối và giương tay lên trời, đoạn ông đứng mà chúc lành lớn tiếng cho toàn thể đoàn hội Israel .

 

Ngày ấy vua đã tác thành khoảng giữa tiền đình trước nhà Yavê, ở đó ông đã thượng hiến đồ cúng, và dàn mở lễ tế kỳ an." (3V. 8, 54 - 55, 64).



 

Trong khung cảnh đó, Salômon hành động như là một tư tế hơn là một vị vua. Nói cho đúng hơn, ông đã hành động như một vị vua có tính cách tư tế, đang ở một địa vị đặc biệt giữa Thiên Chúa và loài người, địa vị đó đã được ban cho các vua dòng dõi Ðavít qua lời tiên tri Nathan. Trong mỗi tường hợp như thế, chắc là dân chúng đã tự hỏi : Phải chăng chính Salômon là vị vua, con của Thiên Chúa, là kẻ đã được hứa ban cho một vương quốc vừa vĩnh cửu vừa phổ bác.

 

Salômon cũng đã ảnh hưởng đến sự phát triển của tôn giáo Môsê do những lời khôn ngoan ông đã nói và đã viết. Truyền thống Thánh Kinh nhấn mạnh nhiều về sự khôn ngoan sâu xa của ông, và những câu cách ngôn ông đã phát biểu.



 

"Ông khôn ngoan hôn tất cả mọi người trong thiên hạ. Hơn Etan, Egrakhi và Hêman, hơn Kalrol và Ðarđa con của Makhôl. Tên ông vang đến tất cả các dân chung quanh. Ông cũng đã truyền 3000 cách ngôn, và thi cả của ông tính đến 1005 bài (3V. 4, 31 - 32). Theo Linh mục Thế Thuấn thì (1V. 5, 11 - 12).

 

Nhiều câu cách ngôn của Salômon chắc chắn là đã được truyền lại xuyên qua nhiều thế kỷ tiếp, và đã tới tay chúng ta dưới hình thức "Sách Cách Ngôn" và những Thánh Vịnh.



 

Tuy vậy, vị vua con của Thiên Chúa, con người khôn ngoan và hòa bình này, đã kết liễu bằng một tôn giáo bi thảm, bị xấu hổ thẹn thùng vì tính say mê sắc dục vô độ của ông. Các bà vợ và hầu thiếp của ông đếm được hàng chục, hàng trăm, nhiều bà thuộc ngoại giáo, và họ mang theo sự tôn thờ những vị thần tà giáo của họ. Việc Salômon chấp nhận cách thụ động những thể thức ấy chính là đầu mối sự tội của ông. Và cuoối cùng ông đã thực sự tham gia vào việc cúng bái các tà thần đó.

 

"Vua Salômon yêu nhiều gái ngoại bang, công chúa của Pharaô, các con cái Moab, Ammon, Eđom và Hít-tít . Salômon trắn tríu yêu thương chúng nó. Ông có 700 thê thất và 300 hầu thiếp, và chúng đã làm xiêu lạc lòng ông. Khi Salômon đã già, thì các vợ ông làm xiêu lòng ông theo các thần khác. Lòng ông không còn đơn thành với Yavê Thiên Chúa của ông như lòng của Ðavít cha ông. Salômon đã đi theo Astoret của dân Siđôn, Milkom, đồ tởm của dân Ammon. Bấy giờ Salômon đã xây cao đàn cho Kamosh, đồ tởm của Moab, trên núi phía đông Yêrusalem. Ông cũng làm như thế cho tất cả các vợ ngoại bang, những người muốn huân yên tế lễ cho các thần của họ (3V. 11, 1 - 8).



 

Thiên Chúa không làm ngơ trước thái độ khinh thường này của vị vua, con của Ngài, và hình phạt chẳng bao lâu đã xuất hiện. Vương quốc hùng cường và phồn thịnh của Salômon chỉ tồn tại ít lâu sau khi ông chết :

 

"Bởi đã nên thế ấy nơi ngươi, và ngươi đã không giữ Giao Ước của Ta và các luật điều Ta đã truyền dạy ngươi, Ta sẽ giựt lấy vương quyền của ngươi . Song Ta sẽ không làm thế vào ngày đời ngươi, nhân vì Ðavít cha ngươi, nhưng Ta sẽ xé nát khỏi tay con ngươi. Có điều là Ta sẽ không xé nát tất cả nước, Ta sẽ ban cho con ngươi một chi tộc vì Ðavít tôi tớ của Ta, và chỉ Yêrusalem Ta đã chọn" (3V. 11, 11 - 13).



 

Thế rồi Salômon chết, khi đã già và hư hỏng, vương quốc phồn thịnh và tội lỗi của ông gần như bị tiêu tan.

 

SỰ LY KHAI (Ðọc? 3V. 12, 1 - 33).

 

Sự thống nhất vương quốc của Salômôn bị tiêu tan ít lâu sau khi ông chết, vào khoảng 932 trước TCGS, người kế vị là Roboam con ông, hãy còn trẻ tuổi và rất ít sự khôn ngoan lẫy lừng của vua cha. Chính tại thành Sikem ở phía bắc, đã được cung hiến để tưởng nhớ các vị tổ phụ, là nơi bùng nổ vấn đề về tài chính, một vấn đề vốn đã âm ỉ từ thời Salômon hãy còn sống. Ðó là vấn đề liên quan đến sưu dịch mà Salômon bắt mỗi chi tộc phải đóng góp để có đủ tài chính và công nhân đáp ứng cho các chương trình xây cất vĩ đại của ông.



 

Khi Rôbôam lên ngôi, người ta hy vọng rất nhiều ở một chính sách dịu dàng hơn và nhất là được giảm bớt sưu thuế. Bên cạnh lòng ước muốn cải cách ấy còn một dòng thác sâu xa hơn, đó là sự ganh tỵ cổ truyền giữa miền nam và miền bắc. Mối ganh tỵ này đã nằm yên dưới triều đại của Ðavít, và đã bắt đầu khuấy động lại dưới thời Salômon, bây giờ trở thành hiển nhiên khi Rôbôam đến Sikem để dự nghi lễ tấn phong. Có người cho rằng những sắc thuế nặng nề của Salômon không đánh trên chi tộc Yuđa ở miền nam. Nếu đúng như thế, thì những chi tộc ở miền bắc đã phải chịu tất cả cái gánh tài chánh nặng nề cho những chương trình của Salômon. Vậy những chi tộc miền bắc yêu cầu vị vua trẻ tuổi Rôbôam giảm bớt sưu thuế. Rôbôam không phải là một con người khôn lanh về chính trị, và ông đã tỏ ra dửng dưng trước những yêu cầu của thời đại và nộ khí của dân chúng, thay vì giảm bớt sưu thuế, ông tuyên bố sẽ tăng thêm. Và ông đã tăng sưu thuế. Dưới sự lãnh đạo của? Yêrôbôam, một người đã từng phục dịch vua Salômon, thuộc chi tộc Ephraim (dĩ nhiên là người miền bắc), toàn thể miền bắc nổi dậy chống miền nam và đòi ly khai. Những chi tộc miền bắc đã phá vỡ sự thống nhất với những tiếng la ó :

 

"Nào ta có phần nào với Ðavít ?



Không khoản nào với Ysai !

Israel hỡi ! Hãy lui về lều !

Hãy liệu lấy nhà ngươi, hỡi Ðavít !

 

Rôbôam chỉ còn làm vua trên một phần vương quốc của cha ông và của ông nội ông, chỉ kiểm soát được chi tộc Yuđa và một số phần tử thuộc các chi tộc Benjamin và Simêon. Công trình chính trị của Saul, Ðavít và Salômon đã bị đổ nát, và dân Israel sẽ không bao giờ còn được biết một vương quốc thống nhất gồm cả mười hai chi tộc như dưới triều đại ba vị vua đầu tiên của bọ.



 

Một torng những hành động đầu tiên, một hành động nguy hiểm nhất mà Yêrôbôam đã thực hiện trong vương quốc của ông ở miền bắc (thường gọi Israel để phân biệt với vương quốc Yuđa ở miền nam) là làm cản trở sự sùng mộ của dân chúng đối với Yêrusalem, thủ đô miền nam về phương diện tôn giáo. Ông nhận định rằng sự hiện diện của đền thờ và Khám sẽ luôn luôn là dịp lôi kéo các chi tộc miền bắc thống nhất với miền nam. Bởi đó ông xây cất những đền thờ riêng, một ở Ðan về phía cực bắc của xứ ông, và một ở Bêthel, không xa Yêrusalem bao nhiêu, ông hy vọng rằng bất cứ khách hành hương nào từ vương quốc của ông định đi Yêrusalem để viếng đến thờ và Khám Yavê, cũng sẽ bị quyến rũ dừng hẳn lại ở Bêthel. Tại Ðan và Bêthel ông đều cho dựng lên những con bê vàng (chắc chắn những tượng bằng gỗ thếp vàng). Ðiều này không phải hoàn toàn vì mục đích bái sùng ngẫu tượng. Những con bê chắc là có ý định tiêu biểu cho ngai Yavê và tượng trưng quyền năng của Ngài, nhưng không thể nào làm cho dân chúng nghĩ đúng như thế, bởi vì con bê cũng còn tượng trưng cho tà thần Baal của dân Canaan, vị thần của sự sinh sản đông đảo, quả nhiên chẳng bao lâu nhiều người đến bái lạy trước những con bê vàng, không phải vì coi như là biểu hiệu ngai của Thiên Chúa vô hình của Israel, song họ coi như là biểu hiện hữu hình của vị thần sinh sản đông đảo. Yêrôbôam đã mở đầu cho một tập quán tôn giáo nguy hiểm nhất. Nhờ đó ông đã ngăn chận được dân chúng của ông, không để họ đi hành hương đến Yêrusalem, nhưng cũng vì thế mà ông đã gieo mầm mống sự phản bội sau này của Israel đối với Thiên Chúa chân thực của mình. Tuy nhiên sự phản bội này sẽ không phải là không bị chống đối. Những vị tiên tri của Thiên Chúa bước vào lịch sử của Israel ở miền bắc và Yuđa ở miền nam, để yêu cầu phải ăn năn trở lại và để mang đến một sứ điệp thiêng liêng rất sâu xa.

 

CÁC TIÊN TRI TRƯỚC THỜI KỲ LƯU ÐÀY.

 

TIÊN TRI CỦA ISRAEL.

 

Phần nhiều nghe nói đến tiên tri, người ta hay nghĩ đến một người nói trước việc vị lai, một người có tầm mắt nhìn rất xa. Hiểu như thế tức là chưa phân biệt rõ ràng nhiệm vụ của các vị tiên tri. Ðúng thế, ở một vài trường hợp rất ít họ cũng nói trước những việc vị lai, nhưng thường nói một cách bóng gió huyền bí. Nhưng nhiệm vụ chính của họ là đem đến một sứ điệp tinh thần đúng lúc và rất rõ ràng của Thiên Chúa, đến cho vua và dân chúng họ là phát ngôn viên của Thiên Chúa, những sứ giả của Ngài truyền lại những ời Thiên Chúa yêu cầu dân chúng thờ đó hãy ăn năn trở lại. Sứ điệp của họ chỉ nhằm vào thời đại họ mà thôi, nhưng chân lý và tầm quan trọng của nó ngày nay vẫn còn giá trị.



 

Môsê là một tiên tri. Thật vậy ông là sứ giả vĩ đại nhất của Thiên Chúa, trước thời Chúa Giêsu ra đời.. nhưng kỷ nguyên của các tiên tri, một khoảng thời gian chừng 900 năm từ khoảng 1050 đến 150 trước TCGS, thật sự bắt đầu với Samuel và sự chỗi dậy của vương quyền, tiên tri và vương quyền dường như cùng chỗi dậy chung với nhau, và cả hai đều có sự liên hệ chặt chẽ trong nhiều thế kỷ, lý do là một trong những nhiệm vụ chính của tiên tri là khuyên răn và cảnh cáo vua. Ðó là một nhiệm vụ bội bạc, bởi vì các vị vua phần đông ở miền bắc (Israel) cũng như ở miền nam (Yuđa) không phải là những người biết kính sợ Thiên Chúa và biết hoan nghênh sứ điệp của Thiên Chúa, câu nói "phần thưởng dành cho vị tiên tri" có một giọng điệu mỉa mai chua chát ngay từ lúc lịch sử tiên tri khởi đầu, bởi vì các tiên tri hay bị đau khổ rất nhiều về sứ mạng của họ. Họ bị đánh đập, tù đày, sĩ nhục, gông cùm, nhận sâu xuống bùn nhưng chỉ có một điều làm cho họ im lặng, đó là sự chết, và thường thường họ bị giết một cách tàn bạo. Chúng ta đã thấy Samuel đem đến sứ điệp của Thiên Chúa truất phế Saul ; và Nathan đã can đảm khiển trách vào mặt Ðavít về tội âm mưu giết người với Batshêba. Những cuộc chạm mặt như thế là điển hình cho mối quan hệ giữa các tiên tri và các vua kế tiếp.

 

Không phải sự hoạt động của các tiên tri chỉ hạn chế nơi các vua mà thôi. Nhiều người khác nữa cũng cảm thấy sức mạnh của sứ điệp Thiên Chúa. Có vị đã nói (lớn tiếng và rõ ràng), những lời phản đối các vị tư tế đã phản bội chức vị linh thiêng của mình bằng sự tham ô và bái sùng ngẫu tượng ; phản đối những người giàu dày xéo bóc lột người nghèo, và phản đối cả những người nghèo có lối sống lang thang sa đọa không có mục đích, chẳng khác nào những con cừu đi theo những người chăn hư đốn, các tiên tri lên tiếng nói với mọi người : vua, tư tế, kẻ có tước quyền, người giàu có, kẻ nghèo hèn. Tính cách thiêng liêng mạnh mẽ trong những lời giáo huấn của họ đã góp phần rất lớn cho tôn giáo Môsê và còn thúc đẩy tiến hơn nữa lên thời kỳ cứu độ, trong đó con người sẽ được cứu rỗi bằng việc thờ phụng trong tinh thần và trong chân lý.



 

Trước khi nói về một ít vị tiên tri quan trọng hơn, thời kỳ trước lưu đày, thiết tưởng cũng nên tóm lược nhanh chóng những điều giáo huấn tổng quát của họ. Những lời sấm truyền cũng như những lời giảng dạy của các tiên tri thường tập trung vào những điểm sau đây :

 

* SỰ THÁNH THIỆN TRONG TÂM HỒN. Một trong những lời thiên khải của các tiên tri (điều cần thiết cho ta ngày nay cũng như cho chính thính giả Hippri ngày xưa đã được nghe lần đầu tiên) là phải có một tôn giáo thực trong tâm hồn, một tôn giáo đặt nền tảng trên sự yêu mến Thiên Chúa và vâng phục Ngài. Trong suốt thời kỳ náo loạn của các tiên tri, dân Israel tin tưởng quá tuyệt đối ở giá trị của những nghi lễ bên ngoài. Tâm hồn họ không muốn thờ phụng Thiên Chúa bằng cách vâng Thánh Ý Ngài hàng ngày, bởi đó họ trấn an lương tâm bằng cách tăng thêm nhiều bàn thờ và nhiều lễ tế. Họ phỏng đoán cách thê thảm là những việc này có thể kéo xuống lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Sự chuộng hình thức thối nát khô khan đã đâm rễ trong một thời kỳ khá lâu. Tiêu biểu nhất cho sự phản đối cái tôn giáo giả tạo chỉ vụ bề ngoài như thế, là những lời lên án của tiên tri Yêrêmia.



 

"Yavê các cơ binh, Thiên Chúa của Israel phán thế này : Hãy cải thiện đường đi nước bước cùng hành vi của các ngươi, và Ta sẽ để cho các ngươi lưu lại chốn này. Ðừng tin cậy noơi những lời dối trá, rằng : "Ðền thờ của Yavê ! Ðền thờ của Yavê ! Ðền thờ của Yavê chính là đây !" Phải, nếu các ngươi cải thiện đường đi nước bước cùng hành vi của các ngươi ; nếu giữa đồng bào với nhau, các ngươi thi hành công lý ; nếu các ngươi không áp bức khách ngụ cư, mồ côi, quả phụ ; nếu các ngươi không đổ máu vô tội ở chốn này ; nếu các ngươi không đi theo các thần khác - để mà phải khốn vào thân, thì Ta sẽ để các ngươi lưu lại chốn này, trên đất Ta đã ban cho cha ông các ngươi, từ đời đời cho đến đời đời" (Yr. 7, 3 - 7).

 

* CHỈ THỜ PHỤNG MỘT THIÊN CHÚA CHÂN THẬT. Các tiên tri thường xuyên chỉ trích sự bái sùng ngẫu tượng ở thời đại của họ "Ta là Yavê Thiên Chúa của các ngươi. Ngoài Ta ra, các ngươi không được có vị thần nào khác". Ðó là giới răn khẩn thiết nhất của thời đại ấy ngay cả một vài vị vua tốt như Êyêkia và Yôsia cũng chỉ thành công rất giới hạn trong những chiến dịch bài trừ sự bái sùng ngẫu tượng thời?73;ó. Nhiều người Israel đã dâng con của họ làm của lễ bị thiêu sinh mà tế lễ vị thần tà giáo Môlôt. Pho tượng giống như hình người của vị thần này quả thật là một lò lửa khổng lồ. Dọc theo mấy cách tay giơ lên của nó, xuyên qua cái ngực mở ra của nó và vào trong bụng có lửa cháy bừng bừng của nó, người ta ném những nạn nhân vô tội để tế lễ tà thần. Yêrêmia đã nói rằng "ngay cả nơi tà áo của Yuđa cũng tìm thấy máu mạng người bần cùng vô tội" (Yr 2, 34).



 

Sự tôn thờ Baal và "nữ hoàng thiên cung" cũng phản nghịch không kém, và lại còn phổ biến hơn nữa. Nền tảng của nó là sự tuần hoàn hàng năm của thiên nhiên. Bởi vì thiên nhiên trông như ngủ yên dưới cái nắng ác nghiệt của mùa hè và sống lại với những trận mưa về cuối mùa thu. Người ta đã đặt ra một huyền thoại để giải thích tại sao lại có sự thay đổi giữa các mùa như thế. Theo huyền thoại này thì Baal, vị thần của sự sinh sản đông đúc bị chết vào mùa nắng ráo và đến mùa thu thì được bà vợ của ông ta làm cho hồi sinh. Rồi cuộc làm tình của họ đã làm cho thiên nhiên sinh sôi nảy nở sau những trận mưa. Những người tin tưởng ở huyền thoại này thì muốn tôn thờ hai vị thần nam và thần nữ của mình bằng cách bắt chước họ mà làm tình, để hy vọng là chính mình cũng được phúc sinh sản đông đúc như là thiên nhiên vậy. Xuyên qua sự bắt chước làm tình như thế, dân chúng nghĩ rằng mình mới tiến gần những vị thần đa tình của mình hơn, và mới bảo đảm được sinh nhiều con cái và ruộng đất được phì nhiêu. Vì sự tôn thờ này mà đĩ điếm đầy dẫy và sinh ra nhiều nghi lễ rất sỗ sàng thô tục. Quả là liều thuốc độc cho đời sống tôn giáo trong các vương quốc của dân Israel. Các tiên tri luôn luôn chỉ trích vấn đề này, nhưng không được hiệu quả thiết thực nơi thính giả. Cá ngài đã khẩn khoản yêu cầu họ, đe dọa họ? và khóc lóc trước mặt họ để xin họ hãy trở lại và hãy trung thành với một Thiên Chúa độc nhất mà thôi, hãy tôn thờ Ngài, bằng cách tuyệt đối vâng phục Thánh Ý Ngài vì Ngài là Thiên Chúa thật của thiên nhiên.

 

* SỰ CÔNG BẰNG XÃ HỘI. Ðây cũng là một đề tài khác của các tiên tri mà có thể áp dụng cho thời nay. Sự xa hoa của các đền đài dinh thự đã được xây cất, trên sự bất công đối với công nhân và sự hối lộ của các thẩm phán trong những phiên tòa công khai tại các cửa thành. Những người buôn bán thời đó thường xử dụng những hình thức lùa gạt đê tiện nhất, dùng cân lường không chính xác (thời đại chúng ta không phải là không có), để khách hàng phải trả tiền nhiều hơn món hàng nhận được. Người nghèo, người cùng khổ, người bạch đinh, theo lời các tiên tri, rất quan trọng đặc biệt trước mặt Thiên Chúa. Khốn cho ai không biết đối xử với những kẻ ấy như "những người nghèo khổ của Thiên Chúa". Ðề tài này được nhiều tiên tri nhắc tới, nhất là Amos, "vị tiên tri của nhiệm vụ con người đối với đồng loại".



 

"Ya vê phán thế này : Vì ba tội ác của Israel và vì bốn tội, Ta sẽ không hối lại, bởi chúng bán người lành với giá bạc, và kẻ khó với một đôi dép. Nghèo nàn chúng chà đầu đất bụi, và chúng uốn cong đường lối kẻ hèn."(Am. 2, 6 - 7).

 

"Khốn cho những kẻ tráo đổi công lý thành khổ ngải và lẽ ngay chính thì hất nhào xuống đất. Cho nên : nhân vì các ngươi bắt nghèo hèn è cổ nộp tô, và thu lúa thóc bóc lột nó, nên các ngươi xây nhà đá mà sẽ không được ở. Các ngươi trồng vườn nho sang quý mà sẽ không được uống rượu.



 

Phải, Ta biết tội ác các ngươi nhiều, các ngươi quá phạm cũng lắm ; chúng bắt nạt người ngay, nhận quà hối lộ, nơi công môn hất quyền kẻ khó." (Am. 5, 7 - 12).

 

"Hãy nghe điều này hỡi quân chà đạp kẻ khó, và muốn chà đạp những người khiêm ti trong xứ. Các ngươi nói : Bao giờ ngày sóc qua đi để ta bán lúa ? Bao giờ Hưu Lễ mới xong để ta mở hàng ? Ta, bóp nhỏ đấu đong và thêm nặng quả cân, và làm sái cái cân giả mạo. Ta tậu lấy người nghèo bằng giá bạc và kẻ khó với một đôi dép. Lúa quét bỏ ta cũng bán đi". (Am. 8, 4 - 6)



 

Việc khởi đầu này của các tiên tri về vấn đề công bình đối với người nghèo khó chẳng khác gì một bản tuyên ngôn các mối phúc thật thời kỳ Chúa Kitô chưa ra đời. Vừa kêu gọi công bình và từ thiện, vừa đề cao kẻ nghèo khó? là những người được Thiên Chúa yêu thương cách riêng.

 

Sự thánh thiện trong tâm hồn, sự phụng thờ một Thiên Chúa chân thật độc nhất, sự công bình đối với người nghèo khổ : đó là những đề tài chính của các tiên tri của Thiên Chúa. Các vua, các tư tế, các kẻ quyền quí giàu sang cũng như mọi tầng lớp nhân dân khác, đều là thính giả của họ. Nhưng về phần cá nhân của những vị tiên tri đó như thế nào, họ là ai và thuộc hạng người nào ? Tiêu biểu nhất và quan trọng nhất trong vai trò chống lại vương quốc mạnh mẽ của sự tội, đó là các tiên tri Êlia, Êlisa, Amos, Hôsê, Ysaia, Mica và Yêrêmia.



 

CÁ NHÂN NHỮNG TIÊN TRI THỜI KỲ? TRƯỚC LƯU ÐÀY.

 

ÊLIA VÀ ÊLISA (Ðọc 3V. 16, 23 ; 4V. 13, 21).

 

Chức vụ của hai tiên tri hay làm phép lạ này quay chung quanh triều đại của Akhab, vua của dân Israel vào khoảng 870 trước TCGS. Chính cha của Akhab, vua Omri, đã dời thủ đô của vương quốc miền bắc về thành Samari. Chúng ta biết được, qua những tài liệu không thuộc bộ Kinh Thánh, thời đại của Omri là một thời đại rất vẻ vang và phồn vinh. Ông đã kết ước với nước lân bang Phênixia chuyên buôn bán, bằng cách cưới công chúa Phênixia tên là Iabel cho con trai Akhab của ông. Nhưng tác giả thiên khải của chúng ta không màng chi đến những thành công vật chất của Omri. Triều đại của ông đã bị phê phán một cách ngắn gọn và buồn tẻ khi nói đến sự thất bại thiêng liêng của ông.



 

"Omri đã làm sự dữ trước mắt Yavê và ăn ở thất đức hơn tất cả những người đã sống trước ông. Ông đã hoàn toàn đi theo con đường của Yơrôbôam . theo các tội lỗi do đó ông đã làm cho Israel vấp phạm, và chọc tức Yavê Thiên Chúa của Israel với những thần phù phiếm của chúng" (Các Vua III. 16, 25 - 26).

 

Izabel, người vợ ngoại giáo của Akhab, có tính tình cương nghị hơn chồng. Giữa bà và tiên tri Êlia xảy ra một mối hận thù mãn đại, bởi vì bà đã đem theo sự bái thờ thần Baal của xứ Phênixia. Bà dựng đền thờ ở Samari và đặt những pháp sư ở đó để lo việc sùng bái phóng túng cho thần ấy. Bà giết hại các tiên tri của Thiên Chúa, một mình Êlia đã thoát khỏi bàn tay sát nhân của bà. Bởi đó tại Samari, vương quốc của sự tội đã lấn áp nhờ sự hận thù.



 

Chương 18 trong quyển thứ ba, sách Các Vua đã mô tả một cách linh động cuộc tranh chấp nổi tiếng trên đỉnh núi Karmel, giữa những pháp sư của Baal và một mình Êlia. Ðó là một cuộc chạm trán tay đôi giữa quyền lực Baal và quyền lực Thiên Chúa. Cả hai bên đều trưng bày những thú vật tế lễ. Các pháp sư của Baal cầu kinh suốt buổi sáng để xin lửa xuống thiêu hủy lễ vật, nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Bị Êlia thôi thúc một cách chế giễu, họ lại tiếp tục cầu kinh suốt buổi chiều. Êlia lại cười nhạo "Phải kêu lớn hơn nữa ! vì ngài là thần linh, ngài đang bận suy tính hay mắc trở việc và có khi ngài đang đi vắng ; có lẽ ngài đã thiếp ngủ, ngài sẽ thức dậy !" (câu 27), vẫn không có gì xảy ra, rồi Êlia cho tưới nước ngập những lễ vật, ông cầu xin và có lửa xuống thiêu hủy lễ vật. Cuộc tranh chấp kết thúc bằng cuộc xử tử các pháp sư của Baal.

 

Nhưng Izabel vẫn còn sống và mạng sống của Êlia lúc nào cũng bị đe dọa. Ông đã phản đối xong sự bái sùng ngẫu tượng đang thịnh hành trong vương quốc của Akhab. Nhiệm vụ kế tiếp của ông là phản đối nhà vua về một bất công xã hội rất đê hèn mà cả nhà vua và hoàng hậu đều liên can. Ðó là vấn đề vườn nho của Nabôt ở thành Yizrơel. Vườn nho này ở sát cạnh cơ sở của nhà vua và ông này rất thèm muốn nó. Nhưng Nabôt không chịu bán vì đó là cơ nghiệp của tổ tiên. Nhà vua buồn rầu tuyệt vọng. Nhưng Izabel lại có phản ứng khác hẳn, bà chỉ có việc làm cho Nabôt bị đem ra xét xử về những lời vu cáo rằng ông ta đã nguyền rủa đến Thiên Chúa và nhà vua. Bị kết án là có tội. Nabôt bị đưa ra ném đá chết, và nhà vua được vườn nho. Bấy giờ vị tiên tri bước vào sân khấu :



 

"Bấy giờ lời Yavê đến với Êlia rằng : Hãy chỗi dậy, xuống gặp Akhab vua Israel, đóng đô ở Samari. Này nó đang ở vườn nho của Nabôt, nó đã xuống đó để tịch thu vườn ấy. Ngươi sẽ nói với nó rằng : Yavê phán thế này : há ngươi đã giết người, ngươi lại tịch thu của nữa sao ?

 

Ðoạn người nói với nó rằng , Yavê phán thế này : Chính nơi chó đã liếm máu Nabôt, chó sẽ liếm máu ngươi, cả ngươi nữa !. Và Yavê cũng đã phán về Izabel nữa, chó sẽ ăn thịt Izabel bên tường lũy Yizrơel" (3V. 21, 17 - 19 ; 23).



 

Hai trường hợp trên đây của Êlia chống lại sự bái sùng ngẫu tương và sự bất công xã hội là sứ mệnh điển hình cho sứ mệnh tất cả các tiên tri Israel. Họ mang đến sứ điệp của Thiên Chúa, họ thức tỉnh lương tâm của những người làm điều xấu, họ phô bày ý nghĩa của lời Giao Ước Thiên Chúa đối với Dân Người và sự sa đọa của vua cũng như của dân trong đời sống luân lý của họ. Vương quốc của sự tội mạnh mẽ đến cực độ. Chính các vị tiên tri, với sự trợ lực của Thiên Chúa hạn chế được một phần nào.

 

ÊLISA. Là phụ tá của Êlia, và khi biến khỏi mặt đất thì Êlia đã để lại áo choàng của mình (tượng trưng cho sứ mệnh của ông) cho Êlisa. Câu chuyện Êlisa cũng là một chuyện chống đối lực lượng sự ác trong vương quốc miền bắc. Nhưng ông được mô tả trong sách Các Vua III và IV, như là một người hay làm phép lạ. Ông đã làm cho con trai của một người Ihunem đã chết được sống lại (4V. 4, 25 - 37) ; đã làm cho bánh mỳ hóa ra nhiều để đủ cho nhiều người ăn (4V. 4, 42 - 44) ; và đã chữa cho Naaman khỏi bệnh phung (4V, chương 5). Trong những trường hợp này ta thấy rõ quyền lực các tiên tri của Thiên Chúa đối với sự chết và bệnh tật là hai đặc điểm của vương quốc satan. Qua tất cả những điều đó, Êlisa thật là một người tiền hô của Ðức Kitô, vị tiên tri vĩ đại, Ngài cũng sẽ hành động như thế.

 

AMOS VÀ HÔSÊ (Ðọc Amos các chương 1 - 9 ; Hôsê các chương 1 - 14 nhất là các chương 1 - 3, chương 11 và 14).

 

Ðây là hai vị tiên tri đã viết lần đầu tiên, nghĩa là hai vị tiên tri đã để lại những lời sấm và giáo huấn của họ bằng những quyển sách có chữ viết mang tên của họ. Cả hai vị tiên tri này nhiều điểm giống nhau, bởi vì sứ mệnh của họ đều ở vương quốc Israel vào khoảng 750 trước TCGS. Lúc đó Israel đang phồn thịnh dưới triều đại của Yêrôbôam II, một người khôn lanh việc trần thế. Nhưng về tính tình và về tầm quan trọng, thì hai vị khác nhau rõ ràng.



 


Каталог: wp-content -> uploads -> downloads -> 2011
2011 -> CÔng đỒng vatican II qua bốn thập niêN
2011 -> TÒa giám mục xã ĐOÀi chỉ nam giáo phận vinh lưỢC ĐỒ TỔng quáT
2011 -> 1. phép lạ thánh thể ĐẦu tiên khoảng năm 700 Tại làng Lanciano, nước Ý (italy)
2011 -> Thiên chúa giáo và tam giáO Đường Thi Trương Kỷ
2011 -> Tác giả Võ Long Tê chưƠng I bối cảnh lịch sử
2011 -> LỊch sử truyền giáo tại việt nam quyển II lm. Nguyễn hồng chưƠng I: MỘt cha dòng têN Ở việt nam tới rôMA
2011 -> Các mẫu thức MẠc khải lm. Lê Công Đức
2011 -> Một lời nói đầu không phải là nơi nhiều chỗđể tóm lược lập luận của một cuốn sách cũng như định vị hoặc phát biểu về sựquan trọng của nó. Đây quả thực là một cuốn sách rất quan trọng
2011 -> LỜi giới thiệu suy tư ban đẦu về MẦu nhiệm giêSU

tải về 0.95 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương