Số 82 Ngày 25. 01. 2009 cn thường niên 3B



tải về 419.35 Kb.
trang2/5
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích419.35 Kb.
#30080
1   2   3   4   5

TRÊN CON ĐƯỜNG TRỞ VỀ




(Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng)

Linh Mục Anphong Trần Đức Phương

 

Mùa Thường Niên là mùa để chúng ta sống lại những biến cố cuộc đời của Chúa Giêsu trên bước đường rao giảng Tin Mừng Nước Trời.



  Muốn đi vào Nước Trời, việc đầu tiên phải làm là sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi, thực lòng ăn năn trở lại và tin vào Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng. Đó là tư tưởng chính trong Chúa Nhật hôm nay và cũng là tư tưởng chính trong Bài Tin Mừng (Matcô 1, 14-20). Tinh thần sám hối tội lỗi cũng được nói đến trong bài Đọc I (Giôna 3, 1-5, 10): Dân thành Ninivê thời đó đã sống trong trụy lạc, nhưng nghe lời tiên Tri Giôna kêu gọi, cả dân thành đều ăn năn sám hối, quyết tâm từ bỏ tội lỗi, ăn năn đền tội, và Chúa đã tha thứ mọi tội lỗi của họ. Trong Bài Đọc II (1 Corintô 7, 29-31), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta hãy nhớ cuộc đời của mỗi người rồi sẽ qua đi, qua đi nhanh chóng, nên hãy vui sống cuộc đời của mình, nhưng đừng quá bám víu vào bất cứ điều gì thuộc thế gian.

  Vào Mùa Chay , chúng ta hãy hát bài "Trên Con Đường Trở Về" (Mi Trầm) để khơi dậy trong chúng ta lòng thống hối ăn năn, từ bỏ tội lỗi, trở về với Chúa. Nhưng không phải chỉ Mùa Chay chúng ta mới thống hối, mà đó là việc phải làm từng giây phút suốt cuộc đời.

  Chính trên con đường trở về, quyết tâm trở về, mà bao 'tội nhân' đã trở nên 'Thánh Nhân', như Madalêna, Augustinô, Phanxicô khó khăn, Charles de Foucauld… và nhiều, rất nhiều nữa mà chúng ta không biết hết được. Đó là những đứa con phung phá trở về với người Cha nhân hậu của mình (Luca 15, 11-24).

  Như những đứa con phung phá, chúng ta quyết tâm trở về, ăn năn sám hối, làm việc đền tội và tin vào Tin Mừng tình thương của Chúa, rồi cuộc đời chúng ta sẽ  đổi  mới , sẽ tươi sáng hơn, dù vẫn phải sống giữa trăm chiều thử thách.

  Thay vì ngồi đó để than thân trách phận, bi quan yếm thế, phê bình chỉ trích, oán hận người khác, chúng ta hãy trở về trước hết với con người của chính mình, hãy đấm ngực chính mình và xoay chuyển cuộc đời theo hướng dẫn của Tin Mừng, chúng ta sẽ gặp thấy Chúa như người Cha thật dễ thương, đầy lòng nhân hậu, chứ không phải chỉ là một quan án nghiêm khắc. Có những lúc chúng ta gặp đau khổ, bệnh họan, thử thách; đó là lẽ thường tình của cuộc đời mỗi người và cũng là dịp để thanh luyện tâm hồn chúng ta, chứ không phải 'vì Chúa bắt tội chúng ta!'

Rồi chúng ta cũng sẽ có cái nhìn đổi mới với mọi người. Chúng ta sẽ thấy người chồng của chúng ta thật dễ mến, người vợ của chúng ta cũng đáng yêu như thuở ban đầu, và những đứa con là cả một hồng ân Chúa ban. Những người mà trước đây chúng ta 'ghét cay, ghét đắng' vẫn là những con người có những nét dễ thương và vẫn có thể trở nên người bạn thân của chúng ta.  

Hơn nữa, nhờ ơn Chúa, sau khi đã biến đổi con người của mình, chúng ta sẽ có thể nên 'Muối và Ánh Sáng' (Matthêu 5, 13-16). Chúng ta sẽ có sức biến đổi mọi người chung quanh chúng ta. Chúng ta sẽ vui tươi hơn với cuộc đời, với mọi người và hăng hái tiếp tục công trình rao giảng Tin Mừng hạnh phúc của Chúa cho mọi người.

Mùa đông tuyết sa, bão tố rồi cũng sẽ qua đi. Mùa Xuân vĩnh cửu sẽ đến vào cuối cuộc đời của chúng ta, và Nước Trời sẽ mở rộng đón tiếp chúng ta.




CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN NĂM B.

      Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay đều xoay quanh chủ đề lời đáp trả không một chút đắn đo hay tính toán hơn thiệt trước tiếng gọi thần linh.

      Gn 3: 1-10

      Dân thành Ni-ni-vê mau mắn và không chút trì hoản ăn năn sám hối trước lời rao giảng của ngôn sứ Giô-na.

      1Cr 7: 29-31

      Thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-rin-tô hãy sống hết mình ơn gọi Ki tô hữu vì chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của ơn cứu độ.

      Mc 1: 14-20

      Trước tiếng gọi của Đức Giê-su, các môn đệ đầu tiên đã đáp trả tận mức.

      BÀI ĐỌC I (Gn 3: 1-10)

      Sách Giô-na được viết theo thể loại ngụ ngôn luân lý, theo đó trí tưởng tượng trộn lẫn với óc khôi hài, nhưng bài học khuyến thiện của nó mở ra những viễn cảnh phổ quát.

      Tác giả vô danh nầy sống vào thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên. Nhân vật chính của sách là Gio-na, thực thi sứ vụ ngôn sứ của mình cho dân thành Ni-ni-vê vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, ấy vậy, thành đô nầy đã bị phá hủy vào năm 612 trước Công Nguyên, tức là thành đô nầy đã không còn nữa trước đó gần hai thế kỷ. Vì thế, bối cảnh của chuyện kể là hư cấu và nhân vật là hoang đường.

      1. Bài học của câu chuyện.

      Tuy nhiên, điều cốt yếu không phải ở nơi tính lịch sử của câu chuyện nhưng bài học mà câu chuyện muốn gởi gắm. Việc chọn thành đô nầy có một ý nghĩa chính xác: Ni-ni-vê là kinh thành của đế quốc Át-sua vào thời cực thịnh. Đây là thành phố thù địch không đội trời chung với dân Do thái, và là biểu tượng tinh hoa của thế giới ngoại giáo.

      Ấy vậy, vị ngôn sứ chỉ cần rảo bước qua một phần ba kinh thành, toàn dân đã ăn năn sám hối rồi. Đây mới thật sự là một bài học để đời cho dân Ít-ra-en. Làm thế nào không nghĩ đến vừa mới đây không bao lâu ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã tuyên cáo những lời đe dọa tương tự về Giê-ru-sa-lem để kêu gọi dân thành ăn năn sám hối; nhưng triều thần và chính vua đã ra lệnh đốt sách ghi những sấm ngôn của vị ngôn sứ. Vì thế, đó là lý do tại sao kinh thành Giê-ru-sa-lem đã bị đánh chiếm và bị phá hủy, còn dân chúng đã phải sống kiếp lưu đày ở đất khách quê người.

      Chính Đức Giê-su nêu gương sám hối của dân thành Ni-ni-vê như một bài học cho thế hệ của Ngài: "Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ nầy và sẽ kết án họ, vì xưa dân nầy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa" (Mt 12: 41).

      2. Ơn cứu độ phổ quát.

      Thật ra, nhân vật chính của sách không là ngôn sứ Giô-na mà chính là Đức Chúa, Ngài không chỉ là Thiên Chúa của dân Ít-ra-en, nhưng còn Thiên Chúa của muôn dân muôn nước nữa. Ngài bận lòng về những tội lỗi của một dân ngoại giáo, nhưng trước khi trừng phạt, Ngài sai một vị ngôn sứ đến với họ như Ngài đã từng làm đối với dân Chúa chọn. Như vậy, Đức Chúa ban khả năng cứu độ cho hết mọi người không trừ một ai. Ngài chỉ cốt đe dọa để đánh thức lương tri và thúc dục lòng ăn năn sám hối, vì thế tấm lòng từ bi nhân hậu của Ngài trải rộng ra với hết mọi người.

      BÀI ĐỌC II (1Cr 7: 28-31)

      Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Cô-rin-tô. Thánh nhân trả lời những vấn đề chính xác mà cộng đoàn đã nêu lên cho ngài, đoạn ngài loan báo một vấn đề cốt yếu: "Tôi xin nói với anh em điều nầy: thời gian chẳng còn bao lâu nữa".

      1. Lời loan báo gây sững sốt.

      Thật không may, bản dịch: "thời gian chẳng còn bao lâu nữa" không thể lột tả hết tư tưởng của thánh nhân. Theo nguyên ngữ Hy lạp, lời loan báo nầy gợi lên một hình ảnh rất sống động: "đây là lúc thuận tiện, các buồm thuyền đã được cuốn lại" khi con thuyền sắp cập bến. Vì thế đây là thời gian sẳn sàng vì người ta sắp cặp bến. Từ đó, thái độ phải có đối với tín hữu là hãy hành xử như người sắp cặp bến đời đời.

      2. Phần chứng minh.

      Tiếp đó, phần chứng minh được móc nối vào nhau như một chuỗi móc xích rất tự nhiên: từ nay, những ai sống đời sống vợ chồng đừng gắn bó với những ham muốn xác thịt; những ai sống trong phiền muộn, đừng than khóc như những người không có niềm hy vọng; những ai sống trong niềm vui hãy nghĩ rằng hạnh phúc trần thế chỉ là thoáng qua chóng tàn; những ai có nhiều của cải đừng cho mình là chủ nhân, vân vân.

      3. Ý hướng của thánh nhân.

      Phải chăng thánh nhân nghĩ rằng ngày Chúa quang lâm sắp đến gần rồi? Điều nầy không loại trừ, nhưng không cần thiết. Thánh nhân đã khai triển chủ đề nầy rồi. Trong thư thứ nhất gởi cho tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, dường như thánh nhân hy vọng rằng thế hệ của ngài vẫn còn sống vào "ngày Chúa quang lâm" (1Th 4: 15). Nhưng trong thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh nhân nghĩ rằng ngày Chúa quang lâm sẽ đến khi nào toàn thể dân Ít-ra-en ăn năn sám hối: "Một phần dân Ít-ra-en đã ra cứng lòng, cho đến khi các dân ngoại gia nhập đầy đủ. Như vậy, toàn thể Ít-ra-en sẽ được cứu độ…" (Rm 11: 25-26). Đối với thánh nhân, cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki tô đã tăng tốc Lịch Sử Cứu Độ, có thể nói như vậy. Chúng ta đã đi vào trong kỷ nguyên cứu độ, nghĩa là sống trong giai đoạn chung cuộc. Như vậy, cách sống của những người Ki tô hữu phải khác với dân ngoại. Chúng ta không được sống nước đôi, lập lờ đánh lận con đen, vì chúng ta biết rằng thế giới nầy đang qua đi.

      TIN MỪNG (Mc 1: 14-20)

      Khi nghe tin Gioan Tẩy bị bắt, Đức Giê-su cho rằng cẩn trọng hơn nên rời bỏ miền Giu-đê trở lại miền Ga-li-lê. Giờ Ngài chưa đến để đón nhận số phận tương tự.

      Ấy vậy, vua Hê-rô-đê An-ti-pa, người đã ra lệnh bắt giam Gioan Tẩy giả, đang cai trị xứ Ga-li-lê. Vì thế, xem ra Đức Giê-su muốn lánh xa Giê-ru-sa-lem, lánh xa trung tâm quyền lực Do thái giáo. Quả thật, Tin Mừng Gioan viết: "Nhóm Pha-ri-sêu nghe tin Đức Giê-su thâu nạp nhiều môn đệ hơn ông Gioan…Biết thế, Đức Giê-su bỏ miền Giu-đê mà trở lại miền Ga-li-lê" (Ga 4: 1-3).

      1. Sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su (1: 14-15).

      Vào thời đó, miền Ga-li-lê là "ngã ba quốc tế", vì các đoàn quân ngoại quốc và các thương nhân đều phải qua lại ở nơi nầy; và từ lâu được mệnh danh là "miền đất của dân ngoại" (Is 8: 28) vì ở đây dân Do thái không chỉ sống chung với dân ngoại nhưng còn là nơi tiếp xúc với muôn dân. Vì thế, khi định vị sứ vụ đầu tiên của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê, thánh Mác-cô muốn nhấn nhấn mạnh rằng sấm ngôn về ơn cứu độ phổ quát của ngôn sứ I-sai-a đã được ứng nghiệm nơi sứ điệp đầu tiên của Đức Giê-su: "Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi" (Is 9: 1).

      Tiếng nói của vị Tiền Hô không còn vang lên nữa. Sứ mạng dọn đường cho Tin Mừng đã đến hồi kết thúc. Từ đây chính Đấng là hiện thân Tin Mừng xuất đầu lộ diện. Chúng ta ghi nhận rằng Đức Giê-su bắt đầu sự vụ của mình ở Ga-li-lê với lời công bố tương tự như lời công bố của Gioan Tẩy giả, nhưng có một điểm khác biệt cốt yếu, sứ điệp không còn hướng đến tương lai, nhưng nhấn mạnh hiện tại: "Thời kỳ đã mãn".

      2. Thâu nạp các môn đệ đầu tiên (1: 16-20).

      Câu chuyện của Mác-cô rất sâu sắc. Si-mon và An-rê đang thực hành nghề nghiệp của mình: "quăng lưới bắt cá". Trước lời mời gọi của Đức Giê-su, họ bỏ lại những ngư cụ và lợi tức nghề nghiệp của mình mà theo Ngài. Đối với Gia-cô-bê và Gioan, đoạn tuyệt còn dứt khoát hơn, không chỉ bỏ lại sau lưng nghề nghiệp của mình mà còn cả người cha già mà họ có bổn phận giúp đỡ nữa.

      Qua Tin Mừng Gioan, chúng ta biết rằng cuộc gặp gỡ nầy chắc chắn không là cuộc gặp gỡ đầu tiên. Trước đó không bao lâu, ở miền Giu-đê, họ đã có một cuộc nói chuyện nhớ đời với Đức Giê-su rồi…(Ga 1: 35-42).

      Thánh Lu-ca đặt việc Đức Giê-su thâu nạp các môn đệ đầu tiên tiếp liền sau mẽ cá diệu kỳ. Thánh Mác-cô, cũng như thánh Mát-thêu, cho sự dấn thân của các chàng thanh niên nầy một tính chất bất ngờ và không chút trì hoản, như vậy nhấn mạnh rằng hành động dứt khoát của họ là lời đáp trả, không phải trước nhà phép thuật thần thông nhưng trước một bậc tôn sư khôn sánh có sức quyến rũ không thể nào cưỡng kháng được.

      3. Tận hiến.

      Ơn gọi của bốn ngư phủ miền Ga-li-lê trở nên mẫu mực. Đức Giê-su gọi: Thiên Chúa luôn luôn đi bước trước, tiếp đó, thái độ đáp trả không một chút so đo, không tính toán hơn thiệt: từ bỏ nghề nghiệp, lợi tức và gia đình.

      Hoạt cảnh những người con của ông Dê-bê-đê từ giả gia đình trái ngược với những hoạt cảnh khác trong đó tấm lòng nhân hậu của Đức Giê-su bày tỏ khi Ngài trao lại bé gái cho cha mẹ em (Mc 4: 29), cậu trai thành Na-in cho bà mẹ góa của cậu (Lc 7: 15), và cậu La-da-rô cho hai người chị của cậu (Ga 11: 32-44); nhưng với những ai mà Ngài muốn liên kết vào sứ mạng của Ngài một cách tròn đầy và tận mức, Đức Giê-su đòi hỏi một tinh thần siêu thoát tuyệt đối: "Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy" (Mt 10: 37).

      Các cộng đoàn Ki tô giáo tiên khởi nghe và đọc trang Tin Mừng nầy, họ biết sự từ bỏ nầy đã dẫn những người được gọi lúc ban đầu nầy đi cho đến tận đâu: Gia-cô-bê, vị Tông Đồ đầu tiên đã được phúc tử đạo vào năm 44. Vị Tông Đồ nầy chắc chắn đã qua đời rồi khi thánh Mác-cô ghi những dòng chữ nầy. Còn thánh Phê-rô, chắc chắn đã gợi lên nhiều lần cho cộng tác viên của mình, hoạt cảnh trên bờ hồ Ti-bê-ri-át nầy, cũng đã chịu khổ hình ở Rô-ma, có lẽ vào năm 64.

Lm. Ignatiô Hồ Thông


Mục Lục



tải về 419.35 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương